Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hắn Đến Từ Địa Ngục
Hắn tên Lương Xuyên, có thể nghe thấy tiếng nói của người chết... *** Bên cạnh những bộ linh dị dài cả ngàn chương thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long còn có một bộ trinh thám khá ngắn mà không phải ai cũng biết, đó chính là Trở Về Từ Địa Ngục.   Nếu bạn đã từng đọc bộ Ma Lâm Thiên Hạ mà mình đã review trước đây, hẳn bạn sẽ có ấn tượng rất tốt với tác giả Thuần Khiết Tích Tiểu Long, một tác giả văn học mạng Trung Quốc nổi tiếng với những tác phẩm đậm chất linh dị rùng rợn và bí ẩn cuốn hút. Về văn phong thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long có lối viết chắc tay, câu từ mạch lạc, diễn đạt phong phú. Còn về nội dung thì… xoắn não không có gì phải bàn. Độ logic trong truyện của tác giả rất cao, những đoạn linh dị rùng rợn chắc chắn sẽ khiến bạn lạnh cả sống lưng. Bên cạnh những bộ linh dị dài cả ngàn chương thì Thuần Khiết Tích Tiểu Long còn có một bộ trinh thám khá ngắn mà không phải ai cũng biết, đó chính là Trở Về Từ Địa Ngục. Tiếng chuông điện thoại vang lên, Đàm Quang Huy đi ra khỏi phòng, nhấc điện thoại ở trên quầy lên nghe. Thời điểm Đàm Quang Huy đang nói chuyện điện thoại, hắn không thể nào thấy được… đôi mắt của tượng sáp mô phỏng bà nội hắn đang ngồi trên ghế đột nhiên khẽ nhắm lại rồi chậm rãi mở ra, dầu sáp trên người nhỏ xuống càng lúc càng nhanh hơn… Nhân vật chính trong truyện là Lương Xuyên, một chuyên gia tâm lý học có tiếng tăm nhưng đột nhiên biến mất không để lại chút dấu vết. Sau mấy năm, Lương Xuyên trở về và mở một cửa tiệm bán vàng mã, đồng thời được người bạn thân Ngô Đại Hải mời về làm cố vấn không lương cho Cục cảnh sát. Từ đó, Lương Xuyên đã giúp Ngô Đại Hải phá nhiều vụ án ly kỳ hóc búa và rùng rợn. Nhưng Ngô Đại Hải không hề biết một điều, Lương Xuyên có khả năng “giao lưu” với người chết, hoàn toàn theo nghĩa đen! Bản thân sự biến mất trong mấy năm trời của Lương Xuyên đã là một bí mật cực lớn xuyên suốt toàn bộ truyện, song song với đó là những vụ án bí ẩn, kinh dị có, mà linh dị cũng có. Cũng bởi vì phải tiếp xúc với người chết và linh hồn họ quá nhiều nên Lương Xuyên đặc biệt rất không thích bóng tối. Phòng ngủ của tôi và mẹ cách nhau một vách tường, bên kia cái lỗ là phòng ngủ của mẹ tôi, lúc ấy tôi không nghĩ nhiều đã cúi đầu xuống nhìn về phía bên kia lỗ nhỏ. Sau đó… mặc dù lúc ấy ánh sáng không tốt lắm…. Nhưng tôi vẫn nhìn thấy một con mắt ở phía bên kia! Tất cả những nỗi sợ hãi, bất bình, giận dữ, khó hiểu, đã bùng cháy ngay lúc đó, tôi cầm bút máy của mình đi đến vách tường toàn là các lỗ nhỏ chi chít dày đặc… trực tiếp dùng bút đâm xuyên qua lỗ nhỏ… Cốt truyện âm u rùng rợn và những vụ án giết người quá sức ly kỳ máu tanh đan xen với những linh hồn người đã chết vất vưởng mãi trên nhân gian, nhưng thỉnh thoảng lại được xoa dịu bởi sự hài hước đáng yêu của dàn nhân vật phụ như Ngô Đại Hải. Tuy chỉ vẻn vẹn có 150 chương nhưng Trở Về Từ Địa Ngục vẫn rất xứng đáng là một trong những bộ linh dị trinh thám hay nhất năm 2019. Nếu là fan của trinh thám và linh dị thì bạn chớ nên bỏ qua. - GIANG THƯỢNG NGUYỆT MINH - review *** Dịch: Nhóm dịch Địa Ngục Biên: Lãng Nhân Môn *** "Cháu tên Tôn Hiểu Cường. Năm nay cháu 16 