Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sáu Đợt Thức Tỉnh

Maria Arena là một bản sao vô tính. Sau mỗi lần chết đi, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, sở hữu ký ức của mọi “kiếp đời” trước. Do vậy, cô cùng năm bản sao khác đã được bổ nhiệm làm phi hành đoàn của tàu vũ trụ Dormire, thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Bỗng một ngày, Maria cùng phi hành đoàn thức tỉnh giữa một bể máu. Cả sáu vừa bị giết, máy móc trên tàu thì đã bị phá hoại, và không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra hết, thậm chí còn chẳng nhớ gì về nhau. Nguy hiểm hơn, thủ phạm hẳn phải là một người trong nhóm bọn họ. Kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa… Sáu đợt thức tỉnh tên gốc là Six Wakes, một cuốn trinh thám với bối cảnh tương lai của Mur Lafferty. Truyện từng lọt danh sách đề cử các giải lớn năm 2017 như Hugo, Nebula, Goodreads Choice, và được mệnh danh là "10 người da đen nhỏ ngoài vũ trụ." --- REVIEW TỪ BẠN ĐỌC: 9.0/10 Đây là một cuốn Sci Fi vừa có tính giải trí rất cao thông qua việc đi giải mã một vụ thảm sát đầy lắt léo trên tàu vũ trụ, đồng thời còn giúp khơi gợi suy tư thông qua những bình luận cực kỳ sâu sắc về sức ảnh hưởng của một trong những thứ công nghệ mang tính bước ngoặt. Truyện pha trộn rất hài hoà các mô típ của trinh thám và Sci Fi, thế kể cả nếu chỉ đọc được một trong hai dòng này, chắc chắn bạn sẽ không thất vọng với Sáu đợt thức tỉnh. ~ Long Nguyen (Admin cộng đồng Hội thích truyện Sci Fi trên Facebook)   Đánh giá: 8/10đ (Hay. Đặc biệt. Đáng suy ngẫm). Đọc những chương đầu tiên trong tôi bùng nổ một cảm giác phấn khích kỳ lạ, nội dung mở màn thú vị tới mức tôi cứ suy nghĩ: "Liệu đây có phải cuốn sách hay nhất năm của mình hay không?" Mặc dù sau đó vì vướng bận công việc phải bỏ dở ít bữa nên sự lôi cuốn có phần chững lại và mạch truyện khúc giữa cũng hơi chậm, nhưng càng đọc về cuối tác phẩm càng để lại cho tôi nhiều cảm xúc và sự trăn trở quặn lòng. ~ Nguyệt Ngọt Ngào (Admin cộng đồng Hội Yêu Sách trên Facebook)   Đủ bí ẩn, đằng sau mỗi nhân vật là một câu chuyện không tưởng. Và, cốt truyện đủ bất ngờ, thật, mình chuyên đọc trinh thám, nội dung cuốn sách không được gọi là máu me nhưng đủ bất ngờ, khiến độc giả lăn đùng ngã ngửa luôn. Và âm mưu to lớn cùng ý đồ sau cùng cả cả câu chuyện sẽ là Hô hô, mình không nói đâu.  ~ Trang Đào (Admin cộng đồng Bình Thư Quán trên Facebook)   4/5 Phần đầu và cuối hấp dẫn, vậy đoạn giữa là gì? Là backstory của từng nhân vật, và các đoạn đối thoại liên tục. Có thể người đọc sẽ đôi lúc chán nản, nhưng đừng quên trong một tác phẩm trinh thám, tác giả thường không vô cớ đưa vào những chi tiết thừa, tất cả đều có lý do của nó.  ~ xuxudocsach (review trên Instagram)   Thể loại: Khoa học viễn tưởng – Trinh thám. Điểm: 9.5/10 Có thể nhiều người sẽ cho rằng “Sáu đợt thức tỉnh” chỉ là một quyển sách để giải trí, nhưng Biển ngộ ra được một số giá trị nhân văn mà (chắc là) tác giả muốn gửi gắm: sự tôn trọng sinh mệnh – kể cả sinh mệnh của bản sao vô tính, sự tôn trọng nhân quyền và tư duy của người khác, tội lỗi cay đắng và sự tha thứ nhẹ nhõm, hận thù và yêu thương. Đọc đến trang 467 thì Biển mỉm cười sung sướng, cảm thấy thật đáng công đọc từ đầu đến đó. Tha thứ thật sự quá khó, nhưng nếu làm được thì thanh thản biết bao, mà nếu không làm được thì cứ coi kẻ thù như không khí đi.  ~ Camellia Phoenix (review trong cộng đồng Hội thích truyện trinh thám trên Facebook)   3.5/5 Nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. ~ neverblossom (review trên Instagram)   Điểm: 9,5/10 Đây là một cuốn truyện rất hay, cả về khía cạnh trinh thám lẫn viễn tưởng. Dù có một hai lỗi đánh máy nhưng nội dung cuốn đến mức đọc bỏ qua sạch luôn. Dù bạn muốn một cuốn trinh thám bí ẩn và lắt léo với những nhân vật có chiều sâu hay một cuốn du hành không gian kỳ thú với những pha hành động đầy kịch tính hay thậm chí là một quyển sách triết lý sâu sắc nhưng không kém phần hài hước và cảm động về những khía cạnh xã hội lớn lao cũng như mối quan hệ giữa con người và công nghệ, chắc chắn đây sẽ là quyển hợp với bạn. ~ Ngoc Anh Nguyen (review trong cộng đồng Nhã Nam reading club trên Facebook)   5/5 Kéo full điểm luôn không cần phải bàn cãi  ~ Mai Nguyễn (review bản tiếng Việt trên Goodreads)   Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. ~ Long Tran (review trong cộng đồng Người Đọc Sách trên Facebook) ***   Tác giả: Mur Lafferty. Dịch giả: Nguyễn Thành Long Thể loại: Trinh thám, Khoa học giả tưởng “Tôi phát ngấy cái giọng điệu đấy rồi. Suốt bao thế kỷ nay cứ phải nghe đi nghe lại. Đóng vai Chúa. Wolfgang, chúng ta đã đóng vai Chúa từ hồi thiên hạ còn tin mình có thể định đoạt giới tính cho con nếu làm tình