Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuổi Già Tập 1 - Simone de Beauvoir

Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là nhà văn, nhà triết học và một nhà đấu tranh cho nữ quyền người Pháp. Là một nhà văn từng được giải Goncourt nhưng cũng là một học giả uyên bác, các tác phẩm của bà được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình đồng thời đầy ắp các dữ kiện khoa học, lịch sử, thống kê… Hai tác phẩm non-fiction được biết ở Việt Nam nhiều nhất của bà là Giới tính thứ nhì và Tuổi già. Giới tính thứ nhì (xuất bản năm 1949), được xem là một trong những quyển sách hay nhất của thế kỷ 20, là một cuốn bách khoa toàn thư về các giai đoạn của cuộc đời phụ nữ từ lúc sinh ra, dậy thì, lấy chồng, làm mẹ; đồng thời vạch ra con đường giành quyền lợi cho nữ giới. Với tác phẩm này, bà được xem là “Bà mẹ của phong trào nữ quyền". Tuổi già được viết lúc Beauvoir hơn 50 tuổi, mô tả chi tiết cuộc sống của người già và đấu tranh giành quyền cho họ. Người ta chỉ có thể hiểu được thân phận người già khi ở tuổi đó. “50 tuổi, tôi giật nảy mình khi một nữ sinh viên Mỹ kể lại với mình câu nói của một cô bạn: "Nhưng Simone de Beauvoir là một bà già chứ sao!" Cả một truyền thống dồn cho từ ngữ này một cái nghĩa xấu; nó vang lên như một lời thoá mạ. Vì vậy, người ta phản ứng, thường bằng giận dữ, khi nghe người khác bảo mình già. Tôi có biết nhiều người phụ nữ được biết tuổi tác của mình một cách khó chịu qua một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm Marie Dormoy: một người đàn ông, bị vẻ trẻ trung của hình bóng bà đánh lừa, đi theo bà trên đường phố; đến khi đi vượt qua bà và trông thấy gương mặt bà, thì thay vì bắt chuyện, ông ta rảo bước.” "Bạn có biết khuyết tật nào lớn nhất trong các khuyết tật không? Đó là tuổi trên 55" – Tourgueniev. Vào tuổi 55, Trotsky phàn nàn người mệt mỏi, mất ngủ, hay quên; ông có cảm giác sức lực sút kém; và lo lắng. Ông gợi lại quá khứ: "Anh buồn bã nhớ lại tấm ảnh của em, tấm ảnh của chúng ta, trong đó chúng ta trẻ trung biết chừng nào”. Già đi – đó là một điều không thể tránh khỏi và cũng là một quá trình chấp nhận đầy đau đớn. "Wagner kinh hãi thấy mình già đi, 80 tuổi, ông viết: “Hình hài tôi làm người ta khiếp sợ và khiến tôi u sầu một cách xót xa”. Sự suy sụp về thể chất khiến người già không còn có thể tham gia sản xuất hay xây dựng, do đó họ bị xem như gánh nặng, phải phụ thuộc vào người khác. Beauvoir viết về những trại dưỡng lão ở ngoại ô Paris với những người già như bị xã hội bỏ quên, sống mòn mỏi chờ đợi những cuộc viếng thăm của con cháu. Theo Beauvoir, đối đãi công bằng với người già là cách ứng xử có trước có sau mà nếu khác đi là làm lung lay gốc rễ của xã hội hiện đại. *** Khi còn là thái tử Siddharta, bị vua cha nhốt trong một tòa lâu đài tráng lệ, nhiều lần Thích Ca trốn đi dạo chơi bằng xe ngựa trong vùng. Trong lần dạo chơi đầu tiên, thái tử gặp một người tàn tật, tóc bạc, răng rụng, da nhăn nheo, cúi gập người trên một cây gậy, miệng lập cập, hai tay run rẩy. Chàng lấy làm ngạc nhiên và người xà ích giải thích đó là một ông già. Thái tử liền thốt: “Những kẻ hèn yếu và dốt nát, chuếnh choáng vì niềm kiêu hãnh của tuổi trẻ, không thấy được tuổi già. Khốn khổ biết chừng nào! Hãy trở nhanh về nhà thôi. Các trò chơi và niềm vui mà làm gì, vì ta là nơi ẩn náu của tuổi già mai sau”. Qua một ông già Thích Ca nhận ra số phận của chính mình, sinh ra để cứu vớt loài người, Thích Ca muốn chia sẻ hoàn toàn với số phận của họ. Và về điểm này, Người khác họ: họ lẩn tránh những gì không làm họ vui lòng. Và đặc biệt là tuổi già. Châu Mỹ đã loại trừ ra khỏi từ vựng của họ từ: người chết: mà chỉ nói người khuất bóng thân yêu; cũng giống như vậy, họ tránh liên hệ tới tuổi già. Ở nước Pháp ngày nay, đó là một đề tài cấm kỵ. Khi bắt buộc phải vi phạm điều cấm kỵ ấy, tôi đã bị người ta la ó! Chấp nhận mình đã bước vào ngưỡng cửa của tuổi già, tức là cho rằng nó rình rập tất cả mọi người phụ nữ, rằng nó đã tóm cổ nhiều người. Với thái độ dễ thương hay giận dữ, nhiều người, nhất là người già, không ngớt nhắc đi nhắc lại với tôi rằng làm gì có tuổi già! Có những người không trẻ bằng những người khác, chỉ thế thôi! Đối với xã hội, tuổi già xuất hiện như một điều bí ẩn đáng xấu hổ, mà nói tới là điều khiếm nhã. Trong mọi lĩnh vực, văn học viết rất nhiều về phụ nữ, về trẻ em, về thiếu niên; ngoài các công trình chuyên môn, người ta rất ít ám chỉ tới tuổi già. Một tác giả băng hoạt hình đã phải làm lại cả một loạt tác phẩm vì trước đó ông ta đã đưa vào trong số các nhân vật một cặp vợ chồng đáng tuổi làm ông làm bà: “Hãy loại bỏ người già đi!” - người ta hạ lệnh cho ông ta[1]. Khi tôi nói mình viết một cuốn tiểu luận về tuổi già, người ta thường thốt lên: “Sao lại kỳ thế!... Bà đâu có già!... Đề tài ấy, ngán lắm...” Chính vì lý do ấy mà tôi viết cuốn sách này: để phá tan sự đồng tình im lặng. Theo Marcuse, xã hội tiêu thụ đem một ý thức tốt đẹp thay thế cho ý thức xấu xa và bài xích mọi ý nghĩ tội phạm. Cần khuấy động sự yên ổn của nó. Đối với người có tuổi, nó chẳng những là phạm tội, mà còn là một tội ác. Ẩn náu phía sau các huyền thoại bành trướng và phong túc, nó cho người già là những kẻ khốn cùng. Ở Pháp, nơi tỷ lệ người già cao nhất thế giới - 12% dân số trên 65 tuổi - họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, cô đơn, tàn tật, thất vọng. Ở Mỹ, số phận của họ cũng không sung sướng hơn. Nhằm dung hòa sự man rợ này với thứ đạo lý nhân văn chủ nghĩa mà họ thuyết giáo, giai cấp thống trị có cách đơn giản là không xem họ là những con người; nếu nghe tiếng nói của họ, người ta bắt buộc phải thừa nhận đó là một tiếng nói của con người; tôi sẽ buộc độc giả của mình nghe tiếng nói ấy. Tôi sẽ miêu tả hoàn cảnh của họ và cách họ sống; tôi sẽ nói những gì diễn ra thực sự trong đầu óc và trong con tim họ - những thứ bị dối trá, huyền thoại và những lời sáo rỗng của nền văn hóa tư sản xuyên tạc. Vả lại, thái độ của xã hội đối với họ mang tính chất đồng lõa sâu sắc. Nói chung, xã hội không coi tuổi già là một lớp tuổi rõ rệt. Cuộc khủng hoảng về tuổi dậy thì cho phép vạch ra giữa một thiếu niên và người trưởng thành một đường ranh giới chỉ mang tính võ đoán trong những giới hạn chật hẹp; ở tuổi 18, 21, thanh niên được chấp nhận vào xã hội con người. Hầu như bao giờ xung quanh sự thăng tiến ấy cũng có những “nghi thức chuyển giai đoạn”. Còn thời điểm bắt đầu tuổi già thì không được xác định rõ rệt, nó thay đổi theo từng lúc, từng nơi. Không ở đâu, người ta bắt gặp “nghi thức chuyển giai đoạn” thiết lập một quy chế mới[2], về chính trị, suốt đời, cá nhân giữ nguyên những quyền lợi và nghĩa vụ giống nhau. Luật Dân sự không mảy may phân biệt giữa một cụ già trăm tuổi và một người tuổi bốn mươi. Các nhà làm luật cho rằng ngoài những trường hợp bệnh lý ra, trách nhiệm hình sự của người có tuổi cũng hoàn toàn đầy đủ như của thanh niên[3]. Trong thực tiễn, người ta không coi họ là một lớp người riêng, vả lại, họ cũng không muốn như vậy; có sách, báo, sân khấu, những buổi truyền hình và truyền thanh dành cho trẻ em và thiêu niên: còn đối với người già thì không[4]. Trên tất cả những bình diện này, người ta đồng hóa họ với lớp người lớn tuổi trẻ hơn. Nhưng khi quyết định quy chế kinh tế của họ, hình như người ta cho là họ thuộc một lớp người xa lạ: họ không có những nhu cầu cũng như những tình cảm giống như những người khác, nếu chỉ cần ban cho họ một chút bố thí khốn khổ là cảm thấy hết nợ đối với họ. Các nhà kinh tế học, các nhà làm luật tin vào cái ảo ảnh thuận tiện ấy khi phàn nàn cái gánh nặng những người không hoạt động gây nên cho những người hoạt động: như thể những người này không phải là những người không hoạt động trong tương lai và không bảo đảm chính ngày mai của mình trong lúc xây dựng việc nhận lấy trách nhiệm đối với những người có tuổi. Còn các nhà hoạt động công đoàn thì không nhầm lẫn: khi đưa ra những đòi hòi, bao giờ họ cũng coi trọng vấn đề hưu trí. Những người già không tạo nên một lực lượng kinh tế nào thì không có cách gì để đòi hỏi quyền lợi của mình: lợi ích của những kẻ bóc lột, là tiêu diệt tình đoàn kết giữa người lao động và người không sản xuất, sao cho không một ai bênh vực những người này. Những huyền thoại và lời sáo rỗng theo tư duy tư sản tìm cách chỉ ra một con người khác trong người già. “Chính với những thiếu niên sống khá nhiều năm mà cuộc đời tạo nên lớp người già” - Proust từng nhận định như vậy - họ giữ lại những nết tốt và những tật xấu của con người trong họ. Điều đó, dư luận không muốn biết tới. Nếu biểu thị những ham muốn, những tình cảm, những đòi hỏi giống như những người trẻ tuổi, thì người già làm người ta công phẫn; ở họ, tình yêu nam nữ, lòng ghen tuông hình như là bỉ ổi hay lố bịch, còn tình dục thì đáng ghê tởm và bạo lực thì chẳng có nghĩa lý gì. Họ phải là tấm gương về mọi đức tính. Trước hết, người ta đòi hỏi ở họ sự thanh thản; người ta khẳng định họ có lòng thanh thản ấy, nên cho phép người ta không quan tâm tới nỗi bất hạnh của họ. Cái hình ảnh người ta tô vẽ về họ là hình ảnh một nhà Hiền triết trong ánh hào quang của một mái tóc bạc trắng, giàu kinh nghiệm và khả kính, vượt lên rất xa thân phận con người; nếu rời khỏi hình ảnh ấy, là họ rơi xuống phía dưới; cái hình ảnh đối lập với hình ảnh trên đây, là hình ảnh một lão già điên lẩm cẩm, lố lăng, bị trẻ em chế giễu. Dẫu sao, do đức độ hay do sự đê tiện của họ, họ ở ngoài nhân loại. Vì vậy, người ta có thể không ngại ngần khước từ đối với họ những gì tối thiểu được coi là cần thiết cho một cuộc sống con người. Người ta đẩy xa sự loại thải này tới mức làm cho nó quay trở lại chống chính bản thân mình; người ta sẽ không công nhận bản thân mình trong hình ảnh ông già mà chính mình là ông già đó. Proust nhận xét một cách xác đáng: “Trong mọi hiện thực, (tuổi già) có lẽ là hiện thực mà chúng ta giữ lại một khái niệm thuần túy trừu tượng lâu bền nhất trong đời”. Tất thảy mọi người đều khả tử: họ nghĩ tới điều đó. Nhiều người trong số họ trở thành người già: hầu như không một ai hình dung trước sự biến