Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ)

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch). Tóm tắt Câu chuyện kể về cô bé Assol, sống cùng cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc! Đánh giá Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn. Tác phẩm được viết theo phong cách lãng mạn, với những câu văn nhẹ nhàng, bay bổng, mang đậm chất thơ. Câu chuyện kể về tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Nội dung câu chuyện Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là cô bé Assol. Assol là một cô bé mồ côi mẹ, sống cùng cha là người thủy thủ nghỉ hưu. Cha của Assol là người rất yêu thương con gái, ông luôn dành cho cô sự quan tâm và chăm sóc chu đáo. Assol là một cô bé có tâm hồn trong sáng, ngây thơ và luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông già Elge là một người kỳ lạ, ông có thể nhìn thấy trước tương lai. Ông đã kể cho Assol nghe về một lời tiên tri: một ngày nào đó, một chàng hoàng tử sẽ đến đón Assol trên một con tàu có cánh buồm đỏ thắm. Lời tiên tri của ông già Elge đã khiến Assol vô cùng vui mừng. Cô luôn tin tưởng vào lời tiên tri đó và luôn mong chờ đến ngày chàng hoàng tử sẽ đến. Cha của Assol cũng biết về lời tiên tri đó. Ông không tin vào những điều thần bí nhưng ông cũng không muốn con gái mình thất vọng. Ông luôn động viên Assol tin tưởng vào những điều tốt đẹp và luôn cố gắng sống tốt để xứng đáng với tình yêu của chàng hoàng tử trong tương lai. Những năm tháng trôi qua, Assol vẫn luôn tin tưởng vào lời tiên tri. Cô vẫn luôn chăm chỉ học tập và rèn luyện bản thân để trở thành một người con gái ngoan ngoãn, xinh đẹp. Một ngày nọ, một chàng trai tên Arthur Gray đến làng Kaperna. Arthur Gray là một chàng trai trẻ đẹp, giàu có nhưng lại không thích cuộc sống giàu sang mà muốn được sống tự do, tự tại trên biển cả. Khi đi dạo trong rừng, Arthur Gray đã gặp Assol đang ngủ. Anh đã bị vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ của Assol thu hút. Anh đã cởi chiếc nhẫn của mình và đeo cho Assol mà cô không hề hay biết. Sau đó, Arthur Gray đã tìm hiểu về Assol và biết được về lời tiên tri mà cô tin tưởng. Anh đã quyết định thực hiện lời tiên tri đó. Anh đã mua một con tàu có cánh buồm đỏ thắm và đến đón Assol. Khi thấy con tàu có cánh buồm đỏ thắm xuất hiện, Assol vô cùng vui mừng. Cô đã tin rằng chàng hoàng tử trong lời tiên tri đã đến. Cô đã cùng cha lên tàu và cùng Arthur Gray đi đến một miền đất mới, nơi có hạnh phúc và niềm vui. Ý nghĩa câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Câu chuyện ca ngợi tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp. Tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, thử thách để đến với nhau. Tình yêu của Assol và Arthur Gray là một tình yêu đẹp, chân thành và đáng trân trọng. Ước mơ là động lực để con người cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Ước mơ có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được thành công. Ước mơ của Assol là một ước mơ đẹp, một ước mơ đáng được ghi nhận. Niềm tin là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Niềm tin có thể giúp con người đạt được ước mơ. *** “Thức tỉnh đi! Đừng có ở đó mà mơ mộng nữa, chẳng bao giờ có ông bụt hay bà tiên nào cả! Cuộc đời không giống như là mơ đâu!”. Chắc hẳn rằng, sẽ có đôi lúc, ai trong chúng ta cũng tự nhủ với lòng mình như vậy! Nhưng sống là phải có ước mơ chứ! Cho dù ước mơ của bạn chỉ nhỏ bé thôi nhưng nó lại là một ước mơ đẹp thì hãy đặt niềm tin vào đó, bạn sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc! Nếu bạn sống trong cuộc đời này mà chưa có lấy một ước mơ cho riêng mình thì tôi khuyên bạn nên bớt chút thời gian đọc cuốn sách  Cánh buồm đỏ thắm - The Scarlet Sails  của nhà văn Aleksandr Grin, cuốn sách sẽ giúp bạn nhận ra niềm tin, ước mơ có sức mạnh to lớn đến chừng nào! Cánh buồm đỏ thắm  là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Nga Aleksandr Grin (1880-1932) - một nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa tân lãng mạn. Đúng như chủ nghĩa văn học mà ông theo đuổi,  Cánh buồm đỏ thắm  cũng là một tác phẩm thuộc dòng cảm hứng ấy, nó như câu chuyện cổ tích thời hiện đại cứ dạt dào âm vang, làm sống dậy niềm tin yêu của bao thế hệ đã từng một lần đọc truyện. Đừng nghĩ rằng câu chuyện viết  chỉ  dành cho lứa tuổi thiếu niên mà chính mà ai trong các bạn cũng nên đọc một lần để thấy rằng khi không có niềm tin, có ước mơ thì cũng chúng ta đã sống hoài, sống phí cuộc đời này như thế nào!   