chuẩn tư thế. Chúng ta đóng vai Chúa lúc phát minh ra ngừa thai, chọc ối, mổ lấy thai, lúc phát triển y học và phẫu thuật hiện đại. Bay là đóng vai Chúa. Chống ung thư là đóng vai Chúa. Kính áp tròng và kính gọng là đóng vai Chúa. Bất cứ hành động nào khiến cuộc sống của ta đổi khác so với thuở khai sinh là đóng vai Chúa. Thụ tinh trong ống nghiệm. Liệu pháp thay thế nội tiết tố. Phẫu thuật sửa đổi giới tính. Kháng sinh. Tại sao anh chấp nhận hết tất cả những thứ ấy, nhưng lại thấy sao chép vô tính có vấn đề?” Lúc cuốn này mới ra, không hiểu sao Biển cứ nhầm nó với “Đợt tuyệt chủng thứ 6”, thế là suốt một thời gian dài không đọc vì nghĩ nó thuộc thể loại sách học thuật khó nhằn. Đến khi được chính dịch giả comment trên một bài đăng thì Biển mới biết “Sáu đợt thức tỉnh” là trinh thám và chẳng liên quan gì đến tuyệt chủng, à chắc cũng có liên quan chút chút, vì bối cảnh truyện này là vào thế kỷ 25, diễn ra ngoài vũ trụ, lúc đó chắc có thêm một số loài đã tuyệt chủng trên Trái Đất. Sau khi đọc lần đầu và rung động vì độ hay của truyện, Biển chờ vài năm để quên bớt nội dung rồi đọc lại lần nữa, biết rằng mình sẽ hiểu sâu hơn và có thêm nhiều cảm nhận vừa giống vừa khác với lần đọc đầu. Ngày 25-7-2493 (đúng 472 năm tính từ ngày Biển đọc cuốn này lần 2), trên con tàu vũ trụ Dormire dài ba dặm rưỡi và đường kính một dặm rưỡi, bản sao của cô lao công Maria Arena tỉnh dậy trong khoang sao chép, xung quanh là xác chết năm đồng đội khác, bao bọc bởi hàng chục lít máu và các giọt chất lỏng độc hại sinh học khác đang trôi nổi trong môi trường vô trọng lực. Các đồng đội của Maria gồm Thuyền trưởng, Phi công kiêm Hoa tiêu, Sĩ quan Y tế kiêm Bác sĩ, Kỹ sư trưởng và Trưởng ban An ninh của tàu Dormire. Sau khi bản sao của năm người còn lại được thức tỉnh, họ nhận ra rằng tất cả đều đã chết hoặc bị giết gần như cùng lúc theo nhiều cách khác nhau, khi tàu Dormire đã rời Trái Đất được 25 năm và đang trong chuyến hành trình đến hành tinh Artemis – dự kiến là chốn định cư mới của phi hành đoàn cùng các bản sao và người thường chở theo trên tàu. Khoang sao chép đã hư hại, đồng nghĩa với việc họ chỉ còn bản thể duy nhất đang có chứ không thể tái sinh để sống tiếp. Trong bối cảnh kinh hoàng ấy, phi hành đoàn chật vật phục hồi lại môi trường sinh hoạt trên tàu đồng thời không bỏ qua nổi cảm giác nghi kỵ lẫn nhau, không biết rằng liệu người đang đứng bên ta đây có phải chính là người đã giết ta trong kiếp sống trước không. Ngoài lý do ban đầu là nhầm lẫn “Sáu đợt thức tỉnh” với “Đợt tuyệt chủng thứ sáu”, thêm một lý do khác khiến lúc đầu Biển ngần ngại đọc là vì cuốn này thuộc thể loại khoa học viễn tưởng. Biển sợ nó khó hiểu. Nhưng khi đã đọc rồi thì thấy đây là một truyện trinh thám rất dễ hiểu và hấp dẫn, thậm chí có thể nói đây là trinh thám cổ điển (điều tra dựa vào suy luận chứ không dựa vào khoa học kỹ thuật), vì tuy bối cảnh truyện là vào thế kỷ 25 trên một con tàu vũ trụ đang bay ngoài không gian nhưng trong cả truyện không hề áp dụng xét nghiệm nhóm máu, tìm dấu vân tay hay khám nghiệm pháp y… Các nhân vật chính sau khi sống lại nhờ đợt sao chép cuối cùng thì sinh hoạt tiếp dựa vào lịch sử sao lưu các dữ kiện của bản thân và người khác, phần lớn đã bị mất / xóa trắng do sự hư hại của IAN – Mạng Trí Tuệ Nhân Tạo đảm nhận nhiệm vụ duy trì sự sống và hoạt động cho mọi sinh vật và đồ vật trên tàu, bao gồm bản thân con tàu. Nếu coi tàu Dormire như một không gian khép kín (thực chất là vậy mà) thì truyện này kể về sáu vụ án mạng trong phòng kín. Thường thì Biển không mặn mà lắm với motip “án mạng phòng kín” (nhưng lại thích mấy cuốn Quán của Yukito Ayatsuji) nhưng cách tác giả xử lý cốt truyện trong “Sáu đợt thức tỉnh” thật sáng tạo và lôi cuốn, đúng kiểu ‘sự đơn giản làm nên vẻ đẹp’. “Lý thuyết” về sao chép người trong truyện này rất thú vị và dễ hiểu: Khi Biển qua đời, những gì chứa trong bộ não – có thể gọi là linh hồn, tâm tư, ký ức – được “đóng gói” thành não đồ và lưu vào một ổ cứng rời. Thân xác đã chết sẽ được cho vào máy tái chế và phục hồi lại ở độ tuổi như mong muốn, bằng một dung dịch tên là Lyfe. (Vâng, Life. Sự Sống). Sau đó não đồ sẽ được các chuyên viên lập trình (trong truyện này hầu hết bị gọi chung là “hacker”) tải trở vào thân thể mới. Bằng cách này, Biển sẽ không bao giờ chết, liên tục được tái sinh trong thân thể thanh xuân, với ký ức của TẤT CẢ những kiếp sống cũ, với điều kiện ký ức – não đồ đó không bị hacker can thiệp trước khi tải vào thân thể. Các bản sao sẽ được triệt sản, tài sản được tích góp qua các kiếp đời. Cách dùng công nghệ sao chép để có sự sống bất tử này là tác giả Mur Lafferty lấy ý tưởng từ một game mô phỏng không gian tên Faster Than Light. Trong truyện, công nghệ sao chép vô tính này bị