tuổi. Cha cháu mất trong một vụ tai nạn giao thông khi cháu 10 tuổi, thế nên cháu vẫn sống cùng mẹ từ đó đến nay. Mẹ cháu rất thương cháu, cực kỳ thương luôn. Cháu cũng không hề cảm thấy mình thua kém bọn trẻ khác vì cha mất sớm, do mẹ luôn dành ánh mắt yêu thương nồng nàn cho cháu. Dù có đi đến phương trời nào, cháu vẫn cảm nhận được sự ấm áp của Mẹ. Với cháu, bấy nhiêu đã đủ lắm rồi. Mẹ thích dõi theo cháu, thích quan sát cháu lớn lên từng ngày, nhìn cháu trưởng thành qua tháng năm. Cháu biết, trong mắt của mẹ, cháu chính là sự người nối tiếp sự sống của cha, cũng là hy vọng sống sót duy nhất của bản thân mẹ. Hai mẹ con cháu nương tựa nhau mà sống không phải là một việc rất tốt sao? Năm nay cháu lên lớp 10. Trường học không xa nhà lắm. Sau khi tan học, cháu chỉ cần đi khoảng mười mấy phút là về đến khu phố nơi cháu ở. Mỗi khi về tới cổng vào khu phố, chỉ cần cháu ngẩng đầu nhìn lên ban công nhà là có thể thấy mẹ đang đứng ở phòng bếp. Mẹ đang chờ cháu về nhà, mẹ đang mong đợi cháu quay lại. Cháu biết, chắc chắn là mẹ đã nấu xong bữa tối ngon lành cho cháu. Sau khi về nhà, cháu sẽ tắm rửa sạch sẽ rồi ngồi trên bàn ăn chuẩn bị ăn cơm, mẹ sẽ bới cơm rồi ngồi nhìn cháu ăn. Bản thân mẹ thì không ăn cơm, mẹ nói là thích nhìn cháu ăn cơm bà nấu, điều đó làm mẹ vui sướng và cảm thấy cuộc sống này có ý nghĩa hơn rất nhiều. Phải rồi, bác sĩ Từ! Cháu quên mất, do vấn đề sức khỏe nên từ sau khi cha qua đời, mẹ cháu cũng không còn đi làm nữa. Nhưng nhờ có tiền bồi thường tai nạn của cha nên hai mẹ con cháu không phải lo chuyện cơm ăn, áo mặc. Sau khi dùng cơm tối xong, cháu sẽ bắt đầu học bài. Mẹ thích ngồi cạnh mép giường của cháu, vừa đan áo len vừa nhìn cháu học bài. Cháu đã quen có mẹ ngồi bên cạnh, điều này làm cháu có cảm giác an toàn hơn. Nhất là ánh mắt của mẹ, luôn dịu dàng như vậy. Nhưng gần đây, cháu bỗng nhiên cảm thấy khó chịu trước ánh mắt của mẹ. Khi cháu về nhà, mẹ vẫn đứng ở cửa sổ phòng bếp nhìn cháu, vẫn lẳng lặng nhìn cháu ăn cơm, lúc cháu làm bài tập bà vẫn ngồi trên giường vừa đan áo vừa nhìn cháu. Nhưng có một ngày, lúc cháu đi WC sau khi làm bài tập xong đã vô tình bắt gặp ánh mắt của mẹ qua khe cửa khép hờ của phòng vệ sinh. Mẹ lại đứng ngoài cửa WC nhìn cháu đi vệ sinh. Cháu đã lớn rồi, không còn là trẻ con phải nhờ mẹ tắm táp rửa ráy cho nữa, cho nên lúc ấy cháu rất hoảng, sau đó kêu một tiếng "mẹ!" Tiếp theo, ánh mắt ngoài khe cửa cũng biến mất, cháu biết mẹ đã đi rồi. Sau khi ra khỏi phòng vệ sinh, cháu thấy mẹ đang ngồi xem TV ở sô pha. Cháu có hỏi tại sao mẹ lại đứng trước cửa phòng vệ sinh. Mẹ nói là mình không hề đứng trước cửa phòng vệ sinh, nãy giờ mẹ vẫn luôn ngồi xem TV ở đây. Cháu biết mẹ nói dối, vì trong nhà này chỉ có hai mẹ con mà thôi. Hơn nữa, khi ngồi trên bồn cầu nhìn ra, cháu thấy rõ đó là mép quần thêu hoa mà mẹ mặc hôm nay. Chắc chắn người đứng nhìn lén ở sau cánh cửa nhà vệ sinh là mẹ, nhưng bà không chịu nhận, cháu cũng bó tay. Sau đó, một buổi tối nọ, trong khi cháu đang ngủ... À mà khoan đã, để cháu miêu tả sơ qua về nhà cháu. Cháu ở ngôi nhà thuộc dạng có hai phòng ngủ, một phòng khách, cháu và mẹ ngủ mỗi phòng khác nhau. Hôm đó cháu thức dậy giữa đêm vì khát nên ngồi dậy định tìm nước uống. Cháu hay để một chai nước suối cạnh