Cô bé Assol sống với cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Khi ấy cô gái bé nhỏ chưa tròn một tuổi. Cha cô - Longren đã từ bỏ nghề thuỷ thủ mà ông gắn bó đã mười năm để ở nhà chăm sóc cô, ông làm các đồ chơi với những hình ảnh gợi về nghề thủy thủ để bán kiếm tiền. Khi Assol lớn hơn một chút ông để con gái tự mang đồ đi bán. Một lần trong khi mang đồ chơi đi ngang qua cánh rừng, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc!   Tình phụ tử - sức mạnh tinh thần bất diệt.   Mở đầu câu chuyện không hề có hình ảnh ngôi làng Kaperna yên bình, ấm no hay màu xanh tươi mát trong lành của nước biển, mà nó bắt đầu với hình ảnh của một bầu trời xám xịt, đen tối. Mary - vợ của người thủy thủ kì cựu Longren dù mệt mỏi, kiệt sức nhưng với tình yêu thương con chị vẫn cố gắng xuống phố đổi chiếc nhẫn - gia sản cuối cùng của chị để lấy tiền mua thức ăn cho con mà chẳng bận tâm đến sức khoẻ của mình. Đêm đông lạnh buốt, đói rét bao trùm đã khiến chị bị viêm phổi nặng, người phụ nữ nghèo khổ ấy đã qua đời một tuần sau đó để lại đứa con thơ. Đó là một nỗi đau lớn đối với Longren, nỗi đau tinh thần chẳng loại thuốc nào có thể chữa khỏi! Đó không chỉ là một sự mất mát vô cùng to lớn đối với ông mà đồng thời đó cũng là vết thương lòng sâu sắc, ảnh hưởng đến đứa con gái bé bỏng Assol, sinh ra mà chưa thể cảm nhận hết tình yêu thương của người mẹ. Nhân vật Longren được tác giả Aleksandr khắc họa là một người trầm tính, lạnh lùng nhưng cũng sống rất tình cảm. Hiểu được những thiếu thốn của đứa con gái thân yêu khi không được hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, ông càng yêu thương con hơn bao giờ hết. Longren luôn cố gắng chăm sóc và yêu thương đứa con gái Assol của mình hết mức có thể, như là một sự bù đắp cho phần bỏ trống của tình yêu từ người mẹ. Khó có thể phủ nhận rằng tình thương con sâu nặng của Longren đã chạm mạnh tới cảm xúc người đọc như thế nào. Ông là đại diện của bao người cha, người mẹ. Ông lớn lao biết bao khi dịu dàng bảo vệ con gái mình giống như những người làm cha mẹ khác. Có thể nói, Aleksandr đã rất thành công trong việc truyền tải tình cha con thiêng liêng đến bạn đọc.  Longren có thể đánh đổi tất cả để bảo vệ con gái nhưng cũng có thể tàn nhẫn bỏ mặc kẻ thù trong tình cảnh lâm nguy. Kẻ thù ấy chính là Mecne - người không bao giờ có thể đội trời chung với ông. Ông căm giận hắn đến xương tuỷ. Vì hắn mà Mary phải chết. Cũng vì hắn mà đứa con gái ông yêu quý phải sống không có mẹ. Longren là thế đấy, tốt tính nhưng cũng rất tàn bạo với những ai chà đạp lên hạnh phúc gia đình mà ông luôn cố gắng gìn giữ. Longren chính là một biểu tượng của tình thương con cao cả!   Lời tiên đoán - động lực của niềm tin, của hạnh phúc trong mơ!   Cô gái bé nhỏ với cái tên đầy dễ thương: Assol, lại mồ côi mẹ, phải sống cùng cha Longren ở một hòn đảo nhỏ. Hai cha con bị mọi người trong làng hiểu lầm bởi những suy nghĩ và hành động khác thường, đâm ra ghét bỏ và kì thị. Nhưng đâu cần một lời giải thích, cũng chẳng cần một lời thanh minh với những người không hiểu chuyện, hai cha con vẫn cứ yêu thương, đùm bọc nhau mà sống, bỏ mặc ngoài tai sự chế giễu của người đời, sống cuộc sống chỉ là của riêng hai cha con thôi nhưng đó là sự bình yên hơn bao giờ hết! Assol đã được một ông già tiên đoán rằng: một ngày nào đó, khi cô lớn lên, sẽ có một hoàng tử đến đón cô trên một con thuyền lớn với những cánh buồm màu đỏ thắm. Với người dân trong làng Kaperna, sau khi câu chuyện đến tai họ, họ cho rằng đó là một lời tiên tri thật điên rồ. Bởi vì chưa từng có và chắc chắn rằng sẽ chẳng bao giờ có con tàu lớn, hay con tàu với cánh buồm đỏ thắm nào ghé đến hòn đảo nhỏ bé, nghèo nàn này cả. Ngay cả cha cô bé khi nghe câu chuyện cũng không tin là lại có một phép màu, một lời tiên đoán nào kì diệu đến thế, ông thầm nghĩ: “ Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi”.  