phản đối kịch liệt bởi các tổ chức tôn giáo. Nếu nó tồn tại ngoài thực tế, Biển tin rằng nó cũng sẽ bị chống đối, lãnh lấy rất nhiều công kích và gây nên nhiều cuộc bạo loạn với tổn hại vô cùng lớn. Riêng ý kiến cá nhân thì Biển đồng tình, ủng hộ và sẵn sàng tham dự. Thường với những cuốn trinh thám có nhiều đoạn dài dòng về khoa học kỹ thuật thì Biển hay lướt, thậm chí ngay cả sách của hai tác giả yêu thích là Dan Brown và Jeffery Deaver mà Biển còn lướt, nhưng với “Sáu đợt thức tỉnh” là một cuốn trinh thám khoa học giả tưởng nhưng Biển không hề lướt một đoạn nào, bởi vì suốt truyện không hề có đoạn nào đậm chất khoa học kỹ thuật lê thê dài dòng cả. Mỗi câu đều cần thiết, mỗi đoạn đều đáng giá, mỗi chương đều hấp dẫn, cuối chương không dùng “mánh lới” thu hút nhưng vẫn thành công níu người đọc phải nhanh chóng giở đến chương tiếp theo. Với một phụ nữ nghiện game thì tác giả viết được cuốn tiểu thuyết như vậy là quá xuất sắc (không biết câu này có thể hiện thành kiến không nên có nào trong tiềm thức của Biển về việc “nghiện game” hoặc với giới tính nữ không!). Sau khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh” của Mur Lafferty và hai cuốn đã xuất bản tiếng Việt của Chan Ho Kei thì Biển có một ‘thành kiến tốt’ rằng chả lẽ những ai đam mê công nghệ máy tính / làm trong ngành IT + có kỹ năng văn chương thì sẽ viết được những quyển sách rất ấn tượng? Sẽ thiếu sót nếu trong review không nói đến các nhân vật chính của truyện. Ở hầu hết các khía cạnh thì Biển nhận thấy mình khá trùng hợp với nữ chính Maria Arena (là lao công, thích nấu ăn, thích pha trà, mê trai Nhật – à có thể bỏ điều cuối cùng). Mỗi nhân vật có lai lịch và tính cách khác biệt, tất cả đều là những bản sao của chính mình, đã mấy trăm tuổi và trải qua nhiều kiếp sống thăng trầm đến nỗi canh Mạnh Bà cũng không giúp quên được những ký ức đau thương. Ngoài thích nữ chính vì kiêu ngạo cho rằng mình giống cô ấy, Biển còn thích cả chàng trai Nhật Akihiro Sato với khả năng chọc cười tinh tế và nhân vật IAN với kiểu nói chuyện rất “người”, tương tự như khi Biển thích Winston trong cuốn “Nguồn Cội”. Dẫu biết AI rất nguy hiểm nhưng không hiểu sao Biển luôn mê đắm chúng một cách mù quáng…. ____ Dành cho các tâm hồn lãng mạn, “Sáu đợt thức tỉnh” có ẩn chứa tình cảm lứa đôi, không cần quá tinh ý để phát hiện được, và cách viết của tác giả sẽ gieo rắc không ít hy vọng vào sự nảy nở tươi đẹp của (các) mối quan hệ này. Lần đầu Biển đọc “Sáu đợt thức tỉnh” đúng kiểu lần đầu làm chuyện ấy, cảm giác rất mới mẻ hồi hộp do liên tục không biết “chuyện này sẽ đi tới đâu”. Đến lần đọc thứ hai, do vẫn còn hơi nhớ cốt truyện nên Biển tưởng sẽ bớt thú vị. Nhưng không, sự thú vị và dòng chảy cảm xúc vẫn diễn ra với cách thức khác. Biển “bắt” được nhiều chi tiết mà lần đầu đọc đã bỏ qua, phát hiện thêm một điều khó hiểu để đem ra chất vấn dịch giả và đã được trả lời đầy đủ tính thuyết phục. Như thường lệ, sau nội dung chính thì Biển hứng thú đọc kỹ những Lời Bạt / Lời cảm ơn, trong cuốn này là phần phỏng vấn tác giả, và mức độ ưa thích đối với tác phẩm càng tăng lên. Biển rất mong chờ cuốn này được chuyển thành phim, nếu vào tay một vị đạo diễn tài năng thì chắc chắn nó sẽ là một tác phẩm điện ảnh hoành tráng đáng nhớ. Vì đọc với niềm yêu thích mù quáng nên Biển chả nhớ có lỗi chính tả hay lỗi đánh máy nào không (đoan chắc 99% là không có). Một trong những niềm dzui lớn khi đọc sách là mình có thể trực tiếp liên hệ với tác giả hoặc dịch giả để hỏi khi không hiểu, hoặc càm ràm khi không ưng ý (!)… điều mà Biển đã hai lần làm khi đọc “Sáu đợt thức tỉnh”. Thành thật mà nói thì bìa hơi xấu và tựa sách khó nhìn nhưng não đồ của Biển chưa đủ phong phú để nghĩ ra thiết kế bìa khác cho nó. Vì lý do cá nhân mà Biển có hai cuốn này và đã tặng một cuốn cho anh công an khu vực của mình. Biển sẽ mua thêm trong khả năng của mình để tặng, vì đây là một quyển trinh thám tuyệt vời rất đáng để quảng bá. Nội dung truyện này cũng tình cờ là cặp đôi hoàn hảo với bản nhạc mà Biển thích nhất: (Sea, 5-8-2021) Cáo Biển Non Xanh Reviewer: Điền Yên ——- Cơ sở khoa học của cuốn sách này rất thú vị. Nó thỏa mãn cuồng vọng bất tử của con người. Mỗi khi ta chết đi, một bản sao vô tính của ta sẽ được thức tỉnh, vào giai đoạn sung mãn nhất đời ta, ví dụ như tuổi đôi mươi. Hơn nữa, nó còn kế thừa trí nhớ của tất cả các kiếp trước. Thời gian và cái chết chẳng còn tí uy hiếp nào nữa. Sáu đợt thức tỉnh là câu chuyện về 6 thành viên phi hành đoàn. Họ thức tỉnh và nhận ra toàn bộ phi hành đoàn đã bị giết (nếu không thì họ đã chả thức tỉnh). Nhưng ai lại là người giết sạch bọn họ, khi mà chỉ có 6 người với nhau? Ai cũng đáng nghi. Ai cũng có bí mật của mình. Tấm màn che sự thật dần được vén lên. Thì ra