đổi ấy. Người ta không chờ đón, không dự kiến một cái gì khác ngoài tuổi già. Khi được hỏi về tương lai của họ, thanh niên, nhất là nữ thanh niên, cho đời mình kéo dài nhiều nhất đến tuổi 60. Một số cô gái bảo: “Em không chờ đến ngày ấy, em sẽ ra đi trước đó”. Và thậm chí, một vài cô nói: “Em sẽ tự sát trước ngày ấy”. Người trưởng thành hành động như thế không bao giờ phải trở thành người già. Thông thường, người lao động kinh hoàng khi điểm giờ nghỉ hưu: thời hạn nghỉ hưu vốn đã được ấn định trước, người đó biết thời hạn ấy, nhẽ ra họ phải chuẩn bị sẵn. Sự thật là sự hiểu biết ấy vẫn xa lạ đối với họ cho tới giây phút cuối cùng - trừ phi nó thực sự mang tính chất chính trị. Đến ngày đó, và khi đã bước tới gần, thông thường, người ta thích tuổi già hơn là cái chết. Tuy vậy, đứng cách xa, người ta xem xét cái chết sáng suốt hơn cả. Cái chết nằm trong phạm vi những khả năng trực tiếp của chúng ta, uy hiếp chúng ta ở mọi lứa tuổi; có lúc chúng ta suýt chết; thông thường, chúng ta sợ chết. Con người ta không trở nên già nua trong chốc lát; ở tuổi thanh niên hay lúc tráng niên, chúng ta không nghĩ là tuổi già tương lai đã tiềm ẩn trong con người mình như Thích Ca: tuổi già ấy cách xa chúng ta tới mức khoảng cách ấy lẫn lộn trước mắt mình với sự vĩnh hằng: tương lai đối với chúng ta như thể phi hiện thực. Vả lại, cái chết không là gì cả; người ta có thể cảm thấy một nỗi bàng hoàng siêu hình trước cái hư vô ấy, nhưng bằng một cách nào đó, nó làm người ta yên lòng, nó không đặt thành vấn đề. “Ta sẽ không còn nữa”. : ta giữ hình tích của mình trong sự tiêu vong ấy[5]. Ở tuổi 20, hay 40, tôi nghĩ mình già, tức là nghĩ mình là người khác. Trong mọi sự biến đổi, đều có một cái gì đó khủng khiếp. Ở tuổi ấu thơ, tôi bàng hoàng, và thậm chí kinh hoàng khi hiểu ra sẽ có ngày mình sẽ trở thành người lớn. Nhưng ý muốn mình vẫn là bản thân mình, thường được bù đắp ở buổi thiếu thời bởi những lợi thế của quy chế người trưởng thành. Còn tuổi già thì xuất hiện như một nỗi bất hạnh: ngay cả ở những người mà người ta cho là vẫn giữ được vẻ quắc thước, sự suy sụp về thể chất mà tuổi già kéo theo cũng vẫn lồ lộ trước mắt. Vì ở loài người, sự đổi thay do năm tháng là nổi bật nhất. Loài vật thì gầy đi, yếu đi, nhưng không biến đổi. Còn con người thì có. Người ta se lòng khi nhìn thấy bên cạnh một thiếu phụ trẻ, phảng phất trong gương hình ảnh chính mình những năm tháng sau này: tức là mẹ mình. Theo Lévi-Strauss, người Da đỏ Namblikwara chỉ có một từ để nói “trẻ và đẹp” và một từ để nói “già và xấu”. Trước hình ảnh người già gợi ý với chúng ta về tương lai của mình, chúng ta không tin; một tiếng nói nội tâm thầm thì một cách phi lý với chúng ta rằng điều đó sẽ không đến với mình: sẽ không còn là chúng ta nữa khi điều đó xảy tới. Trước khi nó ập xuống chúng ta, tuổi già là cái chỉ liên quan tới ngườl khác. Vì vậy, có thể hiểu vì sao xã hội có thể khiến chúng ta không coi người già là đồng loại của mình. Thôi, chúng ta đừng tự lừa dối mình nữa; ý nghĩa cuộc sống chúng ta nằm trong tương lai đang đón đợi mình; chúng ta không biết mình là ai, nếu không muốn biết mình sẽ là người thế nào: chúng ta hãy tự nhận biết mình ở ông lão kia, ở bà già nọ. Cần phải như vậy nếu chúng ta muốn đảm nhận thân phận con người của mình một cách trọn vẹn. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không còn chấp nhận một cách thờ ơ nỗi bất hạnh của lứa tuổi cuối cùng, chúng ta sẽ cảm thấy mình ở trong cuộc: và quả chúng ta ở trong cuộc. Nỗi bất hạnh ấy tố cáo một cách vang dội chế độ bóc lột chúng ta đang sống. Người ta không thể tự mình thỏa mãn nhu cầu của mình, bao giờ cũng bị coi là một gánh nặng. Nhưng trong những tập thể có một sự bình đẳng nào đó - trong lòng một cộng đồng nông thôn, ở một số dân tộc nguyên thủy - người đứng tuổi, tuy không muốn biết, vẫn biết ngày mai thân phận của mình sẽ là thân phận mà ngày hôm nay người đó quy cho người già. Đấy là ý nghĩa truyện cổ tích của Grim, được thuật lại ở mọi miền thôn dã. Một gã nông dân bắt người cha già ăn riêng, trong một cái máng gỗ nhỏ; hắn bất chợt thấy đứa con trai đang ghép những miếng ván. Nó bảo ông bố: “Cho bố đấy, khi bố về già”. Thế là ông già lại ngồi vào bàn ăn cùng cả nhà. Trước lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, các thành viên còn hoạt động trong tập thể sáng tạo nên những sự thỏa hiệp. Tình trạng cấp bách của nhu cầu buộc một số người nguyên thủy giết chết bố mẹ, dù về sau, có phải chịu một số phận như thế. Trong những trường hợp ít căng thẳng hơn, sự phòng xa và tình cảm gia đình chế ngự tính ích kỷ. Trong thế giới tư bản, lợi ích dài hơn không còn tác dụng: những kẻ có đặc quyền và quyết định số phận của đám đông không sợ phải nếm trải số phận ấy. Còn những tình cảm nhân văn chủ nghĩa thì không bao giờ can thiệp tới, mặc dù những lời huyênh hoang dối trá. Cơ sở của nền kinh tế là lợi nhuận; trên thực tiễn, toàn bộ nền văn minh phụ thuộc vào nó: người ta chỉ quan tâm tới tập thể người trong một doanh nghiệp trong chừng mực tập thể ấy có lợi. Sau đó, họ bị vứt bỏ. Tại một hội nghị gần đây, tiến sĩ Leach, nhà nhân chủng học ở Cambritgiơ tuyên bố: “Trong một thế giới đang chuyển động, trong đó máy móc có những cuộc đời rất ngắn ngủi, con người không nên phục vụ quá lâu. Tất cả những gì vượt qua 55 năm tuổi đều phải loại bỏ”[6]. Cái từ “đồ bỏ đi” nói đúng điều nó muốn nói. Người ta kể lể với chúng ta rằng nghỉ hưu là thời gian của tự do và giải trí; có những nhà thơ ca ngợi “lạc thú nghỉ ngơi”. Đó là những lời dối trá vô liêm sỉ. Xã hội áp đặt cho số đông người già mức sống khốn khổ tới mức từ ngữ “già nua và đói nghèo” trở thành hầu như một từ thừa (pléonasme); ngược lại, số đông người bần cùng là người già. Nhàn rỗi không mở ra cho người nghỉ hưu những khả năng mới; vào lúc cá nhân, đến phút cuối cùng, được giải thoát khỏi những sự ràng buộc, người ta tước đoạt của họ mọi phương tiện sử dụng quyền tự do. Họ buộc phải sống lay lắt trong cô đơn và phiền muộn, như một vật phế thải không hơn không kém. Khi trong mười lăm hay hai mươi năm cuối đời, một con người chỉ còn là một vật chẳng ai đoái hoài, thì đó là sự thất bại của nền văn minh chúng ta: sự thật hiển nhiên ấy khiến chúng ta nghẹn ngào nếu chúng ta coi người già là những con người từng có một cuộc sống con người phía sau họ, chứ không phải là những xác chết dật dờ. Những ai tố cáo cái chế độ đọa đày vốn là chế độ chúng ta, phải đưa điều điếm nhục ấy ra ánh sáng. Chính bằng cách tập trung nỗ lực của mình vào thân phận những người xấu số nhất, người ta có thể làm lay chuyển một xã hội. Để phá hủy hệ thống đẳng cấp, Gandhi tìm cách giải quyết thân phận tầng lớp Tiện dân (parias); nhằm tiêu hủy gia đình phong kiến, nước Trung Hoa cộng sản giải phóng phụ nữ. Đòi hỏi con người cứ phải là con người ở lứa tuổi cuối cùng của họ bao hàm một sự đảo lộn triệt dể. Không thể thu được kết quả ấy với một vài cải cách hạn hẹp không đụng chạm tới hệ thống: chính nạn bóc lột người lao động, chính quá trình phân hủy xã hội và sự khốn cùng của một nền văn hóa chỉ dành riêng cho tầng lớp quan lại, dẫn tới những cảnh già nua phi-nhân văn ấy. Chúng chỉ ra rằng cần làm lại tất cả, từ đầu. Chính vì vậy, vấn đề này bị nhấn chìm trong im lặng hết sức kỹ lưỡng; và chính vì vậy, cần phá tan sự im lặng ấy: tôi mong đợi độc giả giúp đỡ tôi trong công việc này.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Già Tập 1 của tác giả Simone de Beauvoir.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Kiêng Khem Tin Tức - Bí Kíp Sinh Tồn Thời Kỹ Thuật Số
Chúng ta đang sống trong thời đại ngập tràn tin tức. Nhờ những tiến bộ công nghệ, việc tiếp cận tin tức ngày nay chưa bao giờ dễ dàng đến thế. Thậm chí, con người hiện đại còn chẳng cần làm gì, tin tức sẽ tự tìm đến anh ta. Những tưởng trong một thế giới như vậy, khi mà mọi rào cản thông tin hầu như bị san bằng, khi mà mọi tin tức đều có thể truy cập chỉ bằng vài cú click chuột, thì con người sẽ trở nên khôn ngoan hơn và hạnh phúc hơn. Nhưng Rolf Dobelli lại không tin vào điều đó. Bằng những lập luận ngắn gọn nhưng sắc sảo, cùng một lối viết cuốn hút, ông vạch ra những tai hại của một nền truyền thông bị tha hóa, ở đó tôn chỉ truyền đạt thông tin và phát lộ sự thật đời sống đã bị xếp dưới những toan tính lợi nhuận tìm mọi cách lôi kéo sự chú ý, thậm chí là chi phối suy nghĩ của người đọc, bất chấp hậu quả. Không dừng lại ở việc chỉ mặt gọi tên mặt tối của truyền thông, Rolf Dobelli còn đề ra những giải pháp cho cả người đọc, để miễn nhiễm trước thông tin độc hại, lẫn cho truyền thông, để trở lại với những giá trị cốt lõi của mình. Cuốn sách này có thể coi là một kim chỉ nam cho con người trong một thời đại đổi thay nhanh hơn bao giờ hết. *** Nghệ thuật kiêng khem tin tức: Bí kíp sinh tồn thời kỹ thuật số Nghệ thuật kiêng khem tin tức đặt ra những thách thức cho ngành truyền thông, khiến người đọc phải nhìn nhận lại những tác động tiêu cực của tin tức mà họ phải chịu đựng... Đây là tác phẩm được phát triển từ một trong những bài viết được tìm đọc nhiều nhất năm của Rolf Dobelli trên tờ The Guardian. Cuốn sách đặt ra thách thức đối với con người trong thời đại công nghệ số. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình trung lưu vào thập niên 1970, tin tức trở thành một phần không thể thiếu vào những khung giờ cố định trong ngày của Rolf Dobelli. Ông từng là người “tiêu thụ tin tức” vô độ và chắc chắn con người ngày nay cũng đang mắc kẹt vào bẫy truyền thông với radio, tivi, báo giấy và sự bùng nổ của Internet. Độ phủ sóng dày đặc của tin tức khiến bao người nhầm tưởng nó là thứ thiết yếu cho cuộc sống. Nhưng sự thật có phải như thế? Đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi như “Tin tức là gì?”, “Điều gì xảy ra trong não bộ khi đọc tin tức?”, “Tại sao chúng ta biết rất nhiều nhưng lại hiểu rất ít?”, Rolf Dobelli đã phát hiện và chỉ ra những mặt tối của ngành truyền thông bị tha hóa, khiến tin tức từ một phương tiện vô hại trở thành thứ vũ khí hủy diệt. Phải mất rất lâu người ta mới nhận ra rằng, không có một tin tức nào quan trọng đến mức không có nó con người sẽ không thể sống nổi. Vậy nhưng ta phải trả cái giá rất đắt cho việc tiêu thụ tin tức. Đó là cơ thể căng thẳng, mệt mỏi, quỹ thời gian bị phung phí, khả năng tập trung ngày càng kém, tư duy bị thao túng, óc sáng tạo bị phá hủy... Sống trong thế giới công nghệ số, con người cần tỉnh táo trước những cạm bẫy ảo. Có thể người đọc sẽ không thể ngay lập tức từ bỏ thói quen cập nhật tin tức, nhưng những lập luận sắc bén của Rolf Dobelli buộc người đọc nhìn nhận lại tầm ảnh hưởng tiêu cực của tin tức để tập trung cho những điều quan trọng khác như sức khỏe...  Rolf Dobelli đã đề xuất những biện pháp “miễn nhiễm” trước những thông tin độc hại, vạch ra lộ trình và thành công trong việc kiêng khem tin tức. Là một doanh nhân, tác giả và là người thành lập một cộng đồng gồm những nhà tư tưởng, nhà khoa học và nghệ sĩ lỗi lạc, chính ông là một ví dụ cho việc từ bỏ vòng xoáy điên cuồng của tin tức để suy nghĩ và hành động tỉnh táo, sống thanh thản và có ý nghĩa hơn. Nghệ thuật kiêng khem tin tức phần nào lên án ngành truyền thông, những phóng viên đã xếp tôn chỉ báo chí và phát lộ thông tin dưới những toan tính lợi nhuận, đồng thời vạch ra những giải pháp cho ngành truyền thông để trở về với những giá trị cốt lõi.  Mời các bạn mượn đọc sách Nghệ Thuật Kiêng Khem Tin Tức - Bí Kíp Sinh Tồn Thời Kỹ Thuật Số của tác giả Rolf Dobelli.