Dù vậy, ông cũng không nỡ cướp mất niềm tin trong trẻo của đứa con thơ, ông luôn củng cố niềm tin ấy cho con, giúp con tránh xa những điều độc ác, giúp con luôn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng vào chính cuộc đời này! Chính nhờ những điều ấy mà  niềm tin của một đứa trẻ trở thành bất diệt. Assol tin vào điều đó và nuôi dưỡng giấc mơ đó từng ngày mặc kệ mọi người cười chê và cho rằng cô là người không bình thường. Cả ông già Elge nữa - người đã vẽ nên con tàu với cánh buồm đỏ thắm và tạo niềm tin đến tâm trí của cô bé Assol. Ông gieo một hy vọng đến cuộc đời của Assol với một lời tiên tri, một sự đoán trước tương lai rộng mở. Nó như một động lực để cô có thể đối mặt và bước tiếp trong cuộc sống đầy chông gai của mình. Chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ thôi, nhưng chính lời tiên đoán ấy đã thắp lên sự sống, niềm tin của Assol vào tương lai! Trong cuộc đời này cũng vậy, ai trong chúng ta cũng sẽ gặp những người dẫn đường, những người đã tiếp thêm sức mạnh để ta tiếp tục phấn đấu thực hiện ước mơ.   Ở vùng đất bên kia ngôi làng cũng có một ước mơ đẹp tựa như thế... "Chàng hoàng tử" trong truyện là con trai một gia đình giàu có - Arthur Gray. Ngay từ nhỏ, cậu bé đã không thích sống trong sự giàu sang quyền quý bên trong lâu đài kia, cậu hoàn toàn không thích thú gì với cái gọi là  “làm vẻ vang dòng dõi” .  Ước mơ của cậu bé là  được trở thành một thủy thủ. Để thực hiện ước mơ ấy, cậu rời nhà ra đi mặc sự can ngăn, doạ nạt của cha, cậu xin vào làm thủy thủ tàu Anselm. Ban đầu thuyền trưởng Hop có vẻ không tin cậu thiếu niên nhà giàu này có thể chịu được khắc nghiệt nơi đầu sóng  ngọn gió , nhưng qua chuyến đi biển dài ngày cùng cậu, Gray đã hoàn toàn làm thuyền trưởng Hop nể phục. Sau này, cậu rời bỏ thuyền Anselm để tự mua một con tàu cho riêng mình - tàu  "Bí mật" . Thay vì nối gót cha trở thành một ông chủ quyền thế, cậu chọn cho mình nghề thuyền trưởng, bạn đồng hành của cậu là chiếc thuyền lớn gắn bó với biển cả mênh mông. Đâu dễ dàng gì cho nghề thuỷ thủ ấy, có những lúc Gray phải hứng chịu những đau đớn khi  "vòng dây xích neo cuốn anh ngã đập người vào boong tàu, có khi dây chão không quấn được vào cọc trụ tuột khỏi tay anh làm bong cả mảng da tay, có khi một góc buồm ẩm ướt đính những vòng sắt bị gió thốc đập mạnh vào mặt anh;...".  Nhưng trong tim chàng trai ấy luôn rực cháy sức mạnh của tình yêu nghề, của chiến thắng, không bao giờ từ bỏ quyết tâm!   Hiện thực hoá ước mơ, lời tiên tri không còn là mộng tưởng... Một hôm, trên đường đi, đoàn  tàu của Gray đi ngang qua làng Kaperna (nơi Assol đang sống), chàng chợt có hứng muốn câu cá nên thủy thủ đoàn đã dừng chân ở đây. Tại bụi cỏ gần khu rừng họ nghỉ chân, Gray tìm thấy Assol đang ngủ và ngay lập tức yêu cô. Anh cởi chiếc nhẫn trên tay và nhẹ nhàng đeo cho cô mà cô chẳng hề hay biết. Sau đó, Gray vào làng để tìm hiểu thêm về cô gái mình vừa gặp, và biết được câu chuyện về con thuyền với cánh buồm đỏ. Muốn hiện thực hoá lời tiên tri mà dân làng từ trước đến nay vẫn luôn cười nhạo cha con Assol, anh đã chuẩn bị con tàu y hệt như lời kể và đến rước cô trong sự ngỡ ngàng của dân làng. Chính Gray đã làm được điều kỳ diệu đó, anh đã tự mình hiện thực hóa chuẩn xác và hoàn hảo đến từng chi tiết trong lời tiên tri của ông già Elge. Một buổi sớm mai, Gray - chàng hoàng tử của Assol xuất hiện. Chàng đến đón cô và cha trên con tàu với những cánh buồm màu đỏ thắm. Một tình yêu trong sáng và thuần khiết, họ yêu nhau từ lần gặp đầu tiên và biết đó chính là định mệnh. Câu chuyện tình yêu lãng mạn kinh điển này đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho những người trẻ thêm tin vào tình yêu chân chính. Không chỉ dừng lại ở một câu chuyện  tình  lãng mạn, nhà văn đã khéo léo truyền tải thông điệp đến với độc giả về niềm tin vào những điều kì diệu: Điều kì diệu trong cuộc sống là do chính chúng ta tạo nên và nắm bắt. “Tôi đang đến với người con gái đợi và chỉ đợi mỗi mình tôi, còn tôi thì không muốn ai ngoài cô ấy, có lẽ chính