họ không quen biết nhau trước khi lên tàu nhưng đều kết nối với nhau theo một cách thức nào đó. Đây là một tác phẩm trinh thám viễn tưởng lạ. Quá trình điều tra không phức tạp loằng nhoằng gì vì các nhâm vật đều bị khuyết trí nhớ. Manh mối để lại thì vụn vặt, chỉ đủ để chứng tỏ ai cũng không thoát khỏi liên quan. Họ khám phá ra sự thật một cách dần dần qua 6 đợt thức tỉnh. Cá nhân tôi thích cuốn này chủ yếu vì bối cảnh xã hội mà truyện xây dựng nên và cả quan điểm đạo đức của tác giả. Những người lòng tràn đầy kì thị khó đem lại điều gì tốt đẹp. Ngoài ra, qua truyện này, tôi thấy không nên gây thù với bọn lập trình Dang Thi Quynh Anh 3.5/5 Sẽ ra sao nếu như Mười Người Da Đen Nhỏ của Agatha Christie có một phiên bản với viễn cảnh xảy ra ở thì tương lai và ngoài không gian? Bùm, chúng ta có Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty, một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đan xen yếu tố trinh thám này đây. Sáu Đợt Thức Tỉnh đưa người đọc theo chân một nhóm phi hành gia gồm sáu người – với điểm nhìn chính là nhân vật Maria Arena – một bản sao vô tính. Điều đặc biệt ở Maria là sau mỗi lần cô chết đi bất kể vì lý do gì, cô sẽ lại “thức tỉnh” trong một thân xác trẻ trung, đồng thời sở hữu mọi ký ức của “kiếp đời trước”. Chính vì vậy, cô cùng năm bản sao khác cũng chính là những phi hành đoàn đã được bổ nhiệm làm một nhiệm vụ trên con tàu vũ trụ Dormire, cùng nhau thực hiện chuyến bay dài mấy thế kỷ để lên định cư trên hành tinh Artemis tươi đẹp. Tuy nhiên, mọi chuyện không được như mong đợi khi cả nhóm gồm sáu người thì tất cả đều bị giết, máy móc bị phá hoại và khủng khiếp hơn nữa là không ai nhớ chuyện gì đã xảy ra, thậm chí ký ức về nhau cũng bị xóa sạch. Nguy hiểm hơn, thủ phạm gây ra tội ác này nằm trong số họ, và kẻ ấy vẫn đang rình rập, chờ thời cơ ra tay lần nữa. Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vốn không phải là thể loại tớ hay đọc thường xuyên. Mặc dù vậy Sáu Đợt Thức Tỉnh một phần do bởi yếu tố hoàn cảnh lạ lùng nên có sức lôi cuốn nhất định. Có đôi khi tác giả dường như hé lộ một chút manh mối dẫn đến kẻ sát nhân, nhưng hóa ra đó cũng chỉ là đòn hỏa mù đưa người đọc dấn thân sâu hơn vào mê cung của bí ẩn mà thôi. Cách triển khai mạch truyện có phần chậm chạp và đôi chút dài dòng, nhưng tuy nhiên cách kể chuyện đó lại mang một ưu điểm: Đó là Mur Lafferty đã giúp cho người đọc khám phá ra được tất cả những thân phận hay tính cách đặc trưng, những câu chuyện riêng của từng cá nhân sáu người phi hành đoàn. Bên cạnh đó, tớ thực sự thích cái cách mà tác giả đặt vấn đề cũng như xây dựng được cốt truyện có tính liên kết chặt chẽ với nhau, cũng như Mur Lafferty đã hoàn toàn nêu bật được lên sự bối rối, sự nghi ngờ hay thậm chí cả lòng ganh ghét đố kị và rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của “các bản sao” khi họ bỗng nhiên “sống dậy” trong bể máu tội ác. Cách tạo dựng không gian hay nói cách khác, là bối cảnh trôi nổi ngoài vũ trụ của Sáu Đợt Thức Tỉnh cũng là yếu tố làm tăng lên được sự thú vị cho tác phẩm. Ngoài ra công nhận một điều là tác giả có kiến thức về khoa học cũng như trí tưởng tượng phong phú vô cùng luôn và cuốn tiểu thuyết này chính là cách dể tác giả “phô diễn” ra tầng tầng lớp lớp kiến thức của mình cho người đọc. Một ưu điểm và cũng là phần tớ cực kỳ ấn tượng về Sáu Đợt Thức Tỉnh không chỉ bởi ở nội dung cuốn sách mà đó là dịch giả Nguyễn Thành Long. Thề hơn hai mươi nồi bánh chưng rồi mới thực sự thực sự thực sự x 3000 lần ưng một dịch giả đến mức độ này. Đến độ đôi khi đọc cũng phải bất giác xuýt xoa ối giời ơi anh là ai mà dịch có tâm thế. Ngôn từ sử dụng rất linh hoạt và thậm chí còn sử dụng cả những từ lóng của cộng đồng mạng cho vào Sáu Đợt Thức Tỉnh Nữa cơ. Nếu để “mạn phép” chấm điểm riêng cho phần dịch thì tớ sẽ để điểm tối đa là 5/5 luôn, dịch duyên và có tâm thế chứ lị. Mặc dù vậy, Sáu Đợt Thức Tỉnh bên cạnh những ưu điểm thì còn có điểm trừ. Đó là các cuộc hội thoại giữa các nhân vật với nhau tớ cảm thấy đôi chút gượng gạo và lắm lúc trí não thuộc ban xã hội của tớ có không kham nổi những đoạn tác giả viết về mạch vi tính hay máy móc hay mọi thức liên quan đến khoa học nên có hơi bị nản. Và sự “hơi nản” này dẫn đến việc tớ có skip một số trang nhưng không sao, vẫn hiểu rõ nội dung ngon nghẻ lắm. Ngoài ra, mặc cho sự cái “dai dài” của tác phẩm nhưng Sáu Đợt Thức Tỉnh không thực sự có yếu tố xây dựng và phát triển nhân vật, chúng ta biết họ ra sao vì tác giả miêu tả vậy chứ không được khai thác sâu. Nhưng nhìn chung Sáu Đợt Thức Tỉnh là một cuốn trinh thám khá ổn, đặc biệt dành cho bạn nào thích khoa học viễn tưởng hay lập trình máy móc các kiểu đan xen một chút trinh thám thì okay, cuốn này đúng là dành cho bạn