đầu giường do thói quen nhiều năm nay. Nhưng vừa ngồi dậy, cháu lại phát hiện cửa phòng đang mở hờ. Bác sĩ Từ! Nhà cháu nằm sát rìa khu phố, nhờ có xe cộ qua lại và ánh đèn đường chiếu vào, trong khi rèm cửa sổ không dày lắm, nên dù không bật đèn vẫn có thể nhìn mọi thứ xung quanh khá rõ ràng. Cháu nhìn thấy một đôi mắt sau khe cửa! Đó là mẹ, chắc chắn là mẹ! Mẹ đứng sau khe cửa. Trong khi cháu ngủ, mẹ vẫn đứng sau khe cửa để nhìn cháu, cứ nhìn lăm lăm như thế. Lúc đó cháu đã thét toáng lên vì sợ. Thế rồi ánh mắt sau khe cửa biến mất. Mẹ đã đi khỏi, rồi cháu nghe tiếng bật đèn bên phòng của mẹ. Chắc là mẹ đã quay lại phòng mình. Cháu ngồi trên giường, mất khoảng 15 phút đồng hồ mới bình tĩnh lại. Bác sĩ Từ, chắc là chú khó mà tưởng tượng ra được cái cảm giác của cháu khi đó. Cháu không chạy sang phòng mẹ ngay, mà cứ ngồi trên giường như thế. May mà khi đó trời cũng gần sáng, cháu đành thức dậy, đánh răng rửa mặt rồi đến trường. Lúc cháu làm vệ sinh cá nhân xong, ra ngoài thì mẹ đã thức dậy rồi. Mẹ đang chuẩn bị bữa ăn sáng cho cháu trong bếp. Cháu ngồi xuống bàn ăn, chẳng nói chẳng rằng mà cắm đầu nhai ngấu nghiến bát mì mà mẹ cháu dọn ra. Mẹ vẫn ngồi cạnh bàn ăn, quan sát cháu như cũ. Cháu không hề hỏi tại sao mẹ lại không chịu ngủ mà đến rình rập cháu làm gì. Cháu sợ làm mẹ buồn, ngộ nhỡ mẹ chỉ giật mình giữa đêm rồi muốn qua xem cháu ngủ có đắp kỹ chăn hay không mà thôi thì sao. Sau này, lúc đi vệ sinh cháu đã khóa trái cửa bên trong lại. Buổi tối đi ngủ, cháu cũng không quên khóa trái cửa phòng. Cháu hy vọng mẹ hiểu rõ thái độ của cháu. Cháu biết mẹ rất quan tâm cháu, nhưng cháu cũng cần không gian riêng tư. Thế nhưng, cháu không muốn tổn thương tình yêu của mẹ dành cho cháu. Mẹ đã khổ lắm rồi. Cháu nghĩ, cháu và mẹ nên thông cảm cho nhau. Thực tế, trong những ngày tiếp theo thì cuộc sống của cháu cũng yên tĩnh hơn. Hai ngày kể từ sau đêm ấy, dường như cháu nghe thấy âm thanh nạy khóa vào buổi tối. Nhưng cháu đã khóa trái cửa, mẹ không thể vào được. Cháu tin rằng mẹ sẽ biết rõ được ý nghĩ của cháu. Mẹ sẽ thông cảm và hiểu cho cháu. Con trai của mẹ đã trưởng thành, cần có không gian độc lập. Chỉ như vậy thôi, cháu trải qua quãng thời gian nửa tháng rất yên bình. Cháu vẫn rất yêu thích hình ảnh mẹ chờ cháu tại ban công nhà bếp mong cháu về, thích thú với việc mẹ ngồi bên cạnh xem cháu ăn tối. Cháu cũng không ngại việc mẹ ngồi đan áo bên cạnh khi cháu học bài hằng đêm. Cuộc sống này đã quay lại thời khắc êm ấm như xưa. Ít nhất thì khi đó, cháu đã cảm thấycnhư thế. Chỉ là... Đêm ấy, cháu vẫn thức dậy uống nước. Cửa đang khóa trái. Cháu vẫn giữ thói quen này. Nhưng khi uống nước, cháu bỗng nhìn thấy một chấm đen ở vách tường đối diện. Khi đó, cháu cứ tưởng đó là một con sâu bò lên tường nên lấy một tờ giấy, định qua xử lý con côn trùng đó. Nhưng khi đến gần, cháu đã nhận rađó chẳng phải là sâu gì cả, mà là một cái hốc nhỏ xíu ngay trên vách tường! Phòng ngủ của mẹ và cháu chung vách. Sau cái hốc này chính là phòng ngủ của mẹ. Lúc đó, cháu cũng không suy nghĩ quá nhiều, mà cúi đầu xuống, áp mắt nhìn vào cái hốc đó. Sau đó... Dù ánh sáng không rõ lắm, nhưng cháu đã trông thấy một con mắt khác cũng đang áp vào cái hốc đó để nhìn qua đây! Lúc đó, toàn thân cháu cứng đờ vì sợ rồi ngã nhoài xuống đất. Cháu điên tiết lên, mở tung cửa phòng, xông ra ngoài. Sau đó, cháu đẩy cửa phòng ngủ của mẹ ra, hỏi mẹ tại sao lại như thế. Hỏi nguyên nhân vì sao mẹ lại đục cái hốc đó! Mẹ nhìn cháu bằng một gương mặt đầy ngơ ngác. Mẹ bảo là chẳng hiểu gì cả. Mẹ còn nói cái hốc đó đã có từ lúc sửa nhà ngày xưa. Cháu và mẹ cãi nhau rất lâu, và chắc chắn là cháu không nhìn lầm. Nhưng mẹ cứ không chịu nhận, được rồi, cháu biết làm gì bây giờ? Cháu đành quay lại phòng ngủ của mình. Ngày hôm sau, khi tan trường về nhà, cháu bèn tìm đồ chặn cái hốc đó lại, rồi dáng băng keo màu đen lên. Nhưng do cảm giác chưa đủ an toàn, cháu lấy một cái ghế có lưng tựa chắn ngang nơi đó. Làm như thế, dù có dùng mảnh gỗ đâm thủng lớp băng keo thì cũng không thể nào thấy được cháu. Sau đó, cháu tiếp tục nằm chờ. Thấy cái ghế không hề động đậy, cháu rất yên tâm, ngủ một giấc ngon lành. Cứ nghĩ ngày tiếp theo cũng thế, nào ngờ khi cháu chuẩn bị ngủ, cháu lại phát hiện một cái hốc khác vừa được đục thủng ngay trên vách tường. Cháu giận lắm, lại cãi một trận với mẹ. Thế mà mẹ vẫn khăng khăng là chẳng biết mô tê chi cả, mẹ không dám nhận! Cháu đành bó tay, tiếp tục che kín cái hốc thứ hai. Để rồi... Ngày thứ ba… Ngày thứ tư… Ngày thứ năm… Ngày thứ sáu... Mỗi ngày, chỉ cần cháu bịt kín một cái hốc thì ngày hôm sau mẹ cháu lại đục thủng một cái hốc mới. Cháu biết, mẹ muốn quan sát cháu mỗi ngày, nhưng cũng ép cháu sắp điên lên đây. Bác sĩ Từ, chú có tưởng tượng ra được cảnh tượng mà phòng ngủ của cháu có tới hàng chục cái hốc nhỏ trên tường không? Rốt cuộc, có một ngày, cháu hết nhịn nổi. Cháu vào nhà bếp, lấy bột tiêu mang vô phòng ngủ của mình. Chờ đến khi cái hốc mới lại xuất hiện vào buổi tối thì cháu bước đến, cúi đầu xuống. Vừa nhìn thấy ánh mắt của mẹ ở phía bên kia, cháu lập tức hất mớ bột tiêu này về phía bên kia. Thế rồi, cháu lại luống cuống tay chân. Cháu cảm giác mình thật xấu xa, quá trẻ trâu. Mẹ đã vì cháu mà sống cuộc đời cơ cực, trong khi cháu lại tự do, buông thả. Chẳng phải mẹ chỉ muốn nhìn cháu thêm một chút hay sao? Tại sao cháu lại tổn thương mẹ chứ? Thậm chí cháu không dám đi sang căn phòng sát vách, cứ nơm nớp lo sợ như thế rồi quay lại giường nằm. Trong bữa sáng ngày hôm sau, cháu nhìn thấy mắt mẹ sưng đỏ lên. Đó là do bột tiêu gây ra. Cháu nói lời xin lỗi mẹ, nhưng cũng mong mẹ đừng làm thế nữa. Mẹ hỏi cháu đang nói xàm gì đó, vì mắt của mẹ chỉ bị nhiễm trùng mà thôi, tối nay nhỏ thuốc là ổn. Cứ như thế mãi, cháu ngủ ít dần. Tinh thần của cháu càng lúc càng suy sụp. Cứ đến giờ tan trường là cháu rất hốt hoảng, cảm giác bản thân mình tựa như một xác chết di động vậy. Mãi cho đến... Đêm hôm đó... Cháu hoàn toàn bùng nổ... Mọi sự sợ hãi, uất ức, tức giận, khó hiểu đều bị thiêu đốt bùng lên ở ngay khoảnh khắc đó. Cháu cầm cây bút bằng kim loại của mình... bước về phía bức tường với những hốc nhỏ chằng chịt kia. Cháu nhắm ngay cái hốc vừa mới xuất hiện ngày hôm nay... … Đâm thẳng cây bút bằng kim loại vào. Máu... Cháu thấy máu chảy ra từ cái hốc đó. Máu dính đầy tay cháu. Máu đổ đầy trên mặt đất. Máu lấm lem khắp vách tường. Máu thấm đẫm mọi nơi. Và đó... chính là máu của mẹ cháu!" Mời các bạn đón đọc Hắn Đến Từ Địa Ngục của tác giả Thuần Khiết Tích Tiểu Long.