Tôi Trồng Cỏ Bốn Lá - 9 Thói Quen Kiến Tạo Vận May
Có những người sống vui vẻ lạc quan, luôn gặp may mắn và mọi công việc đều thuận lợi theo ý muốn của họ. Nhưng cũng có những người không được như vậy. Những điều tốt xấu xảy ra có mối liên hệ sâu sắc với thứ mà ta gọi là “Vận khí”. Nghĩa là, những ai nắm giữ được nhiều “Vận khí” thì sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, may mắn và đạt được mọi điều họ mong muốn. Còn với những người không nắm giữ được “Vận khí” thì cuộc sống của họ có thể sẽ gặp nhiều bất hạnh, thần may mắn không mỉm cười và mọi mong muốn cũng sẽ khó thực hiện được. Vậy, chúng ta cần làm gì để bản thân nắm giữ được nhiều “Vận khí”? Để đạt được điều đó thì hằng ngày chúng ta phải nỗ lực như thế nào? Trong cuốn sách “Tôi trồng cỏ bốn lá – 9 thói quen kiến tạo may mắn”, sẽ giải đáp những câu hỏi trên thật cặn kẽ và rõ ràng, đồng thời đưa ra những ví dụ thực tế giúp các bạn dễ hiểu hơn. Và sau khi đọc cuốn này, bạn hãy áp dụng những bí quyết ấy vào cuộc sống hằng ngày để chúng trở thành những thói quen đồng hành cùng bạn. Nếu những điều này, ngay lập tức, chưa thể trở thành thói quen của bạn thì cũng không sao. Bạn hãy áp dụng từng chút, từng chút một. Dần dần chúng sẽ trở thành “Kim chỉ nam cho cuộc sống” của bạn. Nếu áp dụng được những điều có trong cuốn sách này thì những người đang phiền muộn, lo âu về cuộc sống, “bị vận may bỏ rơi”, “vận mệnh không tốt” sẽ có được gợi ý để giải quyết các vấn đề. Và đồng thời, nếu để ý, bạn sẽ thực sự cảm nhận được vận mệnh của mình đang từng ngày, từng ngày chuyển biến tích cực. Mục lục: Định mệnh không thể thay đổi, nhưng vận mệnh thì có thể thay đổi Tại sao có người lại có thể thay đổi vận mệnh của mình? Những quy luật vô hình tạo nên vận khí Thực hiện 9 thói quen trong cuộc sống để vận khí được tích tụ Tích trữ vận khí có thể làm thay đổi dòng chảy của cuộc sống Chương 1: Sống có tham vọng Chương 2: Có niềm tin “mình có thể làm được” Chương 3: Hành động tích cực Chương 4: Luôn sống lạc quan trước mọi hoàn cảnh Chương 5: Trân trọng bản thân Chương 6: Tạo ra tinh thần vui vẻ Chương 7: Trân trọng con người Chương 8: Khiến người khác cảm thấy hạnh phúc Chương 9: Tận tâm với người khác *** [Review] Tôi trồng cỏ bốn lá Theo như lời Thầy dậy và con cũng đc nhìn thấy thì đại đa số những người thành công phần lớn đến từ may mắn do họ có thể tạo ra được. Nhưng từ trước đến nay con vẫn cứ tin rằng may mắn là do số phận đã định sẵn, có muốn may mắn cũng không được. Nhưng kể từ khi đọc cuốn sách “Tôi trồng cỏ bốn lá” của tác giả Akira Uenishi làm con vui sướng vô cùng, con cảm thấy như mình đã gặp được và tạo ra được may mắn. Điều con tâm đắc nhất trong cuốn sách đó là may mắn có thể tạo ra được thông qua 9 thói quen mà tác giả nêu ra trong cuốn sách, con cũng đã hiểu rõ tại sao một số người luôn luôn gặp may mắn trong khi có những người lúc nào cũng gặp vận rủi, đó là do lối sống của người ấy quyết định. “Lối sống luôn tích cực sẽ gặp may mắn và ngược lại.” Theo tác giả thì một người có được may mắn hay không phụ thuộc vào lượng “vận khí” mà người đó nắm giữ, là người luôn sống vui vẻ, lạc quan thì lượng vận khí càng nhiều. Chính vì thế muốn có nhiều may mắn đến với bản thân thì mỗi chúng ta cần tích trữ lượng vận khí càng nhiều càng tốt. Vào giữa thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 tại Mỹ đã nghiên cứu những người thành công nhất thì kết quả cho rằng trên một nửa những người thành công nhất như: Andrew Carnaegie, Henry Ford, Thomas Edison… đều biết quy luật vô hình tích lũy nhiều vận khí tạo ra nhiều may mắn để đạt được những thành công to lớn. Quy luật đó là: “vận mệnh, cuộc sống của con người được quyết định bởi  ‘bản chất trong tâm’, nói cách khác nó chính là những suy nghĩ thường ngày của chúng ta”. Chính vì thế suy nghĩ như thế nào ảnh hưởng rất lớn đến may mắn của người đó, nếu suy nghĩ tốt thì sẽ luôn may mắn, còn suy nghĩ tiêu cực sẽ không được may mắn. Vậy thì, để cải thiện  ‘bản chất trong tâm’ tích lũy vận khí thì tác giả đã nghiên cứu rất nhiều người thành công, có được may mắn trong cuộc sống và tác giả đã đưa ra 9 thói quen để cuộc sống luôn tích lũy vận khí gặp được nhiều may mắn đó là: Sống có khát vọng (suy nghĩ cầu tiến) Có niềm tin rằng “mình sẽ làm được” (suy nghĩ khả năng) Luôn có hành động tích cực (suy nghĩ hành động) Suy nghĩ lạc quan trong mọi vấn đề (suy nghĩ lạc quan) Tôn trọng bản thân (suy nghĩ yêu thương bản thân) Luôn toát ra vẻ thư thái, dễ chịu (suy nghĩ thoải mái) Tôn trọng mọi người (suy nghĩ tôn trọng) Mang đến niềm vui cho mọi người (suy nghĩ vui vẻ) Đối đãi tận tình với mọi người (suy nghĩ đóng góp) Trong số 9 thói quen trên để tích lũy vận khí tạo may mắn cho bản thân thì con ấn tượng thói quen sau và sẽ kiên trì thực hiện để có thể tự tạo may mắn cho chính bản thân con đó là: Thay đổi thói quen sống tốt có thể tạo vận khí. Đại đa số con và mọi người đều có thói quen chưa được tốt: “sống chưa có mục đích, chưa có tham vọng; sống chưa có kỷ luật”. Vậy nên cũng có thể nói nếu cứ sống như thế này thì con sẽ không thể thay đổi được số phận của bản thân. Chính vì thế muốn thay đổi và tạo dựng may mắn cho chính bản thân con cần phải xác định được mục đích sống của mình và áp dụng kỷ luật bản thân mới có thể tạo ra điều may mắn. Khi đứng trước một khó khăn nào đó thì hầu như tất cả đều bỏ cuộc, ngay cả chính bản thân con ngày trước cũng thế, mà con không biết rằng khi mình càng kiên cường, kiên trì quyết tâm bao nhiêu thì càng tích trữ vận khí, càng may mắn bấy nhiêu “Niềm tin là yếu tố rất quan trọng trong việc tạo dựng may mắn”. Để làm được điều đó thì mình cần tin tưởng rằng mình có khả năng làm được những việc mình đã đặt ra hoặc đã nghĩ tới, ví dụ như đọc được cuốn sách hay tạo được động lực cho bản thân. Đấy cũng chính là giải pháp mà con vẫn thường hay áp dụng mỗi khi gặp vấn đề gì khó khăn, con đều đọc sách để thay đổi trạng thái tinh thần cho thật tốt. “Càng nỗ lực thì sẽ càng may mắn”. Có lẽ đây là điều con tâm đắc nhất. Ví dụ điển hình cho việc này chính ngay từ bản thân con thi đại học 3 năm mới đỗ được. Ai cũng bảo con làm sao thi đỗ được đại học nhưng càng thế con càng quyết tâm phải thi đỗ bằng được, vậy là sau 3 năm nỗ lực cuối cùng con cũng đạt được mục tiêu là đỗ đại học. “Những người sống lạc quan vui vẻ thì luôn gặp nhiều may mắn trong cuộc sống”. Chính vì điều này mà con đã thay đổi nhận thức rất nhiều rằng muốn có được may mắn thì nhất định phải cười thật nhiều, phải trao đi yêu thương thật nhiều. Điều này có lợi cho chính bản thân rất nhiều mà mọi người không biết để mà áp dụng. “Càng kém may mắn, càng tích lũy được vận khí thì lần sau nhất định sẽ gặp may mắn”. Trước đây khi gặp bất kỳ việc kém may mắn gì xảy ra với bản thân con thường oán trách bản thân, trời đất, hoàn cảnh, những thứ xung quanh… nhưng khi đã biết được điều này con đã có được cách nhìn mới đó là càng kém may mắn thì càng nên vui vẻ đón nhận, nỗ lực thêm nữa để đón nhận điều may mắn lớn hơn còn đang đợi ở phía trước. “Càng trân trọng bản thân thì càng may mắn”. Con thường không để ý đến bản thân, thường hay hành hạ bản thân mình không thương tiếc, không nhìn lại chính mình mỗi ngày, không quan tâm đến sức khỏe cơ thể và tinh thần của bản thân. Có lẽ chính vì lẽ này mà có thể con vẫn hay gặp chuyện không may mắn, những chuyện không đâu… Từ giờ, con sẽ để ý đến bản thân nhiều hơn, sẽ nghỉ ngơi nhiều hơn, ngồi thiền, tận hưởng những giây phút bên người thân và đặc biệt là tận hưởng giây phút ở hiện tại. Điều cuối cùng mà con tâm đắc đó là “con phải trân trọng mọi người, phải làm cho mọi người xung quanh mình thấy vui vẻ, hạnh phúc thì con sẽ càng thêm may mắn”. Từ trước đến nay con sống thường không hay để ý đến người khác, không quan tâm đến người khác vui buồn ra sao. Đây đúng là sai lầm mà con cần phải sửa đổi nếu muốn mình được may mắn trong cuộc sống. Thông qua cuốn sách “ Tôi trồng cỏ bốn lá” của tác giả Akira Uenishi mà con đã được đọc thì con thấy con vô cùng may mắn khi biết cách tự tạo ra may mắn cho chính bản thân mình chứ không còn tin vào số phận rằng số phận đã an bài, mình có thay đổi cũng không hề có ích gì để từ đó con hiểu được rằng: “con thể thể thay đổi được số mệnh của mình, làm chủ được số phận của mình thông qua thực hiện 9 thói quen vô cùng đơn giản mà tác giả đã nêu trong cuốn sách.” Con kính chúc Thầy sức khỏe và luôn bình an! Chúc cả nhà hạnh phúc và an vui! Ban – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Yêu Sách Thái Hà Mời các bạn mượn đọc sách Tôi Trồng Cỏ Bốn Lá - 9 Thói Quen Kiến Tạo Vận May của tác giả Akira Uenishi & Nguyễn Hồng Liên (dịch).
Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu
Đối mặt với những nỗi đau và thất bại của bản thân, Tiến sĩ James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đầy lôi cuốn bằng tất cả trải nghiệm của ông. Chính trong câu chuyện chân thật đó, người đọc dễ đồng cảm và tìm thấy hình ảnh của mình trong sách. James R. Doty là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, là người sáng lập, điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Trên nền câu chuyện y khoa, ông đặt vào trong đó là những trải nghiệm từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, xâu chuỗi nó thành những xúc cảm đầy trải nghiệm. Dù ở khía cạnh nào, tác giả cũng chia sẻ, lý giải những vấn đề cuộc sống mà bất kỳ ai cũng sẽ trải qua. Xuyên suốt 3 phần của quyển sách, tác giả lần lượt hồi tưởng lại những giai đoạn cuộc sống của mình. Can đảm để đối diện với những vết thương, nhìn nhận sự thất bại là cách mà James R. Doty viết nên quyển sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”. Nhận xét về cuốn sách, thầy Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh là “sâu sắc và đẹp đẽ”, bởi vì dù trong bất cứ thời điểm nào trong cuộc đời, James luôn giữ niềm hy vọng tích cực, hạnh phúc để làm kim chỉ nam trong hành trình đi tìm mục đích sống. Và ông truyền tải tinh thần đó xuyên suốt các trang sách, để người đọc thấy được ý nghĩa bản thân. Từ một đứa trẻ lớn lên trong một gia đình tầng lớp thấp ở vùng Lancaster, tuổi thơ của tác giả vẫn nuôi trong mình một ước mơ. Rồi cậu gặp gỡ bà chủ của một tiệm bán đồ ảo thuật tên Ruth, bà đã chỉ Jim một “màn ảo thuật” đặc biệt. Mà tác giả gọi trong sách là “4 bí quyết của Ruth” gồm: Thả lỏng cơ thể, Thuần hóa tâm trí, Mở rộng trái tim và Tinh lọc mục tiêu. Chính cuộc gặp gỡ đó đã tạo ra một động lực phi thường để cậu bé Jim hoàn thành ước mơ trở thành một bác sĩ Phẫu thuật Thần kinh. Phép màu mà tác giả nói đến trong sách chính là định hình mục tiêu của bản thân, đặt suy nghĩ luôn hướng về điều đó và giữ niềm tin vào con đường của mình để đi đến đích. Não bộ sẽ luôn chọn lựa những gì quen thuộc thay vì những gì xa lạ. Bằng việc tưởng tượng ra tương lai thành công của mình, bạn đã khiến não quen thuộc với thành công này. Như cách James tôi luyện tâm trí mình trở thành một bác sĩ rất lâu trước khi nộp đơn vào trường y, đơn giản bằng cách hình dung mình là một bác sĩ. Ai trong đời đều có mục tiêu để đi về phía trước. Nhưng nếu bản đồ cuộc sống bắt bạn trải qua nhiều thử thách thì bạn cần chiếc la bàn để định vị lại. Như tác giả phải tự xoay sở trước những sóng gió mà gia đình mang đến. Ông không ngại việc “vạch áo cho người xem lưng” khi nói về gia cảnh của mình. Nhưng tuyệt nhiên, trong những câu từ đó không hề là sự trách giận, ngược lại nó chứa đầy tình yêu thương. Chẳng có cái gọi là cuộc đời hoàn hảo mà chúng ta sinh ra đã ở sẵn trong đó. Ngay cả khi thành công, cuộc sống cũng sẽ mang đến thách thức để “đánh giá” khả năng xử lý hoàn cảnh của chúng ta. Ai cũng đều muốn được công nhận về năng lực của mình dù ở bất cứ lĩnh vực nào. Nhưng sẽ là tự mãn nếu chúng ta không giữ được thăng bằng giữa những sự nhìn nhận đó. Tác giả không chỉ kể về những thành công mà còn đối diện với sự thất bại bởi tính kiêu ngạo của chính mình mà ông viết trong sách: “Tôi đã trở nên ngạo mạn. Phương pháp có được mọi thứ tôi muốn, kỹ thuật chuyên môn trong giải phẫu thần kinh của tôi đã khiến tôi cảm thấy mình quan trọng và đặc biệt theo một cách tôi chưa từng cảm thấy trước đây”. Điều đó dẫn đến việc ông phải đối mặt với cái chết là lúc câu chuyện đẩy lên cao trào. Trong hành trình cận tử đó, ông như được thức tỉnh, tự nhủ rằng đây không phải là cách mà cuộc đời ông nên kết thúc. Như tác giả viết trong sách, chúng ta có thể chết đến ngàn lần trong cuộc đời này. Và đó là một trong những món quà tuyệt vời nhất của việc được sống. Vết thương lòng vẫn thường trao cho ta cơ hội lớn lao để trưởng thành. Cuộc sống phải mất nhiều năm trời và nhiều sai lầm đau đớn trước khi chúng ta nhận ra điều đó. Như không để chúng ta mất nhiều thời gian tương tự, nên tác giả quyển “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu” đã gói gọn hết những ý nghĩa đó trong hơn 300 trang sách. Những khoảnh khắc tiêu cực nhất lại chứa đựng sự tích cực khi nó thúc đẩy nội tại chúng ta thay đổi. Và trên hết thảy những cảm xúc đẹp đẽ và mãnh liệt, tác giả dần đưa người đọc đi sâu hơn vào ý nghĩa hạnh phúc của cuộc đời. Giống như rất nhiều thứ khác trong đời, niềm tin của chúng ta vốn là hiện thân của những trải nghiệm sống của chúng ta. Theo lý giải của tác giả, trái tim là nơi chúng ta tìm thấy sự an ủi và an toàn trong tăm tối. Nó là thứ ràng buộc chúng ta lại với nhau và là thứ tan vỡ khi chúng ta chia lìa. James R. Doty cũng khẳng định, đầu óc là sức mạnh, nhưng nó chỉ có thể đạt được thứ ta thật sự muốn nếu ta mở rộng trái tim mình trước tiên. Mà ông gọi đó là la bàn trái tim. Chúng có thể làm tăng sự tập trung, đưa ra quyết định nhanh hơn, nhưng khi có sự khôn ngoan và mở rộng trái tim. Hành trình của chúng ta không chỉ là một hành trình đơn độc đi vào nội tâm, mà còn là hành trình hướng ngoại với sự nối kết. Cách duy nhất để thật sự thay đổi và biến chuyển cuộc đời mình theo hướng tốt đẹp hơn chính là làm thay đổi và biến chuyển cuộc đời của những người khác. Tổng thể cuốn sách là một sự chiêm nghiệm sâu sắc, với trải nghiệm mà ai cũng sẽ đôi lần chạm phải. Tác giả tạo ra sự thân thuộc trong cách kể chuyện của mình bằng sự tinh tế, thấu cảm. Với tất cả những mảng màu đó, ông đưa người đọc tìm về ý nghĩa của hạnh phúc. Mỗi chúng ta có câu chuyện của riêng mình, trong mỗi câu chuyện ấy đều có những phân đoạn đớn đau và buồn bã. Chúng ta có thể tạo ra mọi thứ chúng ta muốn. Trao đi yêu thương luôn là điều có thể. Mỗi hành động của lòng trắc ẩn, mỗi khoảnh khắc của thấu hiểu là một món quà dành cho thế giới này và cho chính bạn.  Về tác giả sách “Bước vào cửa hiệu nhiệm màu”: Tiến sĩ James Doty (sinh ngày 1-12-1955) là giáo sư lâm sàng tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Đại học Stanford, là người sáng lập và điều hành Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Lòng trắc ẩn và vị tha (CCARE) tại đại học Y Stanford. Ông đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học CA, Irvine và trường Y thuộc Đại học Tulane. Ông có nhiều đóng góp trong lĩnh vực chuyên môn và cả những hoạt động xã hội. Ông là Chủ tịch của Quỹ Dalai Lama, phó chủ tịch của tổ chức Hiến chương Nhân ái Quốc tế, thành viên của Hội đồng Tư vấn Quốc tế về Nghị trường và Tôn giáo thế giới. Theo First News *** Cuốn sách đầy sức mạnh này của bác sĩ Doty là một chứng thư về cách mà niềm tin và lòng trắc ẩn vượt lên khỏi tôn giáo, sắc tộc và quốc tịch để giúp đỡ một cá nhân vượt qua nghịch cảnh và những giới hạn riêng tư. Nó là một nguồn cảm hứng. — Sri Sri Ravi Shankar, nhà sáng lập và lãnh đạo tinh thần của Art of Living Foundation Đây là câu chuyện về đức tin vượt qua mọi ranh giới và rào cản của tôn giáo. Một câu chuyện của hy vọng trong việc đối mặt với thử thách to lớn nhất cuộc đời và câu chuyện của phép màu mở ra cánh cửa của tiềm năng và sự chữa lành. Đây là hành trình của một nhà giải phẫu thần kinh có cuộc đời ghi dấu bằng cả thành công lẫn thất bại, và lúc nào cũng được bao bọc trong cái khung lộng lẫy của hy vọng, sự tử tế và lòng trắc ẩn. Cuốn sách sẽ chạm vào trái tim, tâm hồn và tâm trí chúng ta. — Rev. Dr. Joan Brown Campbell, giám đốc danh dự về tôn giáo tại Học viện Chautauqua, cựu giám đốc điều hành Hội đồng Giáo hội Thế giới Khi một người có thể tiến hóa từ suy nghĩ đầu óc đến trái tim, người đó thực tế đã tiến tới đỉnh cao nhất của tình yêu và lòng trắc ẩn thật sự. Jim Doty nỗ lực một cách chân thành đưa người đọc vào chuyến hành trình từ lãnh địa bị giới hạn của đầu óc đến địa hạt không giới hạn của trái tim, nơi mà lòng trắc ẩn thực thụ đang cư ngụ. Khả năng đặt bản thân vào vị thế của người khác, để nhìn và cảm nhận như chính người đó là một thiên khiếu hiếm có của một nhà khám phá tâm linh. Mong cuốn sách này trở thành nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người. — Thánh mẫu Mata Amritanandamayi (Amma) Phép màu từ câu chuyện của Jim, sự thấu suốt mà anh