luôn. Dịch giả dịch siêu có tâm, tớ còn bị ấn tượng với dịch giả hơn cả nội dung sách ý huhu. Bạn nào muốn đổi gió đọc Mười Người Da Đen Nhỏ ngoài vũ trụ này có thể tìm đọc em ý nha, mà bạn nào muốn trau dồi khả năng dịch thì cũng có thể tham khảo cuốn nè luôn. Neverblossom Đây có lẽ là một trong những cuốn trinh thám mật thất lạ thường và cuốn hút nhất mình được đọc trong năm nay. Truyện mở ra trong một bể máu: 6 bản sao vô tính trần truồng thức dậy trên một con tàu vũ trụ, và thấy trôi lềnh bềnh xung quanh mình là máu, rất lắm máu, phòi ra từ những cái xác đã bị sát hại dã man. Lúc khám nghiệm xác, họ giật mình nhận thấy đây là xác của… chính họ. Những cái xác ấy thực chất là cơ thể cũ của họ, còn bọn họ là các thân xác mới, vừa được đánh thức dậy sau khi cơ thể cũ chết đi. Đống xác trông rất già, chứng tỏ trước khi chết, bọn họ đã cùng nhau sống trên tàu hơn mấy chục năm. Theo lý thuyết, ký ức của cơ thể cũ sẽ được máy nhân bản copy sang cơ thể mới, nhưng tất cả các bản sao mới này chẳng nhớ gì hết. Họ thậm chí còn không nhớ mình từng đặt chân lên tàu, không nhớ mình từng gặp nhau, và đương nhiên, không nhớ ai đã giết mình. Nguy hiểm hơn, lúc kiểm tra máy móc trên tàu, họ nhận thấy sau lần sao chép cơ thể mới cho mình vừa rồi, máy nhân bản đã hỏng nặng, và đây sẽ là lần đầu thai cuối cùng trong cuộc đời nhân bản của họ. Nếu xảy ra thêm một vụ tàn sát nữa, họ sẽ chết thật, không còn thân xác mới nào để sống lại cả. Bởi vậy, phi hành đoàn 6 người này bị tống vào một cuộc đua đầy chết chóc: phải khẩn trương tìm ra hung thủ, trước khi hung thủ nhớ được mình phải làm gì. Các manh mối giúp giải mã vụ án được đưa ra dưới dạng các thông tin về công nghệ nhân bản, lịch sử tương lai của thế giới, và quá khứ của từng nhân vật. Tính cách, bí mật, tội lỗi, động cơ tiềm tàng cũng như lý do từng nhân vật xuất hiện trên tàu dần dần được hé lộ, vừa tăng thêm chiều sâu và độ hấp dẫn cho từng người, vừa góp phần đưa ra gợi ý để độc giả có căn cứ đoán hung thủ là ai, song cũng tung khá nhiều hỏa mù để thủ phạm không quá dễ đoán. Vì ban đầu cần giới thiệu thế giới tương lai nên mấy chương đầu đi hơi chậm, và có nhiều tình tiết xem chừng rời rạc, nhưng sau khi xây dựng xong nền tảng thì truyện trở nên kịch tính và sâu sắc hơn hẳn, mọi thứ được xâu chuỗi hết lại, và tất cả các tình tiết ngỡ tưởng vô nghĩa ban đầu đều được hé lộ là manh mối quan trọng. Thủ phạm không hoành tráng lắm, nhưng cũng ổn và hợp lôgic. Cách lý giải bí ẩn không vi phạm nguyên tắc căn bản nào của một tác phẩm trinh thám, chẳng hạn như không tự nhiên đưa ra tình tiết mới mà độc giả không biết, không có gì siêu nhiên, không ăn may thấy manh mối,… Lúc đọc xong và ngẫm lại, mình tin đến khoảng 2/3 truyện là sẽ có thể đoán được hung thủ nếu chịu để ý từ đầu. Đặc biệt là sau khi hung thủ bị bắt, một lời giải cho một vấn đề quan trọng khác được đưa ra một cách rất bất ngờ và tài tình, và với mình thì đây là điểm sáng nhất truyện. Điểm tổng: 4/5. Rất đáng đọc. Long Tran Mời các bạn mượn đọc sách Sáu Đợt Thức Tỉnh của tác giả Mur Lafferty & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nữ Hoàng Thinh Lặng - Marie Nimier
Nữ hoàng thinh lặng, cuốn tiểu thuyết thứ chín là một truyện kể đầy xúc động về những quan hệ rất khó khăn giữa tác giả với người cha của mình. “Nữ hoàng thinh lặng” – cha của Marie từng gọi cô bằng biệt hiệu này khi cô còn bé. Ông là nhà văn Roger Nimier, nổi tiếng từ tuổi hai mươi lăm với tác phẩm Khinh kỵ binh màu lam, chết vì tai nạn xe hơi năm 1962, ở tuổi băm sáu. Ngồi cạnh ông trên xe hơi và chết cùng ông là nữ tiểu thuyết gia xinh đẹp hai mươi bảy tuổi, mang cái tên lạ Sunsiaré de Larcône. Lúc đó Marie mới lên năm. Về ông bố tài hoa mệnh yểu, đứng đầu nhóm nhà văn trẻ ngỗ ngược mà mọi người gọi là các “khinh kỵ binh”, những kẻ “vô chính phủ và khuynh hữu”, khước từ văn học dấn thân theo kiểu Sartre, nhạo báng tiểu thuyết luận đề, chắc chắn Marie chẳng có nhiều kỷ niệm. Sau này, không cố ý mà khi ký tên, cô thường viết Ni-er, thay hai chữ m và i ở giữa bằng một nét gạch dài, thành thử tên cô hóa ra Nier (chối bỏ), như thể trong vô thức cô chối bỏ người cha. Và một thời gian dài Marie từng theo phái tả, có những lúc cực tả, đó cũng là một cách chối bỏ. Phải đợi đến đến tuổi bốn mươi bảy, sau khi đã viết và công bố tám cuốn tiểu thuyết, Marie Nimier mới quyết định lần theo dấu vết của cha, cố tái tạo bức chân dung đầy nghịch lý, mâu thuẫn. Đó là một người bố “chẳng thực sự ở đó khi ông đang hiện diện, chẳng thực sự vắng mặt khi ông rời bỏ chúng tôi” – sau này Marie biết rằng vào lúc cô sinh ra, cha mẹ cô đang tính chuyện ly hôn. Là nhà văn chói sáng đến mức tác phẩm trở thành tên gọi cả một nhóm, một khuynh hướng sáng tác, ông ngừng sự nghiệp tiểu thuyết rất sớm và cũng chóng bị lãng quên. Là “một con người thung dung nhẹ nhõm, nghiêm túc, dối trá, trung thực, chậm chạp, nhanh nhẹn, cần mẫn, lười nhác, trơ tráo, ái quốc, tàn nhẫn, yêu thương, dửng dưng, say đắm, trang trọng, phù phiếm, đúng đắn, vụng về trong tình cảm như thể người ta lóng ngóng chân tay”, bạn bè Roger miêu tả ông như vậy. Marie hoài nghi những tính từ “đóng sống” một cá tính, giam cầm một nhân cách. Các từ điển văn học, từ điển tác gia, như cô viện dẫn, cũng không giúp nhiều lắm: “Bảo hoàng dạng d’Artagnan, có kiến thức vô cùng rộng lớn, Roger Nimier đi ngược lại những gì ông coi là thứ suy-nghĩ-cho-sẵn của thời đại ông, giới tri thức cánh tả, chống lại họ sẽ là những người được đặt biệt hiệu Khinh kỵ binh…”. Để khám phá điều bí ẩn, để hiểu sự dữ dội và những dằn vặt ở chàng khinh kỵ binh trứ danh, Marie Nimier cô con gái viết về bố, nhà văn viết về nhà văn, đã tìm đến những nơi, những người, những thứ có thể giúp hồi ức sống lại: cô tới thăm mộ cha, đi gặp người anh ruột, người anh cùng mẹ khác cha, rồi người con của nữ tác giả xinh đẹp tử nạn cùng Roger, phát hiện những bức thư chưa từng công bố của ông… Song trước hết, và chủ yếu, cô thực hiện cuộc du hành vào tuổi thơ chao đảo không an ổn của chính mình, chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối gia đình cô và bản thân cô với người cha lãng tử, với ông bố từng có mà cũng không hề có. Và, dần dà dần dà, trong khi đan dệt, phân tích mạng lưới những hồi tưởng, những quan hệ, lấp đầy khoảng trống do người cha chết yểu để lại, Marie không chỉ tìm lại được cha mà còn tìm lại được bản thân, không chỉ hòa giải với cha mà còn hòa giải với chính mình. Xem lại bản thảo cuốn tiểu thuyết Trẻ thơ buồn của cha, cô phát hiện “có lòng nhân hậu trong nét bút”, và đột nhiên thấy hình như kiểu chữ ấy không thể là kiểu chữ của một kẻ hung bạo, tàn ác. Trên một tấm bưu ảnh, Roger đã viết cho cô con gái nhỏ: “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?”. Với bé Marie, ở đó chứa đựng một ẩn ngữ không sao giải được: “Nữ hoàng thinh lặng có thể nói gì để không bị mất danh hiệu của mình và không mất tình thương yêu của cha?”. Cuối cùng nữ tác giả đã tìm ra cách giải đáp: viết văn chính là “nói trong lặng thinh”, nhà tiểu thuyết là người vừa nói vừa không nói, kể chuyện mà vẫn im tiếng. Khi được hỏi nên giới thiệu Nữ hoàng thinh lặng như tiểu thuyết hay truyện kể, Marie Nimier trả lời là cứ để trống đừng xác định. Quả thật trong tác phẩm có kết cấu vừa tài tình vừa mang tính mộng du này, hư cấu và thực sự chồng lên nhau, quá khứ và hiện tại hòa trộn. Theo tác giả, có lẽ đó là một essai, không phải theo nghĩa tiểu luận, mà theo nghĩa đầu tiên của từ này: thể nghiệm. Với bút pháp giản dị và mực thước, với giọng điệu cực kỳ chính xác và tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng, không trách cứ, không oán hận, lay động tâm hồn người đọc tận bề sâu. Tác phẩm đã được trao tặng giải Médicis 2004. LÊ HỒNG SÂM *** Nữ hoàng thinh lặng là cuộc du hành vào một tuổi thơ chao đảo của chính tác giả - nhà văn Marie Nimier – để chắp nối những mảnh kỷ niệm, lần gỡ những mối dây liên hệ mỏng mảnh nối cô với người cha quá cố lãng tử “có mà như chưa hề có”. Câu chuyện kể sống động và giản dị, những hồi ức miên man cứ thế chảy trôi vào lòng người. “Nữ hoàng thinh lặng nói gì đây?” để không vĩnh viễn mất đi tình yêu của cha? Đó là thông điệp hiếm hoi sót lại từ người cha - một nhà văn tài hoa nhưng yểu mệnh, tín hiệu của tình yêu mà tác giả vin vào đấy để giải mã trong suốt cuộc kiếm tìm.  “Cha tôi qua đời vào một chiều thứ sáu, ở tuổi ba sáu…” trong một tai nạn xe khi đi chơi với người tình. Điều này đã khắc sâu trong lòng cô con gái bé bỏng và nhạy cảm thêm một vết hằn, cùng với tuổi thơ thiếu vắng tình thương trong một gia đình mà cha mẹ ly dị khi cô con gái duy nhất chỉ mới lên 5. Trong một khoảng thời gian dài, cô đã cố gắng bôi xóa hình ảnh cha trong ký ức, bởi nỗi mất mát lớn lao hơn cả đó là lòng tin vào cuộc sống, vào con người, vào tình yêu và hạnh phúc. Những kỷ niệm nhức nhối ào ạt kéo về, từ việc tìm thăm mộ cha cho đến những phát hiện đầy bất ngờ nơi bạn bè, đồng nghiệp một thời của ông đã khơi lại những ký ức rất đỗi sống động, cuốn hút, những bí ẩn tưởng đã vĩnh viễn chôn vùi. Nimier phát hiện mình giống cha kinh khủng, càng tìm hiểu, cô càng thấy yêu thương và thông cảm, thứ tình yêu bấy lâu cố đè nén, cố xóa bỏ bởi thù hận, hiểu lầm… Và Nữ hoàng thinh lặng đã không thể thinh lặng mãi, không thể chôn vùi theo cha mãi những yêu thương, day dứt. Dẫu muộn màng, cô đã viết tất cả mong giải tỏa đám mây mù giữa hai cha con, không trách cứ cũng chẳng còn oán hận… Marie Nimier là nữ nhà văn Pháp, sinh tại