Bãi Gió Cồn Trăng
Truyện Bãi Gió Cồn Trăng là một truyện mới được giới thiệu với bạn đọc trên trang đọc truyện online, một truyện đầy sức hút với những tình tiết thú vị. Truyện như một bức màn bí ẩn phủ lên mọi chuyện tưởng như là chỉ có những mơ hồ nhưng khi bước vào truyện mới thực sự thấy được mọi thứ dưới ánh sáng. Có nhiều uẩn khúc quẩn quanh, có nhiều bí mật cần phải chờ lời hồi đáp, nhưng liệu đi đến cuối truyện có tìm được câu trả lời hông, mời bạn đón đọc truyện kinh dị, trinh thám này. *** Thời gian vẫn dằng dặc tiếp nối. Máy tạo hóa luôn cần mẫn xoay vần. Lớpsóng phế hưng cứ tái diễn không ngừng nghỉ. Thăm thoắt mà tám năm trờitrôi qua. Ông Năm Tảo vẫn tiếp tục nghề xem mạch hốt thuốc. Bà Năm Tảo ngoàiviệc nội trợ, thương viếng thăm hai cô con gái và hai chàng rể để có dịp hủ hỉ với lũ cháu ngoại. Ông Chín Thẹo qua đời. Bà Chín Thẹo tuy cóbuồn đôi chút nhưng rất hãnh diện vì lũ con trai mình ăn nên làm ra, còn cô con gái út của bà được làm vợ một bực ăn học, trở nên ngươi đàn bàtrung lưu có tư cách. Bà Mười Thiệp và ông bà Mười Hai cất am bên bờrạch Tân Giai tu hành, ra công giúp đỡ người trong làng, trong xóm. Cô Út Ngọc An sanh cho chồng một trai hai gái. Cô càng sanh đẻ, máuhuyết càng thay đổi, càng lồ lộ vẻ tươi mát nuột nà. Ông Đốc học Hạnhxoay qua viết biên khảo về kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Cô Hai TúyNgọc sanh cho chồng ba cậu con trai. Vóc vó cô vẫn thanh cảnh, thần thái cô vẫn giữa vẻ xán lạn tươi tỉnh. Ông Huyện Khải vẫn trẻ trung và dẻodai. Ông giữ vẹn nếp thanh liêm cho nên lương bổng ông không đủ trangtrải những nghi thức hào nhoáng cần thiết. Mấy năm sau này, song songvới việc làm quan, hễ rảnh rang là ông viết tiểu thuyết loại nghiêng vềgiải trí, rất ăn khách, riết rồi cô Hai Túy Nguyệt coi sóc luôn việcxuất bản sách cho chồng. Ông bác vật Cảnh dắt vợ lên Sài gòn cư ngụ, lập trường tư thục Kiến Thiết, chủ trương tờ Khuyến Nông nguyệt báo nhắmmục đích khuyến khích nông nghiệp và cổ võ việc canh tân nếp sống mớicho dân quê. Cô Ba Túy Nguyệt sanh cho chồng một trai hai gái. Cô đượcngười chồng cô truyền dạy các món môn bánh xưa, nghệ thuật thêu xưa. Rồi cô còn được dì phước Marie vốn là chị con nhà bác bên chồng dạy các Ônthêu đan kiểu Tây và các món bánh nay. Sau đó cô mở nữ công học hiệu đểdạy các lương gia nữ tử các món nữ công phụ xảo. Cô cũng xin bà MườiThiệp cho hai cô Kim Liên và Kim Huệ lên Sài gòn theo học trường cô đểrồi sau này hai cô trở thành giáo sư nữ công trẻ tuổi, được hai thầygiáo lớp nhứt tiểu học Cầu Kho cầu hôn. Cô Thiệt Nguyện từ khi làm vợ bác sĩ Lê Thạnh Mậu rồi thì được chồng cưng như trứng mỏng. Cô tận tụy săn sóc chồng, coi sóc mọi việc trongnhà châu đáo. Hễ có thời giờ rảnh rang là cô đi săn sóc trẻ em mồ côi,đi làm công quả cho chùa, lo việc đúc tượng in kinh. Cô sanh cho chồnghai cô con gái xinh như mộng, đẹp như tranh. Hai cô Agnès Thuận và Isabelle Định thỉnh thoảng có về thăm cô BaCẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ. Họ đã đứng tuổi, tuy chưa phấn lạt hương phainhưng họ sớm lo liệu trước. Cô Agnès Thuận làm vợ kế một thương gia HuêKiều ở Tân An, đối xử với lũ con chồng tử tế nên chiếm được cảm tình của họ. Còn cô Isabelle Định lấy thầy giáo góa vợ dạy lớp nhứt cở Gò Đen.Cô sanh cho chồng một cậu con trai xinh đẹp. Hai Dần cưới cô Sáu Bạch Huệ, cọn về chợ Phú Quới cách chợ tỉnh sáu cây số. Cô sanh cho chồng cặp hổ bôn hổ bịch kháu khỉnh. Đã liếc qua gia đạo kẻ hiền lương hoặc bình thường, thì chúng ta nên ghé mắt nhìn qua gia đạo những kẻ vì vô minh mà gây ác nghiệp... chocông bình. Cậu Hai Luyện tuy trở thành phế nhơn nhưng không vì vậy mà tráchtrời oán đất và giận ghét người đời. Hồi tưởng lại bao chặng đời dĩvảng, cùng ngắm nhìn thói tham lam tán ác của gia đình mình, cậu giựtmình kính sợ cho lẽ thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cho nên cậu ăn nănlung lắm. Cậu tìm kiếm cô Ba Hưởng, giúp đỡ đứa con rơi của cậu ăn học.Cậu cũng tìm cô Hai Thiều, cất am cho cô ở gần nhà tía má cô để cô có kẻ săn sóc. Cậu ăn chay trường, làm nhiều công quả và Phật sự cho các chùa chiền. Cậu cộng tác với cô Thiệt Nuyện giúp đỡ trẻ mồ côi, đóng góptiền cho trường mù, cho nhà thương cùi ở cù lao Rồng, Mỹ Tho. Đều đềucậu tụng kinh cầu siêu cho vong linh cha mẹ sớm thác sanh vào cõi Anbang Tịnh độ. Hơn lúc nào hết, ba anh em cậu Hai Luyện sát cánh nương tựa nhau sau bao tai biến. Trong năm đầu chịu tàn phế, cậu Hai Luyện có cho người dò la tin tức Bửu. Mãi tới ba năm sau cậu mới nhận được tin tức về ngườiem cùng cha khác mẹ kia. Bửu tu hành trên núi Cô Tô, dưới mái hảo am của pháp sư Chơn Huệ, bên Điện kín, pháp danh Thiệt Tánh. Trong thư viếtcho cậu Hai, sư Thiệt Tánh cho biết năm tới sư sẽ đi Anh Quốc để diễnthuyết tại các cơ sở và các trung tâm Phật giáo cùng với Paul Carlson,một ký giả người Anh rất am tường Phật pháp. Cậu Hai Luyện bảo hai cô Cẩm: - Dòng họ mình chỉ có ba người đáng kể. Đó là pháp sư Chơn Huệ, anh Đốc học Hạnh và sư Thiệt Tánh. Cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ nhìn nhau dửng dưng. Thiệt tình hai côcũng sợ quả báo, nhưng không vì lẽ đó mà họ thích chuyện tu tâm dưỡngtính, bởi nghiệp tham dục của họ còn nặng lắm. Tuy thương yêu anh mình,sát cánh với đương sự để chống chỏi với hoạn nạn tai ương, nhưng làm sao họ bỏ được chuyện làm giàu cùng thú vui nhục dục! Năm nay cô Ba Cẩm Túđã ba mươi lăm tuổi, còn cô Tư Cẩm Lệ đã ba