dùng để chia sẻ cuộc đời anh với chúng ta, là một món quà vĩ đại và là thứ mà tôi sẽ khuyến khích tất cả mọi người đón nhận bằng vòng tay rộng mở. Ngôn từ của anh, thuật nhớ của anh – CDEFGHIJKL – xứng đáng nhận được sự chú ý, sự chú tâm toàn diện của chúng ta, và phần thưởng cho điều đó là khám phá ra sức mạnh của việc khai mở trái tim con người với nhau và với thế giới. — Scott Kriens, đồng giám đốc của tổ chức 1440 và chủ nhiệm của Juniper Networks Sự thật là cuốn sách của Jim Doty không nằm trong danh sách đọc của tôi. Rồi, bằng một sự ngẫu nhiên mà tôi đã đọc lướt qua trang đầu của cuốn sách. Tôi lập tức bị cuốn hút bởi sự thật lòng, sự chân thành không phòng vệ trong cách anh chia sẻ một câu chuyện đầy ắp tình người vô cùng hấp dẫn và sâu sắc. Anh ấy dẫn dắt chúng ta đi qua một hành trình đầy mê hoặc, từ một tuổi thơ khốn khó đến đỉnh cao của thành tựu. Đây là một câu chuyện phong phú những cảm hứng, hiểu biết và bài học cuộc đời khiến tôi ước gì nó đừng bao giờ kết thúc. Có thể nào đọc về cuộc đời một người nào đó lại có thể làm thay đổi cuộc đời của chính bạn? Hãy bước vào cửa hiệu nhiệm màu cùng với Jim Doty và bạn sẽ tìm thấy câu trả lời. — Neal Rogin, nhà văn, nhà làm phim từng đoạt giải Emmy, thành viên hội đồng sáng lập Pachamama Alliance Cuốn sách này là lời chứng nhận đầy sức mạnh về việc khi chúng ta lựa chọn lòng trắc ẩn như là một phần định nghĩa về con người mình thì phép màu sẽ thật sự bắt đầu hiện ra trong đời ta ra sao. Một cuốn sách truyền cảm hứng bậc nhất nâng đỡ tinh thần chúng ta, khai mở trái tim ta trong thời điểm mà quá nhiều những thứ chúng ta nghe và đọc được dường như chỉ khiến ta thêm tuyệt vọng về nhân loại. Bất kỳ ai đọc cuốn sách này đều sẽ thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. — Thupten Jinpa, tiến sĩ, tác giả cuốn A Fearless Heart *** Giới thiệu Những điều tốt đẹp Có một âm thanh đặc thù được tạo ra khi lớp da đầu được kéo toạc ra khỏi hộp sọ – như âm thanh của một miếng băng gai cỡ lớn khi giật ra khỏi mặt bông. Thanh âm ấy vang lớn, giận dữ và có chút đau buồn. Ở trường Y, không có những lớp học dạy ta những âm thanh và mùi của một cuộc phẫu thuật não. Họ nên mở những lớp như vậy. Tiếng rè rè của mũi khoan nặng trịch khi nó bắt đầu khoan xuyên qua hộp sọ. Cái cưa xương tẩm cả căn phòng phẫu thuật với một thứ mùi của mùn cưa ngày hè, khi nó cắt một đường nối liền những cái lỗ mà mũi khoan vừa tạo ra. Tiếng lép bép khiên cưỡng mà hộp sọ tạo ra khi nó bị nhấc ra khỏi lớp màng cứng[1], lớp bao dày bọc lấy não bộ và phụng sự như một phòng tuyến cuối cùng bảo vệ não bộ khỏi thế giới bên ngoài. Cây kéo chầm chậm cắt qua lớp màng cứng. Khi bộ não phơi bày ra, ta có thể thấy nó phập phồng theo từng nhịp tim, và thỉnh thoảng ta dường như có nghe thấy nó rên rỉ phản kháng trong trạng thái trần trụi và dễ tổn thương của mình – bí mật của nó bị phơi bày cho tất cả dưới ánh đèn chói mắt của phòng mổ. Cậu bé trông bé nhỏ trong bộ đồ bệnh nhân và gần như bị chiếc giường bệnh nuốt chửng trong lúc cậu nằm chờ phẫu thuật. – Bà ngoại đã cầu nguyện cho mẹ. Và bà cũng cầu nguyện cho con nữa. Tôi nghe tiếng hít vào thở ra nặng nhọc của mẹ đứa trẻ khi cô nói những lời này, và tôi biết cô đang cố gắng tỏ ra mạnh mẽ vì con trai mình. Vì chính cô. Và thậm chí có lẽ vì cả tôi nữa. Tôi luồn tay mình vuốt tóc cậu bé. Mái tóc nâu, dài và khỏe – vẫn mang dáng dấp của một đứa trẻ hơn là một chàng trai. Cậu bé nói với tôi cậu vừa trải qua sinh nhật của mình. – Con có cần bác giải thích lần nữa những gì sẽ xảy ra hôm nay không, nhà vô địch? Hay là con đã sẵn sàng rồi? – Cậu bé thích được gọi là Nhà vô địch, hoặc là Anh bạn. – Con sẽ đi ngủ. Và bác sẽ lấy thứ Xấu xí ra khỏi đầu con, đầu con không còn đau nữa. Rồi con sẽ gặp lại mẹ và bà ngoại. Thứ Xấu xí ấy là một khối u nguyên bào tủy[2], loại u não ác tính thường gặp nhất ở trẻ em, khối u nằm ở hố sọ sau (phần đáy sọ). Medulloblastoma, u nguyên bào tủy, không phải là một từ dễ phát âm ngay cả với người lớn, càng khó hơn với một đứa trẻ bốn tuổi, cho dù nó có thông minh đến mấy. Những khối u não ở trẻ em vốn thật sự là thứ vô cùng xấu xí, vì vậy tôi hoàn toàn tán thành cách gọi của cậu bé. Những khối u nguyên bào tủy không có hình dạng nhất định và thường xuyên là kẻ xâm lấn lố bịch vào những cấu tạo cân đối tinh tế của não bộ. Chúng xuất hiện ở hai thùy tiểu não và rồi lớn dần lên, cuối cùng chúng sẽ chèn ép lên, không chỉ vùng tiểu não, mà còn lên thân não cho đến khi nó dứt khoát chặn đứng mọi đường dẫn cho phép chất lỏng trong não tuần hoàn. Não bộ là một trong những tạo tác đẹp đẽ nhất tôi từng thấy. Khám phá bí ẩn của nó và tìm cách chữa lành nó là một đặc ân mà tôi chưa bao giờ dám xem nhẹ. – Bác thấy con đã sẵn sàng rồi. Giờ bác sẽ đeo chiếc mặt nạ siêu anh hùng của mình và bác sẽ gặp lại con trong căn phòng ánh sáng nhé. Cậu bé mỉm cười với tôi. Khẩu trang và phòng phẫu thuật có thể nghe hơi đáng sợ. Hôm nay tôi gọi chúng là mặt nạ siêu anh hùng và phòng ánh sáng, như thế cậu bé sẽ không cảm thấy sợ hãi nữa. Tâm trí là một thứ thú vị, nhưng tôi sẽ không đi giải thích ngữ nghĩa học với một cậu bé bốn tuổi. Một số trong những bệnh nhân và những người khôn ngoan nhất tôi từng gặp đều là trẻ em. Trái tim trẻ em là những trái tim rộng mở. Lũ trẻ sẽ nói với bạn điều gì khiến chúng sợ hãi, điều gì khiến chúng vui vẻ, hay điều chúng thích và không thích ở bạn là gì. Không có bất kỳ sự che giấu nào và bạn không bao giờ phải đoán xem chúng thật sự cảm thấy thế nào. Tôi quay lại phía mẹ và bà ngoại của cậu bé. – Một người trong tổ phẫu thuật của chúng tôi sẽ cập nhật tình hình cho các vị trong lúc chúng tôi tiến hành ca mổ. Tôi dự tính đây sẽ là một lần cắt bỏ triệt để. Và tôi không nghĩ rằng sẽ có bất kỳ biến chứng nào. – Đây không chỉ là những lời động viên trước phẫu thuật để nói với người nhà bệnh nhân những gì họ muốn nghe, dự định của tôi là thực hiện một cuộc phẫu thuật triệt để và hiệu quả để cắt bỏ toàn bộ khối u, đồng thời gửi một mẫu nhỏ của khối u đến phòng thí nghiệm để xem thứ Xấu xí ấy rốt cuộc xấu xí đến đâu. Tôi biết mẹ lẫn bà ngoại cậu bé đều đang lo sợ. Tôi lần lượt nắm lấy tay từng người, cố gắng đảm bảo với họ và xoa dịu họ. Việc này chẳng bao giờ dễ dàng. Một cơn đau đầu buổi sáng của đứa con bé bỏng đã trở thành cơn ác mộng tồi tệ của mọi bậc làm cha mẹ. Người mẹ tin tưởng tôi. Người bà tin vào Chúa Trời. Tôi thì tin tưởng đội ngũ của mình. Cùng nhau, chúng tôi sẽ nỗ lực cứu lấy mạng sống của đứa trẻ này. SAU QUÁ TRÌNH GÂY MÊ, tôi đặt đầu cậu bé vào một cái khung gắn với sọ của cậu, và sau đó đặt cậu nằm sấp xuống. Tôi lấy cái tông đơ cắt tóc ra. Mặc dù y tá thường là người chuẩn bị các khâu tiền phẫu thuật, nhưng tôi vẫn muốn tự mình cạo tóc cho đứa trẻ. Với tôi, việc này tựa như một nghi thức. Và trong lúc chậm rãi cạo mái tóc, tôi nghĩ về đứa trẻ bé bỏng thông minh này và điểm qua từng chi tiết của ca phẫu thuật trong đầu mình. Tôi cắt nhúm tóc đầu tiên và đưa nó cho người truyền tin để bỏ vào một cái túi nhỏ giao lại cho người mẹ. Đây là lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, trong khi đó là điều cuối cùng mà người mẹ bận tâm lúc này, tôi vẫn biết nó sẽ quan trọng với cô ấy về sau. Đó là một cột mốc mà ta sẽ muốn ghi nhớ. Lần đầu tiên cắt tóc. Lần đầu tiên nhổ răng. Ngày đầu tiên đi học. Lần đầu tiên đi xe đạp. Nhưng lần đầu tiên phẫu thuật não chưa bao giờ nằm trong danh sách này. Tôi nhẹ nhàng cắt từng lọn tóc nâu sáng khỏe mạnh, hy vọng bệnh nhân nhỏ tuổi của tôi rồi có thể trải nghiệm được mỗi một trải nghiệm đầu tiên kia. Trong tâm trí mình, tôi có thể hình dung cậu bé tươi cười với hàm răng trống mất chiếc răng cửa. Tôi hình dung cậu bé bước vào nhà trẻ với chiếc ba lô to tướng bằng cả thân người quàng trên vai. Tôi thấy cậu đạp xe đạp lần đầu tiên – sự rộn ràng của tự do lần đầu tiên ấy, luống cuống nhấn bàn đạp với từng làn gió lùa qua mái tóc. Tôi nghĩ về những đứa con của mình trong lúc tiếp tục cạo đi mái tóc của cậu bé. Hình ảnh và cảnh tượng về tất cả những lần đầu tiên của cậu bé trong tâm trí tôi rõ ràng đến mức tôi không thể tưởng tượng đến bất kỳ kết quả nào khác. Tôi không muốn nhìn thấy tương lai của những lần ra vào bệnh viện và những đợt điều trị ung