Paris. Cô cho ra mắt quyển tiểu thuyết đầu tiên năm 28 tuổi và tiếp tục thành công cho đến nay, Nữ hoàng thinh lặng là tiểu thuyết thứ 9 của cô, được khán giả khắp thế giới đón nhận, được tặng giải thưởng Medicis 2004. Một giọng văn nữ mộc mạc, giản dị, ngọt ngào, đằm thắm mà sâu sắc, với bút pháp mực thước, giọng điệu tinh tế, câu chuyện thấm đượm nỗi đau kìm nén và nỗi buồn dịu dàng đã lay động tâm hồn độc giả tận bề sâu. *** Marie Nimier là một tiểu thuyết gia và nhạc sĩ người Pháp, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1957 tại Paris, là con thứ hai của Nadine và Roger Nimier. Marie  bắt đầu viết tiểu thuyết từ năm 1985, và ngay lập tức tác phẩm đầu tay Sirene (Tiên cá) của bà đã được Viện Hàn lâm Pháp đánh giá cao. Những tiểu thuyết đã xuất bản: Sirène (Tiên cá), NXB Gallimard, Paris, 1985 La Girafe (Hươu cao cổ), NXB Gallimard, Paris, 1987 Anatomie d'un chœur (Cấu tạo của một điệp khúc), NXB Gallimard, Paris, 1990 L'Hypnotisme à la portée de tous (Thuật thôi miên dành cho mọi người), NXB Gallimard, Paris, 1992 La Caresse (Mơn trớn), NXB Gallimard, Paris, 1994 Celui qui court derrière l'oiseau, NXB Gallimard, Paris, 1996 Domino, NXB Gallimard, Paris, 1998 La Nouvelle Pornographie, NXB Gallimard, Paris, 2000 La Reine du silence (Nữ hoàng thinh lặng), NXB Gallimard, Paris, 2004 (đoạt giải Prix Médicis, 2004) Les Inséparables (Không thể tách rời), NXB Gallimard, Paris, 2008 (đoạt gải Prix Georges-Brassens, 2008) Photo-Photo, NXB Gallimard, Paris, 2010 *** Franck mang cây vào nhà, bọn trẻ trang trí nó, chúng làm một con lừa đất (con trước bị mất hai chân), làm trắng khung cửa sổ bằng bình xịt và treo quanh cửa những cành ô rô và chùm tầm gửi. Trên cuốn lịch Mùa vọng, chỉ còn sáu ngày nữa. Franck cắm điện súng bắn nhựa để sửa chuồng bò bị rời ra. Khi Élio tìm đôi ủng để đặt dưới cây thông, nó tự hỏi phải đặt một, hay là hai chiếc. Câu chuyện lại làm Franck nhớ lại. Cái này làm anh nhớ – Franck nói, quay người về phía tôi, khẩu súng ngửa lên để tránh keo nhỏ giọt lên bàn bếp – cái này làm anh nhớ tới giày của bố em. Chiếc giày của bố tôi ư? Tôi không hiểu anh muốn nói gì. Anh ngạc nhiên là tôi không biết chương có ý nghĩa này của bản anh hùng ca gia đình. Một tối mẹ đã kể lại cho anh trong khi tôi đọc cho bọn trẻ. Theo anh, hiển nhiên tôi phải biết. Câu chuyện ư? Một buổi tối năm 1962, Frédéric Dard và vợ từ Paris quay trở lại Mureaux nơi họ ở trong thời kì đó. Xa lộ phía tây không một bóng người. Họ nhận thấy, ở phía con đường, khối màu sẫm của một chiếc ôtô gặp tai nạn. Nghĩ rằng tai nạn vừa mới xảy ra, họ dừng lại để cấp cứu người qua đường, nhưng không còn ai ở vệ đường. Chỉ có một chiếc giày vương vãi trên bờ dốc, một chiếc giày côi cút mà vợ chồng nhà văn khai báo trong đồ vật thất lạc, như thể cử chỉ này có thể làm dịu đi chút ít linh cảm về điềm gở. Chiếc giày này, người vợ ông ta nói về nó như về một con vật nhỏ nhắn, một cái gì đó mềm mại và ấm nóng. Bà ta nhìn thấy nó, bốn mươi năm sau, bà ta vẫn còn cảm thấy nó ở trong tay. Bà ta chưa bao giờ kể câu chuyện này trước đám đông, rất đơn giản vì nó không phải là một giai thoại mà là một thời khắc quan trọng của cuộc đời họ. Chỉ vào hôm sau, khi đọc hàng tít lớn của các báo, họ mới biết được sự thật hiển nhiên: họ đã giữ trong tay chiếc giày của Roger Nimier. Chuồng bò được gắn lại, và chúa Jésus ở trong lòng mẹ mình. Đức Mẹ đồng trinh trùm khăn màu lam. Lũ trẻ làm cho đức mẹ một loại tạp dề di chuyển được để đứa bé có thể ra ngoài và tìm được vị trí trong chiếc máng vào nửa đêm ngày 24. Jeseph đứng xa hơn một chút, chống gậy. Ông ta có vẻ mệt mỏi. Xa hơn nữa, Ba Vua đã ở đấy bước đi bên cạnh lạc đà của họ. Một vòng hoa nhấp nháy được gắn vào cành thấp tạo ra chút ít ảo giác cho toàn bộ cảnh vật. Cuối cùng, Élio để hai chiếc ủng dưới cây thông và Merlin, một đôi giày mềm của năm trước. Đối với tháng Mười Hai thì thời tiết này đặc biệt dễ chịu. Tôi hay nghĩ tới chiếc giày. Tôi có cảm giác cầm nó trong tay, như thể chính tôi là người nhặt nó bên vệ đường. Cử chỉ đặt chiếc giày vào trong ôtô khiến tôi xúc động mãi không thôi. Trò chơi ghép hình đã hoàn tất, hay ít ra là khung của nó, viền của nó: ở phía trong, có một khoảng trống lớn nơi mà đôi chỗ những tập hợp mảnh ghép được đặt vào, những hòn đảo nhỏ rời rạc mà giờ đây được nối lại với nhau bằng các đường ngoằn ngoèo giống như con đường bị từ ngữ đào xới. Và những từ ngữ cần thiết, kì lạ thay, những từ ngữ đã lưu thông, đủ sức để lại dấu vết của chúng, dường như được sắp xếp quanh mảnh bị khuyết, mảnh đã được tìm ra, mà không cần có một kế hoạch, một chiến lược viết lách nào điều khiển kết quả này.   Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Thinh Lặng của tác giả Marie Nimier.