mươi bốn. Cô Ba chuyền từtay ông Chánh tham biện Leblond qua ông Cò mi Carrière khi ông Chánhtham biện về Pháp. Còn cô Tư ăn ở với ông Biện lý Beauregard được bốnđứa con, đứa nào cũng chưa đầy ba tuổi là vong mạng. Mỗi khi cấn thai, cô đi xin bùa phép trừ tà ếm quỉ để đứa con trongbụng cô không phải là con ranh, nhưng làm sao cô cải được cái ác nghiệphiện hành! Khi đứa con thứ hai chết đi, trước khi chôn, cô thử lấy mựcđỏ vẽ một vết nhỏ cỡ hột đậu ở háng nó. Đứa con thứ ba vừa chui ra khỏibụng mẹ đã có vết son đó. Rồi khi đứa con thứ ba từ trần, cô vẽ thêm một chữ thập nhỏ bằng mực đen trên mông nó. Thế là đứa con thứ tư chẳngnhững mang vết son ở háng mà còn mang chữ thập đen trên mông. Rõ ràngđây là đứa con ranh đầu thai qua năm kiếp. Đau đớn vì trải qua năm lần chửa đẻ con ranh con lộn nên lần có chửa thứ sáu, cô Tư Cẩm Lệ đi phá thai trong căn nhà một mụ xẩm già có nhàđâu đít với trường học Huê kiều, giáp với miễu Quốc công. Mụ dùng chiếcđũa sắt bọc dây thun ở đầu, bôi lên đầu một chút dầu cho trơn rồi thọcsâu vào tử cung cô. Dây thun quấn vào bào thai vừa tượng hình trong bụng mẹ, bị rút ra khỏi cơ thể của mẹ nó. Cuộc phá thai không quá đau đớnnhư cô tưởng. Cô thầm mong rằng từ đây về sau, bởi trận phá thai kia côsẽ bặt luôn đường chửa đẻ. Nhưng hai ngày sau, trong cơn chiêm bao côthấy Cô Tư Thục hiện về, mắng: - Đồ khốn nạn! Mầy tưởng đâu phá thai là hết chuyện sao! Thai nhi dù có chết đi thì cũng kể như mầy đã sanh lần thứ sáu rồi vậy. Còn thêm ba lần sanh nữa là đủ chín lần, đứa con ranh con lộn kia sẽ vật mầy chếttươi. Khi nó vừa ra đời là mầy sẽ bị băng huyết sối xả, đố ai cứu được!! Cô Tư Cẩm Lệ sầu não lắm, thường cùng chị thì thầm than thở rồi khóc sụt sùi. Cậu Hai Luyện khuyên dứt cô em út: - Nấu mầy sợ sanh đẻ thì cữ kiêng việc chung chạ với chồng. Mầy đãgây ác nghiệp thì chi bằng lo tụng kinh sám hối, dứt chuyện tham dục,bình tĩnh mà trả quả. Có lý đâu mầy cứ huê kia nguyệt nọ hà rầm, lo chạy áp phe chơn không bén đất. Mầy cũng đã trải qua hai tên bạn chăn gối,thôi thì dứt hết nợ phong tình nguyệt trái đi cho khỏe thân... Và cậu quay qua trách cô Ba Cẩm Tú: - Còn em, em đã dùng đủ mưu đen chước đỏ đẻ kiếm được người chồngthuộc hạng thượng lưu trong xã hội, vậy mà em không chịu giữ vững hạnhphúc, để rồi giờ trở thành thứ vợ ngày vợ bữa cho bọn ngoại kiều! Em cứcoi cặp chơn cụt của anh đây mà hành xử sao cho khỏi vướng vào vòng taikia họa nọ. Cô Ba khóc lóc: - Ai cũng muốn đẹp mặt nở mày chớ ai có muốn làm bia cho miệng đờichê cười sỉ nhục đâu! Bởi em dại dột, nên giờ có muốn kiếm một ông chồng tử tế cũng như mò kim đáy biển mà thôi! Cô Tư Cẩm Lệ tuy đồng ý với anh mình, nhưng cô đang độ trẻ trungsung sức, lẽ nào cô chịu cảnh cám treo để heo nhịn đói cho được! Bởi đóphá thai chưa trót năm mà cô đã có chửa lần thứ bảy. Cô sợ quá, thỉnhkinh Từ Bi Thũy Sám và Lưng Hoàng Sám Pháp về tụng ra rả. Một sáng kia, cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ, kẻ từ nhà ông Cò mi,người từ nhà ông Biện lý, không hẹn mà cùng về Câu Đào để thăm anh. BàNăm Đặng dọn lên bàn bữa đểm tâm ê hề, nào bánh canh giò heo, nào bánhđúc tôm khô, nào cà phê sữa, nào khoai luộc, bắp luộc. Giũa lúc đó, một tăng sĩ mặt mũi thanh tú, dáng dấp oai nghi, từngoài cửa thung dung bước vào. Ba anh em chưng hửng, ngờ ngợ là ai rồi.Tăng sĩ chiếu cặp mắt sáng như sao nhìn họ, sang sảng bảo: - Chắc anh chị không nhận ra em. Bửu đây mà. Bây giờ em là Đại đức Thiệt Tánh rồi. Cậu Hai Luyện cảm động: - Mừng thầy về thăm nhà sau tám năm tầm sư học đạo. Cô Ba Cẩm Tú cảm xúc quá, vừa khóc vừa bệu bạo: - Thầy ôi, gia đình mình tai nạn cứ tới dập dồn. Thầy về đây thăm nhà và ở chơi được bao lâu? Mời các bạn đón đọc Bãi Gió Cồn Trăng của tác giả Hồ Trường An.
Bức Tranh Quái Dị
Một họa sĩ nghèo vô tình vẽ ra một bức tranh giết người... Và... *** Émile Erckmann là một nhà văn người Pháp, có mối liên hệ mật thiết với vùng Alsace-Lorraine. Hầu như tất cả các tác phẩm của ông được viết chung với Alexandre Chatrian dưới tên Erckmann-Chatrian.  *** Trước nhà thờ Saint Sébalt, nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao, cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao. Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời. Tôi đến thành phố Nureemberg đê học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc,những ông nhà giàu, đầu chụp tóc giả... Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản phác họa (Croquis) và sau cùng vẽ hình bóng (Silhouettes). Với tôi, không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo nạt nộ: "Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?". Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lý khách sạn này không thê hiêu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. Tình yêu nghệ thuật, óc tưởng tượng, sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về, nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như lòng tự trọng... Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn thận. Một đêm, không một xu dính túi, quá lo ngại, sợ bị viên quản lý dê sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ý nghĩ đó, tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý. Tôi tự hỏi: "Con người là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó đê ăn thịt, răng cửa đê ăn trái cây và răng hàm đê nghiền. Nhưng khi không còn gì đê nghiền thì con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...". Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử. Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp, hoãn lại mọi việc vào ngày mai. Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn. Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền đê ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi. Nhưng đêm đó, có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan, tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi. Các bạn hình dung, bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao, loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một lò sát sinh. Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con bò mổ banh ra, treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ. Ánh sáng chiếu từ trên, giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau. Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải. Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra. Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái gì hết! Nhưng bên mặt, còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược, tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thê có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiêu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyên... và trên ống quyên có một chéo áo... Liền sau đó, một mụ già, xanh xao, tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ... Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi. Mụ già trong tư thế chống cự tận lực, nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi, hay tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ... Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy, trừ cánh tay. Tôi không thê kết thúc được bức tranh. Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ nốt. Dê mà!". Tôi nằm xuống giường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của chính mình. Năm phút sau, tôi ngủ như chết. Sáng hôm sau, tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối. Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ cửa. Tôi lên tiếng: - Cứ vào! Cánh cửa mở. Một người đã già, cao, ốm, mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng, xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc, ông chào tôi, hỏi thật nghiêm: - Ông là họa sĩ Christian Vénius? - Chính tôi thưa ông. Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu: - Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal! Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn, sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói: - Họa sĩ, tôi đến đây... Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi khiến tim tôi đập mạnh vì mối lo sợ khó nói. Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú. - Ông là tác giả bức họa kia? - Dạ phải. - Giá bức họa đó bao nhiêu? - Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án. Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng. Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào, sống mũi ông quằm xuống, đôi mày ông cau lại. Không khí hoàn toàn im lặng, tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng, không nhìn tôi, ông hỏi: - Khuôn khổ bức tranh này như thế nào? - Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ. - Giá tiền? - Năm mươi đồng "ducat". Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống, lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra: - Đây, năm mươi "ducát". Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường, nhìn hai bên, con đường vắng tanh. Tôi hổn hên" "Lạ quá!", rồi hổn hên leo trở lên gác. Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ: "Hôm nay, mình tính cắt cổ tự tử vì mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau, nếu có ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại đê tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong. Nhưng tôi thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiêm kia, tôi không thê nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ, cố phác họa, nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt. Đúng lúc đó, tên quản lý bước vào phòng tôi, không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên: - A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền! Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn. Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng, rồi sập cửa, làm hắn dập cả mũi. Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên ngoài: - Trả tiền đây! Đồ ăn cắp! Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao: - Có việc gì vậy? Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang. Tôi hét lên: - Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng chó đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi! Xong, tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên. Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm, xoa tay thích thú. Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng dựng dưới chân, đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm: "Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng chăng?". Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lý té lầu! Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người, tiếng súng khua, tiếng những lệnh truyền cộc lốc. Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to: - Mở cửa! Cho lính vào! Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo. Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Quái Dị của tác giả Erckmann-Chatrian.