thư, những lần phẫu thuật bổ sung khác. Là một người sống sót từ chứng u não ở trẻ em, cậu bé sẽ luôn luôn cần được theo dõi, nhưng tôi từ chối nhìn thấy hình ảnh cậu trong tương lai như những gì cậu đã trải qua trong quá khứ. Những trận buồn nôn và ói mửa. Những lần té ngã. Những lần bật dậy vào sáng sớm hét tìm mẹ bởi vì thứ Xấu xí lại chèn ép trong não của cậu gây đau đớn. Cuộc đời đã có đủ đớn đau nên không cần thêm điều này vào nữa. Tôi tiếp tục nhẹ nhàng xén phần tóc của cậu bé chỉ vừa đủ để tiến hành công việc của mình. Tôi điểm hai chấm ở phần đáy sọ, nơi chúng tôi sẽ rạch đường dao mổ và rồi tôi vẽ một đường thẳng nối chúng lại. Phẫu thuật não vốn đã khó, mà phẫu thuật vùng hố sọ sau còn khó hơn, và phẫu thuật hố sọ sau của một đứa trẻ thì lại cực kỳ khó. Khối u rất lớn. Việc phẫu thuật cần tiến hành cẩn thận, chậm rãi và tỉ mỉ. Đôi mắt phải nhìn qua kính hiển vi hàng giờ liền để tập trung vào một thứ duy nhất. Là một bác sĩ phẫu thuật, chúng tôi được rèn luyện phải dập tắt mọi phản ứng thể lý trong quá trình phẫu thuật. Chúng tôi không đi vệ sinh. Chúng tôi cũng không ăn. Chúng tôi đã được rèn luyện để lờ đi khi lưng bị đau hay bị co cơ. Tôi nhớ lần đầu tiên bước vào phòng mổ, trợ phẫu cho một nhà giải phẫu học nổi tiếng không chỉ vì tài năng mà còn bởi tính hiếu chiến, kiêu căng, tự phụ trong lúc làm phẫu thuật. Tôi đã khiếp sợ và căng thẳng, và khi tôi đứng cạnh ông trong phòng phẫu thuật, mồ hôi bắt đầu túa ra khắp mặt tôi. Tôi hít thở nặng nề sau lớp khẩu trang và cặp kính trên mắt tôi bắt đầu mờ hơi nước. Tôi không thể nhìn rõ các dụng cụ, hay thậm chí là phạm vi tiến hành phẫu thuật. Tôi đã làm việc vô cùng chăm chỉ, đã vượt qua rất nhiều thứ và giờ tôi đứng đây, tham gia một ca phẫu thuật như tôi hằng mơ ước, vậy mà tôi lại chẳng nhìn thấy gì cả. Rồi một chuyện không thể hình dung nổi đã xảy ra. Một giọt mồ hôi lăn khỏi mặt tôi và rơi xuống khu vực vô trùng. Vậy là ông ấy nổi điên lên. Ca mổ lẽ ra là một điểm sáng của đời tôi, lần đầu tiên tôi thực hành phẫu thuật, nhưng thay vào đó, tôi đã làm ô uế khu vực vô trùng và nói ngắn gọn là bị tống ra khỏi phòng mổ. Một trải nghiệm mà tôi sẽ không bao giờ quên. Hôm nay, vầng trán của tôi khô ráo và thị lực rõ ràng. Mạch đập của tôi chậm và ổn định. Kinh nghiệm tạo ra sự khác biệt, và trong phòng phẫu thuật của tôi, tôi không phải là kẻ độc tài hay một kẻ hiếu chiến ngạo mạn. Mỗi thành viên trong tổ phẫu thuật đều đáng quý và cần thiết. Tất cả đều tập trung vào nhiệm vụ của mình. Bác sĩ gây mê sẽ theo dõi huyết áp và lượng oxy trong máu của cậu bé, mức độ ý thức cũng như nhịp tim của cậu. Y tá phòng mổ sẽ liên tục giám sát dụng cụ và vật dụng tiếp tế, đảm bảo mọi thứ tôi cần đều nằm trong tầm tay. Một chiếc túi lớn được gắn vào tấm trải giường, treo phía dưới đầu cậu bé để hứng máu và dịch rửa. Chiếc túi được nối với một cái ống đến một máy hút lớn và sẽ không ngừng đo lường lượng chất lỏng để chúng tôi luôn biết được đã mất đi bao nhiêu máu. Phụ mổ cho tôi là một sinh viên nội trú năm cuối đang trong kỳ thực tập và là thành viên mới của tổ, nhưng cậu ta cũng hoàn toàn tập trung giống như tôi vào những mạch máu, mô não và những tiểu tiết trong việc loại bỏ khối u. Chúng tôi chẳng thể nghĩ gì về những kế hoạch ngày mai, những chính sách của bệnh viện, những đứa con của chúng tôi hay những mối quan hệ gia đình trắc trở. Công việc này đòi hỏi sự cảnh giác cao độ, tập trung tuyệt đối vào một điểm duy nhất, giống như thiền định vậy. Chúng tôi đã rèn luyện tâm trí của mình, và tâm trí đã rèn luyện cơ thể. Sẽ là một dòng chảy, một giai điệu tuyệt vời khi bạn có một đội ngũ hoàn hảo mà tất cả mọi người đồng bộ với nhau. Tâm trí và cơ thể chúng tôi vận hành cùng nhau như một thể thống nhất. Tôi đang loại bỏ phần cuối cùng của khối u, phần gắn với một trong những tĩnh mạch quan trọng nhất trong bộ não. Hệ thống tĩnh mạch ở hố sọ sau cực kỳ phức tạp, và phụ mổ của tôi tiến hành hút dịch trong lúc tôi cắt bỏ từng chút tàn dư sau cùng còn lại của khối u. Cậu ấy đã để tâm trí mình lơ đãng trong đúng một giây, và trong một giây đó, ống hút của cậu đã làm rách tĩnh mạch; và trong một khắc, mọi thứ đều ngừng lại. Rồi những điều kinh khủng ập đến! Máu từ tĩnh mạch bị rách kia tràn vào khoang phẫu thuật và bắt đầu lan khắp vết thương trên đầu đứa trẻ đẹp đẽ này. Bác sĩ gây mê bắt đầu hét lên rằng huyết áp của cậu bé đang tuột rất nhanh và lượng máu mất đi là không thể kiểm soát. Tôi cần kẹp chặt tĩnh mạch lại và ngăn máu chảy nhưng tĩnh mạch đã chìm vào cái hố đầy máu và tôi không thể nhìn thấy nó. Chỉ riêng chiếc máy hút của tôi thì không thể kiểm soát được lượng máu chảy, và đôi tay cậu phụ tá run rẩy đến nỗi chẳng thể giúp được gì. – Thằng bé ngừng tim, ngừng thở rồi! – Bác sĩ gây mê hét lên. Anh ta phải bò xuống gầm bàn mổ bởi đầu của đứa trẻ bị khóa chặt vào cái khung, theo thế nằm sấp, với phần sau đầu mở toang. Bác sĩ gây mê bắt đầu ép vào ngực cậu bé trong lúc tay còn lại giữ phần lưng của cậu, tận sức cố gắng làm tim cậu bé đập trở lại. Chất lỏng sắp tràn vào những tĩnh mạch chủ. Chức năng cơ bản và quan trọng nhất của tim là bơm máu, và cái bơm diệu kỳ giúp cho mọi thứ trên cơ thể vận hành này đã dừng lại. Đứa trẻ bốn tuổi này đang chảy máu đến chết trên bàn mổ ngay trước mắt tôi. Trong lúc bác sĩ gây mê ấn vào ngực cậu bé, thì vết thương tiếp tục ngập trong máu. Chúng tôi phải cầm được máu, hoặc là đứa trẻ sẽ chết. Não tiêu thụ 15% lượng máu bơm từ tim và chỉ có thể sống sót vài phút sau khi tim ngừng đập. Não cần máu, và quan trọng hơn, nó cần oxy có trong máu. Thời gian của chúng tôi đang cạn dần trước khi cậu bé chết não – chúng cần có nhau – bộ não và trái tim. Tôi cố gắng kẹp tĩnh mạch lại, nhưng không cách gì thấy được mạch máu qua vũng máu này. Mặc dù đầu cậu bé được cố định nguyên vị trí, nhưng những lần ép ngực vẫn làm nó di chuyển rất nhẹ từng chút một. Cả đội biết và tôi cũng biết rằng chúng tôi không còn nhiều thời gian. Bác sĩ gây mê ngước lên nhìn tôi và tôi nhìn thấy nỗi sợ trong mắt anh. Chúng tôi có thể sẽ để mất đứa bé này. Hồi sức tim phổi (CPR) giống như khởi động ly hợp một chiếc xe ô tô đang sang số hai vậy, hoàn toàn không chắc chắn, đặc biệt khi chúng tôi đang không ngừng để bị mất máu như thế này. Máu tiếp tục chảy tràn trong phần đầu đang hở của đứa trẻ. Tôi đang làm việc trong trạng thái mò mẫm và tôi chẳng thể làm được gì để ngăn máu chảy. Tôi nhìn vào máy đo nhịp tim và vẫn chẳng có nhịp tim nào cả. Trong khoảnh khắc đó, tôi mở rộng trái tim mình để có thể vượt lên mọi lý lẽ, mọi kỹ năng, và tôi làm theo những gì tôi được dạy cách đây hàng thập kỷ, không phải trong trường nội trú, không phải trong trường Y, mà ở trong một căn phòng phía sau một cửa hiệu ảo thuật bé nhỏ trong vùng hoang mạc California. Tôi thả lỏng tâm trí. Tôi thư giãn cơ thể. Tôi hình dung ra mạch máu đã bị chìm vào vũng máu kia. Tôi nhìn thấy nó bằng đôi mắt tâm trí, đôi mắt được lắp vào đường đi trong hệ mạch máu của đứa trẻ này. Tôi tiến lên trong trạng thái mò mẫm nhưng hiểu được rằng cuộc sống có nhiều hơn những gì chúng ta có thể nhìn thấy, và mỗi chúng ta có khả năng làm những điều phi thường vượt xa những gì chúng ta nghĩ. Chúng ta làm chủ chính vận mệnh của mình, và tôi không chấp nhận đứa trẻ bốn tuổi này phải đi đến cái chết trên bàn mổ ngày hôm nay. Tôi với tay xuống vũng máu với một cái kẹp, kẹp lại, rồi chậm chậm rút tay ra. Máu ngừng chảy, và rồi, như từ chốn xa xôi nào đó, tôi nghe thấy tiếng tích tắc rất chậm của máy đo nhịp tim. Lúc đầu rất yếu ớt. Không đều. Nhưng rồi nó nhanh chóng trở nên mạnh mẽ và đều đặn hơn, y như mọi trái tim vẫn đập khi nó bắt đầu đến với sự sống. Tôi cảm thấy nhịp tim của mình bắt đầu khớp với nhịp tim trên máy. Sau đó, với tư cách là bác sĩ phẫu thuật, tôi sẽ trao cho người mẹ những gì còn lại sau lần cắt tóc đầu tiên của cậu bé, và anh bạn nhỏ của tôi sẽ thoát khỏi trạng thái bị gây mê, trở thành người sống sót. Cậu bé sẽ hoàn toàn bình thường. Trong vòng bốn mươi tám tiếng sau đó, cậu sẽ nói chuyện lại được và thậm chí có thể cười, tôi có thể nói với cậu rằng thứ Xấu xí đã không còn nữa rồi. Mời các bạn mượn đọc sách Bước Vào Cửa Hiệu Nhiệm Màu của tác giả Dr. James R. Doty & Cẩm Xuân (dịch).