Một Người Chân Chính - Boris Polevoy
Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em. Mạc tư khoa (Mascơva) 2-1960 Bôris Pôlêvôi *** LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ   Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi [1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950   Mời các bạn đón đọc Một Người Chân Chính của tác giả  Boris Polevoy.
Đấu Trường Đen - Mario Puzo
Tác giả của tiểu thuyết Bố già lừng danh tiếp tục cho ra mắt bạn đọc cuốn Đấu trường đen. Tác phẩm lấy bối cảnh nước Đức sau Thế chiến thứ II, với không gian trải rộng từ nước Mỹ xa xôi tới tận Berlin hoang tàn đổ nát. Cuốn sách kể về cuộc đời của Mosca, chàng cựu chiến binh trẻ với tâm hồn chai sạn vì hội chứng chiến tranh chán ngán rời bỏ nước Mỹ quay lại Berlin đổ nát để bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, cũng để tìm lại cô gái Đức mà anh tình cờ gặp trong cuộc chiến... Đấu trường đen còn là bản mô tả đời sống Berlin sau chiến tranh hết sức chân thực, sống động với những vụ áp phe chợ đen, buôn lậu, những thủ đoạn lừa đảo..., và những tình bạn chân thành, những mối quan hệ nồng ấm tình người. Liệu tình yêu của cô gái Đức có làm mềm lại tâm hồn chai sạn của Mosca? Sự hỗn loạn sẽ kéo dài trong bao lâu?... Đấu trường đen sẽ lý giải tất cả.   Đấu Trường Đen chỉ với 300 trang, hơn mười nhân vật chính và một ít nhân vật phụ... thế mà cuốn sách bao trùm không gian rộng lớn, đủ sức đánh dấu sự kiện lịch sử mang tính chủ đề lên án chiến tranh và kêu gọi loài người muốn sống phải loại trừ chiến tranh. Đấu Trường Đen gợi lại hậu quả chiến tranh qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, có sức thấm sâu, tạo xúc tác lớn... Toàn bộ cuốn sách là lời cảnh tỉnh bọn hiếu chiến ích kỷ khi ngọn triều chiến tranh chưa có dấu hiệu ngưng tràn tới. Ở lĩnh vực văn học Đấu Trường Đen ngoài giá trị nghệ thuật cống hiến cho bạn đọc, còn có ích cho các nhà văn trẻ bởi tính khái quát đề tài và cấu trúc chương mục, phân bố nhân vật với đường viền hiện trường và bối cảnh lịch sử. Bản dịch khác của Nhà Xuất Bản Phương Đông là Đấu Trường U Ám. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) ... Mời các bạn đón đọc Đấu Trường Đen của tác giả Mario Puzo.
Hoa Trái Của Niềm Đắm Say - Daniel Pennac
Daniel Pennac sinh năm 1944 tại Casablanca (Marốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi… Trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện… Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi. Mới đây, Chagrin d’ecole, cuốn tiểu thuyết-tự truyện của Daniel Pennac đã được vinh danh trong lễ trao giải Renaudot 2007, giải thưởng danh giá nhất của văn đàn Pháp chỉ xếp sau Goncourt.   Cún bụi đời là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả. Sau Mắt sói, thêm một lần nữa, độc giả nhỏ tuổi Việt Nam lại có dịp tái ngộ với người thầy yêu trẻ, “người kể chuyện cổ tích hiện đại về loài vật”. *** Chín tháng sau – và lần thứ nhất trong trải nghiệm lâu dài của tôi về lĩnh vực này – tôi đã nhìn thấy một đứa bé ra khỏi bụng mẹ, lăn tròn từ phải sang trái. Một bé gái. Bố Théo bên này, bố Hervé bên kia, mẹ Thérèse trong chiếc giường trải đờ-ra tráng, lần đầu tiên nàng thấy thỏa mãn. Sau đó, vầng trán nhỏ bé của nó nheo lại và cô bé làm lại những gì nó muốn. Đứng sau Hervé, là một ứng viên thứ ba, cũng có vẻ xúc động như hai người kia. Nó có nhận ra hay không rằng ứng viên thứ ba đang ve vuốt lòng bàn tay của bố Hervé bằng lưng bàn tay của mình? Nó có nhận thấy không, phía bên kia giường, bố Théo phản đối cử chỉ đó của vị phó nhiệm Jual? Lúc nào cũng vậy, khi đôi mắt của con bé cuối cùng ngừng lại trên tôi, đôi mắt nó liền ánh lên tất cả ý thức tra hỏi về sự phức tạp của thế giới và một cầu mong nồng nhiệt xin giải thích cho nó cái phương thức sử dụng thế giới này.   - Người ta có thể nghĩ rằng nó chọn anh đấy, Benjamin ạ, Thérèse tuyên bố như vậy vừa trao con bé cho tôi.   Đó chính là một cách giải thích ký tự SOS. Cái vầng trán có lông tơ của con bé nằm đúng trong lòng bàn tay tôi; nó đang sôi lên ham muốn hiểu biết. ... Mời các bạn đón đọc Hoa Trái Của Niềm Đắm Say của tác giả Daniel Pennac.