Cô Dâu Thứ Bảy
Một câu chuyện tình yêu giữa người và ma. Khi cô thay chị mình gả cho hắn, chỉ vì hắn đã là người chết. Ngày 15/7 âm lịch...... Cô bước chân lên xe hoa về nhà chồng, nhà chồng cô chưa một lần biết mặt, chưa một lần nhìn thấy Gia đình hắn giàu có, hắn ăn chơi trác tán, hắn chết trong một lần đua xe tại trường đua, hưởng dương 21 tuổi, ba mẹ hắn thương con còn trẻ mà đoản mệnh, dựa vào thân thế đồ sộ và danh tiếng tìm cho hắn một người vợ. Tìm thầy bói tìm xem ai hợp tuổi rồi đến nhà cưới hỏi đàng hoàng, linh đình Nhưng nhiều lần cưới vợ cho hắn tất cả các cô dâu qua đêm động phòng đều phát điên, đã 6 lần như thế, và bây giờ cô là người thứ 7. *** Ngày 15/7 âm lịch...... Cô bước chân lên xe hoa về nhà chồng, nhà chồng cô chưa một lần biết mặt, chưa một lần nhìn thấy Cô chỉ nghe nói nhà họ rất giàu, rất hưng thịnh, đáng lẽ người được gã đi là chị gái của cô, nhưng chị cô đã quỳ xuống van xin cô, mong cô sẽ thay mình gã đi Gia đình chồng giàu có, có tiếng tăm, có thể nói là danh tiếng lẫy lừng, chị cô cũng thuộc dạng ham hư vinh, ham lợi lộc, được gã vào nhà đó có thể gọi là "chuột sa hũ nếp" nhưng vì sao chị cô không muốn gã? Lí do duy nhất khiến chị cô chùng bước chỉ có một "Chú rễ là một người đã Chết " Cô và chị cô là chị em sinh đôi, từ nhỏ cô đã mắc bệnh tim bẫm sinh, còn chị cô sức khỏe lại bình thường, ba mẹ ruột chỉ yêu thương mỗi chị cô, còn cô chính là gánh nặng nên từ nhỏ đã bị ghét bỏ. Lần này cô vì thương ba mẹ, thương chị nên đành thay chị gã vào nhà đó, do hai chị em sinh đôi nên gương mặt giống nhau, cô thay chị cô gã vào nhà đó họ cũng chẳng thể phát hiện ra. Sức khỏe cô suy giảm, bệnh tình càng lúc càng nặng, những đợt điều trị đắt đỏ tại bệnh viện khiến cô cảm thấy mình thật sự là gánh nặng của gia đình, chị cô có thể kiếm tiền thay cô chăm sóc ba mẹ, còn cô sẽ thay chị gã đi, dù sao không bao lâu cô cũng phát bệnh mà chết Cô nghĩ thế cũng cắn răng mà leo lên xe hoa, mặc dù cô biết chú rể của cô bây giờ chỉ là một di ảnh Gia đình hắn giàu có, hắn ăn chơi trác tán, hắn chết trong một lần đua xe tại trường đua, hưởng dương 21 tuổi, ba mẹ hắn thương con còn trẻ mà đoản mệnh, dựa vào thân thế đồ sộ và danh tiếng tìm cho hắn một người vợ. Tìm thầy bói tìm xem ai hợp tuổi rồi đến nhà cưới hỏi đàng hoàng, linh đình Nhưng nhiều lần cưới vợ cho hắn tất cả các cô dâu qua đêm động phòng đều phát điên, đã 6 lần như thế, và bây giờ cô là người thứ 7   Mời các bạn đón đọc Cô Dâu Thứ Bảy của tác giả Cung Thiên Yết.