nhờ cô ấy mà tôi ngộ ra được một chân lý đơn giản. Đó là phải tự tay mình tạo ra những điều kỳ diệu” Không chỉ là ước mơ, là niềm tin, câu chuyện dần khép lại trong hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ cùng thông điệp ý nghĩa mà Gray sau bao năm sống cuộc đời của một người thủ lĩnh nhận ra rằng: “Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả.” Cánh buồm đỏ thắm  hệt như một câu chuyện cổ tích vậy. Assol, cô bé tin rằng - một ngày kia ước mơ sẽ quay trở lại - nhưng là trên một con tàu thực sự -  “một con tàu với cánh buồm đỏ thắm như tình yêu mà chàng hoàng tử sẽ dành cho cô” . Cuộc hội ngộ của hai nhân vật như một bản tình ca được viết nên từ những nốt nhạc thần tiên trong cổ tích, không toan tính, không vụ lợi, chẳng còn nỗi cô đơn và sự sợ hãi như cũng biến tan cùng bọt nước. Cánh buồm đâu chỉ đơn thuần là dấu hiệu để họ nhận ra nhau giữa biển cả bao la mà chính cái màu đỏ thắm ấy như ẩn dụ cho màu của niềm tin và sự trân quý những giá trị đẹp đẽ trong cuộc đời. Màu đỏ như màu nắng soi sáng cho con người để họ không đi vào con đường lầm lạc, để tâm hồn cô bé Assol không bị hoen ố, lụi tàn bởi những cái xấu xa, để chàng trai Gray không còn đắm mình trong nỗi cô đơn đến nỗi không nhận ra mình phải làm gì, phải đi kiếm tìm điều gì trong cuộc đời mênh mông vô định…   Những câu văn ngọt ngào trải dài từng trang sách mỏng, khiến người đọc phải ngất ngây trong một cảm xúc khó diễn đạt thành lời:  “Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây, để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước, chúng ta sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến nỗi buồn và nước mắt” . Dịu dàng và ấm áp, chàng trai đưa cô lên thuyền, đi về xứ sở xa xăm - nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để đón chào ngày mới… “Câu chuyện thần thoại mà người đời sau sẽ còn nhớ mãi, có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một con tàu với cánh buồm đỏ thắm, uy nghiêm rẽ sóng lướt đi, tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương. Rồi từ con tàu đó, sẽ có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đứng trên thuyền, đến đây để đưa em đi mãi mãi về xứ sở của chàng”. Lời kết.  Cánh buồm đỏ thắm  là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Aleksandr Grin. Tác phẩm được ông tận tâm sáng tác trong sáu năm, từ năm 1916 đến 1922 mới hoàn tất và đã được hãng Mosfilm chuyển thể thành phim năm 1961, được sự đón nhận của rất nhiều độc giả ở khắp mọi nơi trên thế giới! Các bạn có thể xem phim cũng có thể đọc truyện nhưng với những ai muốn tự mình cảm nhận, muốn hiểu tận sâu ý nghĩa của câu chuyện thì hãy một lần tìm đến một trong những quyển sách tuyệt vời này nhé! Mong rằng sau khi gấp cuốn sách lại, bạn sẽ tìm ra ước mơ của chính mình, sống một cuộc đời thật ý nghĩa hơn bao giờ hết!  Review chi tiết bởi Kim Chi –  Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bùn Pha Sắc Xám - Anthony Grey
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Bùn Pha Sắc Xám của tác giả Anthony Grey.
Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao
Nhà văn Uyên Thao tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953, ông cộng tác với nhiều tờ báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật. Sở trường của ông là sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tác phẩm của nhà văn Uyên Thao gồm đủ thể loại trong đó có những tác phẩm đã in trên báo và xuất bản như hai cuốn tiểu thuyết “Những Con Cọp Cháy Móng” đăng trên Tạp chí Sinh Lực-Sài Gòn từ năm 1959 đến 1961, “Trống Trận” đăng trên Nhật báo Tin Sáng vào năm 1964 và cuốn dã sử tiểu thuyết “Trong Ánh Lửa Thù” đăng trên Nhật báo Người Việt California từ năm 1996 đến 1997, và tập thơ viết trong tù “Không Tên” 1992. Ông cũng là nhà phê bình văn học với hai tác phẩm “Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960” gồm 6 tập do Nhà Xuất Bản Hồng Lĩnh ấn hành tại Sài Gòn năm 1970 và “Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970” do Nhà Xuất Bản Nhân Chủ ấn hành tại Saigon năm 1973. Ông cũng sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970 đến 1974. Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999, nhà văn Uyên Thao đã nghĩ đến chuyện thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Nhà văn Uyên Thao cho biết thêm là Tủ Sách Tiếng Quê Hương nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng việc này. “Tôi sang đây hơi trễ nhưng ngay khi mình nghĩ tới tủ sách này thì tôi viết thư cho tất cả những người bạn cũ tôi có được địa chỉ thì hầu như ai cũng sẵn sàng tiếp tay, ai cũng sẵn sàng ủng hộ. Chính vì vậy mình mới có thể thành lập được tủ sách.” Tủ Sách Tiếng Quê Hương được thành hình vào đầu năm 2000 vài tháng sau khi nhà văn Uyên Thao đặt chân lên nước Mỹ và tác phẩm đầu tiên được phát hành vào tháng 9 cùng năm là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. *** S áu năm sau đêm Trung Chính đẫm nước mắt cầm kiếm lệnh phóng ngựa như điên rời Thăng Long, đại quân Thát Đát tràn qua bắc thùy. Giữa mùa đông năm Tỵ, Ngột Lương xua quân từ Quí Châu, Vân Nam tiến vào đất Đại Việt. Kỵ binh Thát Đát xoài vó dọc dẫy Tượng Sơn theo tả ngạn sông Thao ào ạt tiến về xuôi. Các cứ điểm phòng thủ của quân Đại Việt từ Ngã Ba Hạc tới Phù Lỗ bị tràn ngập mau chóng trước sức tấn cônc) như vũ bão. Cuộc chiến đấu giữ nước được chuẩn bị gần mười năm vẫn không ngăn nổi quân Thát Đát tiến thẳng về Thăng Long. Triều đình bỏ kinh thành cho Thát Đát chiếm đóng. Thế nước chông chênh như bánh xe đang lăn trên bờ vực. Nhà vua băn khoăn hỏi Quốc Sư Thủ Độ: - Tình thế này liệu còn cách nào vượt khỏi nguy vong chăng? Vị lão thần nghiêng mái đầu bạc trắng về phía nhà vua. Cặp mắt trĩu ưu tư của ông quắc lên. Giọng ông trầm trầm nhưng quyết liệt, nhấn rõ từng lời: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo! Hơn một tháng sau, quân Đại Việt từ các lộ Hông, Khoái, Trường An, Thiên Trường dồn về phản công địch tại Đông Bộ Đầu, khôi phục kinh thành. Ngột Lương chuyển quân qua hữu ngạn sông Thao, gom lực lượng tại Qui Hoá, chuẩn bị mở đợt tấn công thử nhì về Thăng Long. Các thám tử Thát Đát trong vùng được lệnh cấp tốc về gặp chủ tướng Ngột Lương để tường trình về địa thế và quân tình Đại Việt. Cùng lúc Ngột Lương cho dựng trại chờ hội quân, chủ quán Quốc Oai khách điếm một mình một ngựa băng rừng tiến sâu vào miền tây bắc Qui Hoá, hướng về căn cứ Khau Pho. Hai ngày sau đó, kỵ binh Thát Đát nhận chịu một cuộc tấn công chưa hề gặp trên khắp các chiến trường từng in dấu chân ngựa của họ. Trong lúc cánh quân triều đình của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn từ lộ Quốc Oai vượt Trung Ha tiến lên, nghĩa binh lộ Qui Hoá dưới sự dắt dẫn của thủ lãnh Lý Trung Chính xuất hiện như tiếng sét bất ngờ nổ giữa trời trong, cắt nát kỵ binh Thát Đát thành từng toán nhỏ. Cuộc phối hợp giữa quân triều đình và nghĩa binh Qui Hoá dồn lực lượng Thát Đát vào thế bị động hoàn toàn từ phút khởi đầu trận đánh. Lần đầu tiên đoàn kỵ binh bách thắng khắp hoang mạc Bắc Á vừa xéo nát đế quốc Ba Tư và chinh phục Đại Lý lâm cảnh tan vỡ kinh hoàng. Những chiến sĩ áo chàm chập chờn biến hiện như những bóng ma và dũng mạnh như một bầy sư tử. Ngột Lương phải ra lệnh mở đường máu thoát thân, cuốn vó chạy dài về phương bắc dưới sự truy sát bén gót của quân Đại Việt. Những ngày cuối cùng của mùa đông năm Tỵ cũng là những ngày cuối cùng của ba vạn chiến binh Thát Đát vừa hung hăng vượt bắc thùy Đại Việt ít ngày trước đó. Ngột Lương chỉ còn vài chục thân tùy cắm đầu chạy không kịp thở, cố tránh thật xa đoàn quân áo chàm của chàng trai có cặp mắt như bốc lửa và cánh tay gươm không hề mệt mỏi. Vào lúc chờ nghĩa binh thu dọn chiến trường để tập hợp về xuôi, Lý Trung Chính trầm ngâm trên yên ngựa nhớ lại những người từng sát cánh bên chàng. Chàng nhớ tới người chú họ Lý Bảo Tuấn hầu như không lúc nào rời chàng nửa bước. Với tuổi già bảy chục, ông vẫn giữ nguyên khí phách của viên tướng trẻ lừng danh Trung Dũng Hầu thuở trước. Luôn luôn xông xáo trên đầu các hàng quân, ông chỉ chịu ngưng khi nhận một mũi tên Thát Đát cắm suốt qua tim. Trung Chính thở dài nhủ thầm: - Dù sao thì chú cũng hài lòng vì đã dự phần làm sống lại trận Như Nguyệt ngày xưa. Mời các bạn đón đọc Trong Ánh Lửa Thù của tác giả Uyên Thao.
Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh
“Những dấu chân của mẹ là tập 3 trong bộ ba tiểu thuyết Người kinh đô cũ (NXB Hội Nhà văn, 2004), Lửa kinh đô và Những dấu chân của mẹ (…). Hai nhân vật chính là Nguyễn Phúc Bửu Toàn và Đoan Thuận đã xuyên suốt tác phẩm. Bửu Toàn là một vương gia Tây học, làm Chánh văn phòng Tòa khâm sứ Trung Kỳ nhưng bí mật hoạt động cách mạng đã góp phần cùng nhân dân Huế và cả nước làm nên Cách Mạng Tháng Tám. Đoan Thuận là nữ sinh Đồng Khánh, nữ sinh Khải Định (thời đó trường Đồng Khánh chưa có ban tú tài), cô giáo trường Việt Anh đã tham gia cách mạng với lòng yêu nước thiết tha và nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ” (LTS của tạp chí Sông Hương). *** Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị  là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải Phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, thư ký toàn soạn rồi phó tổng biên tập tạp chi Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức… cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Campuchia… đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú. Trong khoảng 40 năm cầm bút cho đến nay chị đã xuất bản tám tập tiểu thuyết, bảy tập truyện và ký, hai tập thơ. Chị là một nhà văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ nên đề tài chiến tranh là đề tài được chị quan tâm nhiều nhất (…). Mấy năm gần đây chị mở rộng đề tài. Chị muốn tái hiện lại một số giai đoạn lịch sử quan trọng của Huế qua các tác phẩm dài hơi như tiểu thuyết Người Kinh Đô Cũ (dày 576 trang), Con gái người cung nữ … Về mảng đề tài này chị cũng đã có những thành công nhất định (…) Hà Khánh Linh là một nhà văn làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã vượt qua mọi chông gai, thử thách trên đường đời để tự khẳng định mình. Tôi rất đồng tình với điều mà chị tâm niệm: “Viết là một cách sống, một thái độ ứng xử trước cuộc đời” *** Đi thăm cô Minh Lý về gần ngót hai tháng rồi mà Anh Thi vẫn chưa vơi được cảm giác bàng hoàng lâng lâng bay bổng rất thực mà lại như mơ. Nhất là những ngày bên cô Minh Lý tâm trạng Anh Thi lúc nào cũng chao đảo giữa hai thái cực: hạnh phúc và đau khổ, vui mừng và tuyệt vọng, thỏa mãn và bức xúc... Thậm chí, trong niềm thương yêu kính trọng vào cùng vào hạn đối với mẹ thỉnh thoảng lại cộm lên một chút giận hờn. Rồi giận ba, giận anh Vĩnh Tuấn và giận cả chính mình. Từ sau khi có được Anh Thi - đứa con yêu quý mà Đoan Thuận gửi cho - quan ngài Nguyễn Phúc Bửu Toàn cứ ở nhà đợi Đoan Thuận, chứ không hề cất công đi tìm kiếm như buổi ban đầu Đoan Thuận bỏ nhà ra đi... Vì sao ba hành xử như vậy hở ba? Còn anh Vĩnh Tuấn, những ngày anh ở Sài Gòn, cự ly giữa anh với “dì Đoan Thuận” rất gần mà anh không hề hay biết. Những lần anh qua lại trên đại lộ Lê Lợi thênh thang cái biển hiệu mỹ viện Phúc Toàn ít nhất cũng một lần đập vào mắt anh, mà anh không hề có một chút suy nghĩ liên tưởng gì sao? Chưa bao giờ anh có ý định đi tìm gặp “dì Đoan Thuận” hoặc mơ gặp “dì Đoan Thuận” giữa Sài Gòn hoa lệ một thời sao?!... Khi những câu hỏi này được bật nên lời, thì anh Vĩnh Tuấn suy nghĩ một hồi lâu rồi cất giọng chậm rãi, rành mạch, mắt hơi trừng một chút với cô em gái Anh Thi - như thuở nào cô còn bé bỏng vậy: - Chúng ta ai cũng thương nhớ, mong chờ, day dứt, đau đớn, khắc khoải... không biết dì Đoan Thuận còn hay đã mất, nếu còn thì đang ở đâu? Như thế nào? Ra sao?... Có thể nói mấy chục năm qua không khí gia đình ta chưa có lấy một ngày vui thật sự, vì tâm trạng ấy luôn đè nặng lên tâm thức của mỗi người. Còn dì Đoan Thuận thừa biết tất cả những tình cảm ấy của mỗi một người trong chúng ta dành cho dì, thừa biết chúng ta đang ở đâu, làm gì... Nhưng dì đã chẳng hề coi trọng điều đó. Đối với dì thì những nguyên tắc của Tổ chức là cao nhất! Phương thức sống mà dì chọn lựa là tốt nhất! Dì sống vì lý tưởng mà dì đã chọn, vì ước mơ mà dì đã đạt được, vì nghĩa vụ mà Tổ quốc đã tin tưởng giao phó cho dì... Tất nhiên thiếu dì Đoan Thuận cách mạng vẫn thành công, nhưng