Nghệ Thuật Thuyết Phục Đỉnh Cao
Điểm chung lớn nhất giữa Larry King – ông hoàng của truyền hình Mỹ và Steve Jobs – linh hồn của Apple là gì? Đó chính là phong cách thuyết trình đỉnh cao, thu hút người nghe, lối dẫn dắt đi vào lòng người và tác phong vô cùng chuyên nghiệp của họ. Dù bạn có một ý tưởng tuyệt vời, cũng sẽ không ai có thể hiểu được nó nếu bạn thiếu đi khả năng trình bày thuyết phục. Ngoài kĩ năng lựa chọn ngôn ngữ, trình bày ấn tượng, bạn còn cần biết những kĩ năng nào để đi đến thành công trong việc thuyết trình và thuyết phục người khác? Hãy cùng chúng tôi đến với Nghệ thuật thuyết phục đỉnh cao của tác giả Peter Coughter để vén lên bức màn bí mật phía sau các buổi thuyết trình không còn một ghế trống của Steve Jobs, để “Ồ” lên thích thú với những phi vụ làm ăn thành công nhờ thuyết trình và thấy rằng: “Tất cả đều là thuyết trình.” Thách thức lối mòn, tạo ra ngoại lệ. Đó là điều tôi đang muốn nói đến ở đây. Hãy tạo ra những sản phẩm khác thường. Tạo ra những bài thuyết trình đặc biệt. Tạo ra một cuộc đời hiếm có. Làm được những việc này đòi hỏi bạn phải can đảm đứng lên. Hầu hết chúng ta đều không sẵn sàng mạo hiểm với những gì mình nghĩ, việc này đòi hỏi chúng ta phải kìm hãm sức mạnh cá nhân và biến đổi cuộc đời của mình. Nhưng đó không phải là vì chúng ta sợ thất bại mà vì chúng ta sợ mình sẽ thành công. Đó mới chính là điều chúng ta thật sự khiếp sợ. Thuyết trình là một kỹ năng và để kỹ năng ngày một tiến bộ, chúng ta thường phải dùng tới một số kỹ thuật. Theo nhận thức thông thường, dạy học là định hình con người theo một khuôn mẫu nào đó và điều này về cơ bản rất hiệu quả. Nhưng phương pháp của Peter lại hoàn toàn khác. Điều anh muốn chỉ dẫn cho học sinh của mình là cách thể hiện tính cách, phẩm chất cá nhân và giúp họ khám phá những khả năng bẩm sinh của chính mình. Peter không “dạy”. “Thuyết trình đâu chỉ liên quan đến ngôn từ” – đó là một trong những quan điểm của Peter Coughter. Liệu một giáo viên người Mỹ có thể dạy một học sinh người Nhật thuyết trình bằng ngôn ngữ tiếng Nhật được không? Không thể ư? Không, ngược lại, kết quả vô cùng đáng kinh ngạc. Kỹ năng thuyết trình tiếng Nhật của các học sinh người Nhật đã cải thiện ngoạn mục. Phương pháp của Peter đã vượt qua biên giới và ngôn ngữ. Cuối cùng, điều quan trọng nhất trong tất cả những điều này chính là những thứ chúng ta học được từ Peter. Chúng ta dễ dàng quên những gì được dạy bảo nhưng không thể quên những gì tự mình khám phá ra. Học sinh của Nhật Bản sẽ lưu giữ mãi trong tim những gì Peter đã giúp họ nhận ra. Vì thế, Peter không phải là một giáo viên, anh là một người hướng dẫn khám phá. Người Nhật có một từ rất hay để miêu tả người hướng dẫn, chuyên gia – doshi. *** Review Sách “ Nghệ Thuật Thuyết Phục Đỉnh Cao”: Đừng Để Thuyết Trình Chỉ Đơn Giản Chỉ Là “Đọc Slide”? Dù bạn có một ý tưởng tuyệt vời, cũng sẽ không ai có thể hiểu được nó nếu bạn thiếu đi khả năng trình bày thuyết phục. Ngoài kĩ năng lựa chọn ngôn ngữ, trình bày ấn tượng, bạn còn cần biết những kĩ năng nào để đi đến thành công trong việc thuyết trình và thuyết phục người khác? Hãy để Nghệ thuật thuyết phục đỉnh cao của Peter Coughter vén bức màn bí mật phía sau các buổi thuyết trình không còn một ghế trống của Steve Jobs, để “Ồ” lên rằng: “Tất cả đều là thuyết trình”. Peter Coughter là giáo sư tại VCU Brandcenter thuộc Đại học Virginia Commonwealth và là Giám đốc của Coughter & Company, chuyên tư vấn cho các công ty quảng cáo hàng đầu thế giới như DDB, Dentsu, JWT, Leo Burnett, Publicist, McKinney,… Thành tích ấn tượng nhất của ông là giúp cho thành phố Boston trở thành ứng cử viên đăng cai Thế vận hội mùa hè 2024. Hơn ai hết, ông hiểu được rằng thuyết trình là một kỹ năng quan trọng đến nhường nào, bởi chính sức mạnh của nó đã giúp cho công ty ông đánh bại các đối thủ sừng sỏ nhất trong ngành.  Sức mạnh của việc tạo ra kết nối cảm xúc với khas giả rằng chúng tôi muốn có được cơ hội hợp tác, sẵn sàng làm tất cả mọi điều cần thiết để có được cơ hội đó, đủ để khiến họ thuê chúng tôi. Nếu chỉ đơn thuần là làm việc tốt nhất, có ý tưởng tuyệt vời nhất thôi thì chưa đủ. Thuyết trình – Bản trình bày chí mạng Theo từ điển New Oxford American:  Trao hoặc tặng vật gì đó cho ai đó, như một phần của một buổi lễ trọng thể: trao chứng chỉ cho các học viên mới / bài thuyết trình về “ chiến lợi phẩm”. Chúng ta có thể cho rằng những ý tưởng của mình chính là những món quà trao tới khách hàng của mình, riêng Peter Coughter lại nghĩ chính chúng ta là một món quà – chính chúng ta trao tặng bản thân cho khán giả, mang đến cho họ sản phẩm được kết tạo bởi suy nghĩ, nỗ lực và tính cách cá nhân của chính chúng ta. Đa phần mọi người không quan tâm đến việc thuyết trình, hay thực hiện một bài thuyết trình. Nhưng đó lại là cách chúng ta hướng đến, bởi xét cho cùng bất kể cuộc giao tiếp nào cũng chính là cuộc “trao tặng” một bài thuyết trình. Ngồi xuống trao đổi chút với ông chủ cũng là thuyết trình. Hẹn hò bia bọt với đồng nghiệp cũng là thuyết trình. Phỏng vấn rõ ràng là một buổi thuyết trình, và đương nhiên, ra mắt gia đình bạn trai cũng vậy. Trong mọi trường hợp, bạn đều bị đánh giá. Họ quan sát bạn, kiểm tra bạn. Có thể có một số tình huống khó khăn hơn, chông gai, gập ghềnh hơn, song dù khó hay dễ thì mọi huống vẫn đều là một bài thuyết trình. Mọi người đang hình thành quan điểm riêng về bạn – những quan điểm rất khó lòng thay đổi. Hãy làm những điều tương tự với cả những khán giả bạn đã biết, thậm chí với cả sếp của bạn. Có thể bạn nghĩ rằng mình đã quen biết cô ấy rồi nhưng hãy luôn luôn tiếp tục tìm hiểu về cô ấy. Bạn có thể cho rằng mình đã biết rõ khán giả của mình rồi nhưng chắc chắn sẽ có thứ gì đó có thể tìm hiểu thêm được, ít nhất là bạn không biết được những người ủng hộ mình ở đâu khi bạn đến một buổi hội thảo. Bạn có thể nghĩ rằng mình đã có được sự ủng hộ của người nào đó rồi nhưng mọi sự đều có thể thay đổi và người đó hoàn toàn có thể đứng sang bên kia chiến tuyến của bạn. Vì thế hãy luôn luôn tìm hiểu. Một bài thuyết trình hiệu quả là như thế nào? Hãy nghĩ về những đặc điểm của một diễn giả xuất chúng và bài thuyết trình mà người đó thực hiện. Đó là một cuộc trò chuyện, mà trong đó bạn nói là chính. Là chính bạn Kể chuyện Hiểu rõ “nghề” của mình. Thư giãn và cá nhân hóa Đề cao làm việc nhóm Mang tính cá nhân Hiểu rõ khán giả của mình Thể hiện sự dũng cảm Diễn tập Biết rõ lý do bạn ở đây Yếu tố quan trọng nhất của buổi thuyết trình là khán giả. Hầu hết mọi người đều ngạc nhiên trước quan điểm này, nhưng thực tế thì sẽ có buổi thuyết trình nào hết nếu không có khán giả. Những bản trình bày mà bạn đưa ra không phải là một bài thuyết trình. Bài diễn thuyết được chuẩn bị kỹ lưỡng không phải là bài thuyết trình. Và hàng đống quản cáo không phải là một bài thuyết trình. Thực tế, không phải ai cũng nghĩ vậy, phần lớn mọi người quá bận tâm về chính mình  đến mức không thể nghĩ thấu đáo điều đó được. CHÚNG TA NÊN ĐẶT MÌNH vào vị trí của khán giả và tự hỏi bản thân những câu hỏi sau: Bạn thích điều gì trong các bài thuyết trình? Bạn ghét điều gì? Bạn sẽ cảm thấy thú vị điều gì và thích thú những điều nào? Bạn cảm thấy điều nào thật là buồn tẻ? Phần lớn mọi người sẽ thấy các bài thuyết trình là vô cùng tẻ nhạt. Vì thế, hãy cố đừng để nó tẻ nhạt. Hãy cảm thông với họ và hãy tự hỏi những điều này có thú vị không? Nó có thu hút mình không? Ví dụ thay vì bạn thảo luận về một vấn đề nhân khẩu học cụ thể cho một sản phẩm, hoặc một thương hiệu cụ thể với các số liệu, bảng biểu và rất nhiều chữ trên màn hình bằng hình ảnh về nhân khẩu học mục tiêu trong khi miêu tả họ qua lời thuyết minh của bạn. Có thể cần sử dụng ngôn từ thú vị để trình bày ý tưởng theo một cách đầy bất ngờ, miễn là không tẻ nhạt. Bởi khán giả sẽ không nhớ phần lớn những gì bạn trình bày nhưng họ sẽ nhớ những suy nghĩ và cảm nhận của họ về những điều bạn nói. Nếu thiết kế một bài quảng cáo, chúng ta không nên chèn chữ và hình ảnh vào tất cả các khoảng trống . Hãy để các khoảng trống nhằm tạo ra một thông điệp đẹp đẽ, đầy tính thẩm mỹ. Hãy xem xét vấn đề đứng phát biểu trước khán giả dưới một góc nhìn khác: Hãy coi bài thuyết trình như một màn khiêu vũ. Bạn dẫn dắt khán giả nhưng cả hai đều nhảy. Và cùng vui. Bạn là người thiết lập nhịp điệu và nhịp độ “âm nhạc”. Bạn là người kiểm soát hoàn toàn nhưng phải thực hiện sự kiểm soát đó một cách nhẹ nhàng, không lên gân lên cốt và khán giả sẽ hưởng ứng trước sự tự tin và quyền lực của bạn. Rõ ràng là nói chuyện với người quen sẽ dề dàng hơn người lạ. Người quen và người lạ khác nhau ở đâu. Đương nhiên, là người lạ ta chưa biết điều gì về họ. Nên trong khoảng thời gian trước