chính dì muốn trong bản đại hợp xướng chiến thắng của dân tộc phải có sự góp mặt của dì. Chính dì đã từng nói với ba là dì có thể chết được rồi sau khi ba tiếp nhận tình yêu của dì. Con người khôn ngoan ấy đã không muốn chết bình yên trên chiếc giường của mình, trong ngôi nhà của mình. Con người ấy muốn sống một cuộc đời bằng nhiều cuộc đời cộng lại, nếu không muốn nói là nhân lên! Dì Đoan Thuận là như thế đó! Nếu anh không nhầm thì ngoài hai mươi tuổi ít nhất có một lần dì Đoan Thuận xác định đi vào chỗ chết, nhưng vẫn không chết. Đó là khi dì quyết định gửi em về Huế cho ba nuôi. Lời thư của dì viết cho ba anh đã thuộc lòng, và hẳn là em còn thuộc và nhớ hơn cả anh “... Sắp sửa vào chiến dịch mới. Tôi sợ lần ra đi này có thể không trở về, nên tôi đành phải gửi con tôi cho ngài nuôi dạy giúp...” Đó là mùa hạ năm 1948. Dì xác định mình có thể hy sinh. Nhưng ông trời còn để cho dì sống trên đời hai mươi năm nữa. Dì đã đi du học - như ước nguyện của ba ngày xưa mà vì quá yêu ba, nên dì không rời xa ba để đi học được. Dì học một ngành khoa học để làm đẹp cho bao người đàn bà con gái khác không được đẹp như dì. Cùng lúc, dì trở thành một cán bộ cách mạng hoạt động hợp pháp giữa thủ đô hoa lệ Sài Gòn trong một thời gian dài mà kẻ địch không hề hay biết. Thông minh, từng trải, đầy năng lực và dày dặn kinh nghiệm, hẳn là dì đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng được giao, để rồi cùng với đồng chí đồng bào làm nên một tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 lịch sử. Ngày kết thúc chiến dịch, một tay dì đã cứu sống hai thương binh bị thất lạc, rồi sau đó tự tay đưa các anh ra vùng an toàn, khi trở về dì mới bị địch bắt. Dì mãn nguyện lắm rồi, em không biết đó thôi! Em trách anh ở Sài Gòn lâu sao không nhìn thấy biển hiệu Phúc Toàn, và nếu đã nhìn thấy sao không có chút suy nghĩ, liên tưởng, tìm tòi... Nói thật với em, dạo đó - và cả về sau này - thỉnh thoảng nhìn thấy chỗ của các bà các cô lui tới để làm đẹp, là anh vội vã tránh xa ra! Có thể nói đàn bà con gái cứ mãi lo trau chuốt cái dung nhan cho lắm vào, thì đầu óc càng rỗng tuếch!... Hẳn là dì Đoan Thuận hàng ngày đều có đọc báo Sài Gòn, anh luôn ký tên thật dưới các bài báo, lẽ nào dì không nhận ra? Sao dì không chủ động đến tòa soạn tìm anh? Em biết không, khi em lặn lội cả năm trời đi tìm dấu tích của mẹ - từ tập nhật ký của mẹ để lại - cho đến những vùng miền mẹ đã từng qua, anh thương em lắm, vừa thương ba không còn nữa để biết được tin về mẹ. Nhưng bây giờ anh nghĩ khác. Nếu ba còn sống đến ngày nay để biết tất cả những sự ứng xử như thế của dì Đoan Thuận, chắc chắn ba sẽ buồn lắm. Thà ba không biết được những điều đó. Thà ba nửa tin nửa ngờ rằng dì Đoan Thuận đang còn sống ở đâu đó, hoặc đã hy sinh vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Mời các bạn đón đọc Những Dấu Chân của Mẹ của tác giả Hà Khánh Linh.
Đường Về - Erich Maria Remarque
“Tôi muốn mở cửa, đi vào trong phòng, tôi muốn nằm cuộn mình trên chiếc ghế bành, muốn ủ đôi bàn tay trong hơi ấm của gian phòng để hơi ấm ấy lan tỏa khắp người, tôi muốn nói chuyện, muốn mọi bạo tàn, khốc liệt và quá khứ sẽ tan chảy dưới đôi mắt yên lặng của người phụ nữ kia, và muốn bỏ chúng lại phía sau, muốn cởi bỏ chúng như cởi bỏ một bộ quần áo bẩn.” *** Trở về - là khải hoàn sau những năm chiến chinh, là đoàn tụ sau thời gian xa cách, là khoảnh khắc ấm áp của những con người đã tìm lại được nhau… Nhưng cuộc trở về của những người lính Đức sau Thế chiến I lại là hành trình khắc nghiệt của những cánh chim lạc bầy vật lộn giữa bão giông tìm đường quay lại cố hương, là gánh nặng của lửa đạn chiến tranh chết chóc, là hố thẳm ngăn cách giữa hai phần của cuộc đời. Và cả khi vượt qua tất cả để sang tới bến bờ bên kia, họ cũng chưa chắc sẽ tìm được những gì dấu yêu mình từng để lại sau lưng vào cái năm ly biệt. Đây là lần đầu tiên Đường về, tác phẩm được xem như phần hậu của Phía Tây không có gì lạ bởi sự tái xuất của một số nhân vật, ra mắt tại Việt Nam. Qua bản dịch đầy hồn lính mà vẫn đậm chất thơ của dịch giả Vũ Hương Giang, độc giả sẽ lại được gặp một Remarque rất khác, vừa khắc nghiệt lại mơ màng, trong tuyệt vọng lại hồi sinh hy vọng. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết *** Đám lính còn sót lại của trung đội hai nằm nửa thức nửa ngủ trong chiến hào tan nát vì đạn pháo sau tuyến lửa. "Trái phá gì mà kỳ quái!" Jupp nói. "Sao cơ?" Ferdinand Kosole nhổm lên hỏi. "Thử nghe đi!" Jupp đáp. Kosole khum tay lên tai nghe ngóng. Và cả lũ chúng tôi cùng lắng tai vào màn đêm. Nhưng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng nổ ì ầm của đại bác và tiếng rít của trái phá. Từ phía bên phải chỉ còn vọng đến tiếng súng máy tạch tạch và thi thoảng một tiếng kêu đơn độc. Nhưng chúng tôi đã quen với tất cả những thứ này từ nhiều năm nay, nên làm quái gì mà phải há hốc mồm ra như thế. Kosole nhìn Jupp ngờ vực. "Nó vừa dừng tức thì rồi," anh chàng kia lúng túng phân bua. Kosole nhìn bạn lần nữa đầy dò xét. Nhưng vì Jupp vẫn tỉnh bơ, anh quay đi càu nhàu: "Có mà bụng cậu sôi réo, chứ trái phá mẹ gì. Cứ ngủ đẫy mắt đi có hơn không." Vừa nói Kosole vừa vỗ vỗ đất thành hình cái gối và thận trọng nằm duỗi dài sao cho đôi ủng không thể tuột xuống nước. "Khỉ thật, trong khi ở nhà mình có hẳn một cô vợ và một cái giường đôi," anh làu bàu, mắt đã díp lại.   "Sẽ có một gã nào đó nằm ghé tí,' Jupp nói chõ ra trong xó của mình. Kosole hé một mắt, ném cho Jupp cái nhìn sắc lạnh. Có vẻ như anh định chồm dậy. Nhưng anh chỉ gầm gừ: "Tao chẳng khuyên cô ta làm vậy, cái đồ cú vọ nhà mày!" Liền sau đó anh đã cất tiếng ngáy. Jupp ra hiệu cho tôi qua chỗ anh ta. Tôi bò qua đôi ủng của Adolf Bethke và ngồi xuống bên Jupp. Cẩn thận ngó chừng anh chàng đang ngáy ngon lành, Jupp nói vẻ cay độc: "Cái ngữ ấy chả có tí học thức nào, nói để cậu biết." Trước chiến tranh Jupp từng làm thư ký cho một luật sư ở Köln. Mặc dù đi lính đã ba năm, anh ta vẫn giữ một tâm hồn nhạy cảm; và vẫn rất xem trọng việc tỏ ra là người có học thức ngoài chiến trường. Điều ấy thực sự có nghĩa gì, cố nhiên chính Jupp cũng chả rõ, nhưng trong tất cả những thứ trước kia anh ta đà từng nghe thì riêng cái từ "học thức" lại bắt rễ trong đầu anh ta, và anh ta bám chặt lấy nó như chết đuối vớ được cọc. Thật ra ai ở đây cũng có thứ gì đó đại loại như vậy: người này là vợ, người kia là cửa hiệu, kẻ nọ lại là đôi ủng, với Valentin Laher là rượu, còn với Tjaden đó là ước muốn được một lần nữa chén đẫy bụng món đậu nấu mỡ muối. Ngược lại, Kosole bao giờ cũng dị ứng với từ "học thức", với anh cái từ đó luôn liên quan đến lũ mặc áo cổ cồn, mà thế là quá đủ. Nên lúc này dù đang ngủ anh vẫn cáu tiết. Vừa ngáy anh vừa văng ra cộc lốc: "Rõ cái đống phân sặc mùi thư lại!" Jupp lắc đầu vẻ nhẫn nhịn và cao thượng. Chúng tôi im lặng ngồi sát bên nhau hồi lâu để sưởi ấm. Đêm lạnh và ẩm ướt, mây mù bao phủ, đôi lúc có mưa. Khi mưa, chúng tôi lôi những tấm vải bạt đang lót dưới người lên che đầu. Chân trời lóa sáng ánh lửa đạn. cảm giác dường như ở đó không lạnh như nơi đây, trông vui mắt dễ chịu thế cơ mà. Những trái phá bay vút lên trên những loạt pháo sáng, tựa những bông hoa sặc sỡ lấp lánh ánh bạc. Mặt trăng khổng lồ, đỏ ối lững lờ trôi trong sương mù bên trên những đống đổ nát của một nông trại. "Cậu có nghĩ là bọn mình sẽ về nhà không?" Jupp thì thầm. Tôi nhún vai. "Thì nghe nói thế..." Jupp thở dài. "Một căn phòng ấm áp, có ghế sofa, buổi tối đi chơi... Cậu còn hình dung nổi hay không?" "Lần về phép gần đây nhất, em đã thử lại những bộ thường phục của mình," tôi trầm ngâm nói, "nhưng đều chật quá rồi. Có lẽ sẽ phải sắm quần áo mới." Những từ: thường phục, sofa, buổi tối... vang lên nơi đây nghe sao lạ lẫm thế chứ. Những ý nghĩ kỳ quái nảy ra trong đầu... Giống như thứ cà phê đen đôi khi nặng vị thiếc và gỉ sắt đến nỗi vừa uống vào sẽ lập tức ọe ra nóng rẫy. Jupp mơ màng ngoáy mũi. "Ui chao, những quầy hàng... những quán cà phê... và đàn bà..." ... Mời các bạn đón đọc Đường Về của tác giả Erich Maria Remarque.