thuyết trình, hãy tìm hiểu hết sức có thể về toàn bộ khán giả cũng như cá nhân từng người. Họ là kiểu người nào? Dân tộc và văn hóa của họ là gì? Họ có đang vướng phải vấn đề mà bạn sắp trình bày không? Họ kỳ vọng gì ở buổi hội thảo này? Hãy để buổi thuyết trình không còn là cuộc trò chuyện với người lạ. Vì bài thuyết trình cũng đồng nghĩa với việc thể hiện năng lực, phẩm chất của chúng tôi, do đó chúng tôi quyết định trình bày một loạt các trường hợp nghiên cứu, mỗi trường hợp sẽ được lấy mẫu  dựa trên các nguyên tắc căn bản trong cuốn sách của Tôn Tử. Chúng tôi sẽ trình bày mỗi trường hợp như một chiến dịch quân sư và chọn các trường hợp từ danh mục của chính mình có thể liên quan đến ý tưởng này đồng thời lai giúp thể hiện những câu chuyện thành công hoặc những chiến thắng ngoạn mục của chúng tôi tại thị trường  ở Washington, D.C. Tất nhiên, mỗi câu chuyện đều liên quan đến nhu cầu của một khách hàng cụ thể hoặc một lĩnh vực có liên quan. Điều quan trọng cần ghi nhớ là ngay cả khi bạn định nói về bản thân, cũng hãy nói thông qua khách hàng. Khi đang nhảy cùng bạn nhảy của mình mà bạn chỉ để cho họ tự nhảy liệu bài nhảy của hai người có thành công? Cũng giống như việc bạn chỉ thao thao bất tuyệt thuyết trình, nói những điều mình đã chuẩn bị trước, mặc kệ khán giả có cảm nhận ra sao, sau đó lại trở về thế giới riêng của mình. Không nên đúng chứ. Vậy cần phải kết nối họ, kết nối khán giả với bài thuyết trình để họ không bị lạc lõng cũng như cho chính chúng ta không bị lạc đường. Một người bạn của chúng tôi, Alex Bogusky, một trong những người sáng tạo nhất ở thời đại của chúng tôi, đã nói rằng anh không bán sản phẩm mà là anh đã có một cuộc “trò chuyện” với khách hàng và họ cùng nhau quyết định rằng sản phẩm của anh đúng là thứ họ cần. Tôi hoàn toàn đồng ý rằng theo quy trình thì nên có một cuộc trò chuyện trao đổi nhưng kết quả của cuộc trò chuyện sẽ là việc bán ý tưởng. Và Alex là một nhà thuyết trình tuyệt vời.  Một số diễn giả nhất định dường như lúc nào cũng chiến thắng. Có vẻ như họ luôn có thứ họ muốn. Tại sao lại như vậy? Có phải họ thông minh hơn những người khác không? Có phải họ chỉ là những diễn giả giỏi hơn không? Có phải các agency của họ chỉ đơn giản là xuất sắc hơn? Trong một vài trường hợp, câu trả lời cho cả ba là “Đúng”. Nhưng không phải tất cả. Rất nhiều diễn giả dường như luôn dành được chiến thắng bởi họ đã lão luyện một kỹ năng quan trọng. Họ đã học cách để chân thực. Đó là xác thực, độc lập, đáng tin, có căn cứ, trung thực và chân thành. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải chân thực. Bởi người khác chỉ tin chúng ta khi chúng ta chân thực. Bởi người khác chỉ tín nhiệm chúng ta khi chúng ta chân thực và vì người ta sẽ làm những gì chúng ta yêu cầu nếu chúng ta chân thực. Thêm vào đó, đơn giản thôi, bạn chỉ cần là chính bạn thôi. Điều chúng ta thực sự giỏi là làm chính mình. Là những cá nhân chân thực, thực tế và đặc biệt. Như Collins và Porras giải thích trong cuốn Built to Last, mẹo ở đây là thảo luận từ cá nhân đến tổ chức. Những người chúng ta làm việc cùng cần phải tự hỏi bản thân: “Những giá trị cốt lõi nào mà cá nhân bạn mang đến công việc?” (Những giá trị đó phải mang tính nền tảng đến nỗi bãn sẽ duy trì chúng bất kể người khác có đánh giá cao chúng hay không.) “Những giá trị cốt lõi nào bạn sẽ nói với con cái rằng bạn đang duy trì ở nơi làm việc và hi vọng con cái bạn cũng sẽ làm như vậy khi chúng trở thành những người trưởng thành và có công ăn việc làm?”. “Nếu thức dậy vào sáng mai với đủ tiền sống đến hết đời, bạn có tiếp tục sống với những giá trị cốt lõi đó không?” “Bạn có thể hình dung ra sau 100 năm nữa, những giá trị cốt lõi đó vẫn còn nguyên giá trị với bạn như bây giờ không?” “Bạn có tiếp tục giữ những giá trị cốt lõi đó dù tại một số thời điểm, hoặc một vài giá trị đó trở thành nhược điểm trong cạnh tranh không?” “Nếu bạn bắt đầu ở một tổ chức mới vào ngày mai trong một lĩnh vực làm việc hoàn toàn khác, những giá trị cốt lõi nào sẽ được bạn xây dựng trong tổ chức đó, bất kể lĩnh vực của nó là gì?” Ba câu cuối đặc biệt then chốt bởi chúng tạo ra sự độc đáo quyết định giữa việc duy trì những giá trị cốt lõi không nên thay đổi và những hành động, chiến lược kinh doanh luôn thay đổi. Sự chuẩn bị tốt cũng quyết định sự thành công của bài thuyết trình Một phương pháp tuyệt vời để vượt qua một bài thuyết trình là hãy phác thảo nó trên những tờ giấy nhớ Post – it theo cách dựng truyện. Bạn có thể đặt tất cả trước mặt hoặc dán chúng lên một tấm bảng và di chuyển các tờ giấy đó cho đến khi bạn có được thứ tự hợp lý giúp ý tưởng có sức sống hơn. Sheila Campell, bạn của tác giả, đã phát minh ra một khuôn mẫu dành cho việc lên kế hoạch các  bài thuyết trình . Nó là dạng viết tắt, nó cực kỳ thông minh và hữu dụng nếu bạn áp dụng. Sheila gọi nó là Khuôn mẫu ACTION, tức là: A là Attention – sự chú ý. Mọi bài thuyết trình đều hay đều bắt đầu với một công cụ gì đó thu hút sự chú ý. Nó có thể là điều gì đó bạn nói hoặc vật gì đó bạn mang theo. Nó có thể là một đoạn video bắt đầu một bài thuyết trình trước khi bất cứ ai lên tiếng. Hoặc nếu bạn dùng PowerPoint, Slide  đầu tiên có thể là một hình ảnh hấp dẫn trên màn chiếu C là Capsule – sự cô đọng. Sự cô đọng là hai hay ba câu có thể tóm gọn toàn bộ nội dung của bài thuyết trình. Những câu đó nên nằm gọn trong một tấm danh thiếp. T là Theme – chủ đề. Tất cả các bài thuyết trình hay đều có một chủ đề giúp kết nối tất cả. Bạn cần quyết định chủ đề là gì rồi đảm bảo rằng tất cả những ý tưởng, suy nghĩ mà mình trình bày là thống nhất hoặc bằng cách nào đó có thể liên tưởng lại chủ đề ấy. I là Information – thông tin. Đây là những gì bạn phải kể cho khán giả thấy. Đó là số liệu, chiến lược, kế hoạch kinh doanh, ý tưởng sản phẩm, tất cả những gì bạn cần để khiến những đặc điểm xuất sắc nằm trong quan điểm bạn trở nên thuyết phục đối với họ. O là Open to Listen – sẵn sàng lắng nghe. Trong một bài thuyết trình, bạn phải luôn lắng nghe bằng cả đôi mắt cũng như đôi tai. Trong một số tình huống nhất định, ở một thời điểm nào đó, ai đó sẽ nói một điều mang tính quyết định với thành công của bạn. Họ có thể hé lộ một thứ gì đó mà bạn có thể sử dụng để bênh vực lý lẽ của mình. Hoặc có thể nhắc cho bạn biết rằng những điều bạn đang nói đã có ở trên bảng và họ muốn chuyển sang vấn đề tiêp theo. Nếu không nhận ra tín hiệu này, bạn sẽ mất đi sựu tín nhiệm họ dành cho mình. N là Next Steps – những bước tiếp theo. Bạn và đồng đội phải thống nhất được một mục đích đơn giản, rõ ràng dành cho bài thuyết trình. Điều này có thể hết sức hiển nhiên nhưng tôi đảm bảo với bạn rằng dựa trên vô số bài thuyết trình không có quan điểm nào rõ ràng mà tôi đã chứng kiến bao năm qua, nó không hiển nhiên lắm đâu. ACTION vẫn chỉ dừng lại là ACTION nếu như không có sự tập rượt nào của bạn về bài thuyết trình thì đó cũng như không thành công. Chẳng có ý kiến, mẹo vặt nào hay kỹ thuật nào có thể sửa chữa nhiều lỗi lầm bằng việc biết rõ tài liệu của bạn. Và cách duy nhất để làm được điều đó là tập rượt. Việc không tập rượt không chỉ khiến bạn dễ bị thất bại, hành động đó thật sự ngu ngốc. Việc đó thật kinh khủng, một lý do khác giải thích cho việc vì sao lại có quá nhiều bài thuyết trình tệ hại đến thế. Cách chúng ta thể hiện dấu chấm, dấu phẩy khi đọc chính là cách ngưng, nghỉ. Khi chúng ta phát biểu trong một khoảng thời gian lên tới vài phút, rất khó giữ sự chú ý của khán giả mà không có sự ngưng nghỉ chính xác trong lời nói. Chúng ta phải nhận thức được rằng việc lắng nghe một ai đó diễn thuyết nhiều hơn vài phút là rất khó và gần như là không thể nếu họ không ngưng, nghỉ một cách hiệu quả. Vậy nên chúng ta phải giúp khán giả theo dõi bài thuyết trình của mình. Bên cạnh đó, bạn hãy chú ý tới những yếu tố sau, chúng ảnh hưởng rất lớn tới bài thuyết trình: âm lượng, cao độ, sắc thái, biểu cảm khuôn mặt, đặt câu hỏi, di chuyển, cử chỉ - ngôn ngữ cơ thể,… Hãy cứ tự tin thuyết trình, biết đâu đấy Chưa cần biết bài thuyết trình ra sao, nhưng nếu bạn tự tin thì 90% bạn đã thành công rồi đó. Như những câu chuyện cùng lối kể hấp dẫn, logic, dí dỏm mà tác giả đưa tới cũng như ông ấy đang thuyết trình cho chúng ta cũng như chứng minh cách mà công ty ông đã vượt qua những đối thủ sừng sỏi như thế nào nhờ vào việc thuyết trình hết sức thuyết phục tới khán giả của mình, mặc dù, họ cũng tự nhủ rằng khả năng thất bại của mình không thấp, họ vẫn tiếp tục, vẫn mạnh dạn thuyết trình, và họ tự nhắc nhau “Biết đâu đấy”.   Review chi tiết bởi Thu - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Nghệ Thuật Thuyết Phục Đỉnh Cao của tác giả Peter Coughter & Bùi Thu Hà (dịch).