Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bụi Sao

Đến tuổi cập kê, Tristran Thorn đem lòng si mê một thiếu nữ xinh đẹp trong ngôi làng Bức Tường nơi anh lớn lên. Vì lời hứa sẽ cùng cô sánh vai trong thánh đường, chàng trai trẻ khăn gói lên đường tiến vào Xứ Tiên để tìm một ngôi sao băng từ trên trời rơi xuống. Chuyến phiêu lưu ở xứ sở kỳ lạ, rùng rợn mà đầy nhiệm màu đã xoay chuyển con người và thế giới quan của Tristran theo những cách anh chưa từng ngờ đến, biến anh thành một người hùng chân chính trong câu chuyện của mình. Cổ quái và nhân văn, đen tối và giàu cảm xúc, Bụi sao đem đến vô khối những câu chuyện chưa kể đằng sau cuộc hành trình tầm mộng của một vị anh hùng trẻ tuổi, cốt để chứng tỏ rằng chuyện thần tiên thực chất cũng dành cho người lớn. *** Richard Neil Gaiman (sinh ngày 10 tháng Mười Một, năm 1960) là một tác giả gốc Anh chuyên viết thể loại khoa học giả tưởng, huyền ảo, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện tranh, và kịch bản điện ảnh. Tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm loạt truyện tranh Sandman, Stardust (Bụi Sao), và American Gods (Các Thần Hoa Kỳ). Gaiman đoạt giải 2009 Newbery cho Graveyard Book. Một số người nhiệt tình đã gọi ông là một "ngôi sao nhạc rock" của văn học thế giới. Ông hiện đang ngụ cư gần thành phố Minneapolis, bang Minnesota, Hoa Kỳ, trong một ngôi nhà kiểu "gia đình Addams". Ông có một gia đình hạnh phúc với cô Mary T. McGrath và có ba người con: Michael, Holly và Madeleine. Tác phẩm: Coraline - Neil Gaiman Câu Chuyện Nghĩa Địa - Neil Gaiman Truy Mộng - Neil Gaiman & Yoshitaka Amano Đại Dương cuối Đường Làng Thần Thoại Bắc Âu Còn Sữa Là Còn Hy Vọng Bụi Sao Người Đẹp Ngủ Và Con Thoi Ma Thuật ... *** Có vô số những đứa trẻ mà trong tuổi thơ của chúng luôn đầy ắp hình ảnh những chú lính chì, nàng bạch tuyết, cô bé bán diêm và nàng tiên cá… Từ lâu rồi, tập truyện của Andersen và truyện cổ Grim được công chúng, kể cả trẻ con và người lớn, đón nhận nồng nhiệt. Dần dần, khi người ta đã khai thác hết màu nhiệm của cổ tích, họ chuyển sang một phiên bản khác lạ lẫm hơn, mới hơn và kén độc giả hơn. Đó là những câu chuyện cổ tích được viết dưới quan điểm cá nhân. Trong số đó, nổi bật nhất chính là những bộ truyện thần kỳ, những bộ phim giả tưởng được tái hiện với quan điểm của người trưởng thành chứ không còn đứng từ góc quay của một đứa trẻ. Trong Bụi sao, Gaiman đã vận dụng tối ưu trí tưởng tượng của mình để tạo ra một câu chuyện cũng từ góc nhìn của người lớn nhưng giàu cảm xúc và đặc biệt hơn. VỀ TÁC GIẢ Những câu chuyện cổ tích có khi còn hơn cả sự thật. Không chỉ vì nó nói cho chúng ta biết loài rồng có tồn tại mà còn bởi chính những con rồng đó cũng có thể bại trận. (Fairy tales are more than true: not because they tell us that dragons exist, but because they tell us that dragons can be beaten.) Neil Gaiman, tên thật là Neil Richard Gaiman, sinh ra tại Porchester, Anh vào năm 1960 nhưng hiện đang sống ở Mỹ. Ông là một tác giả đa tài, được mệnh danh là “ngôi sao nhạc rock” của văn học thiếu nhi thế giới và là tác giả ăn khách của các tác phẩm truyện ngắn, truyện tranh và tiểu thuyết giả tưởng. Sách của Gaiman đã được dịch ra hai mươi tám thứ tiếng và mang về cho ông nhiều giải thưởng văn học danh giá. Ông là nhà văn đầu tiên giành được đồng thời cả huân chương Newbery và Carneige cho cùng một tác phẩm. Người đọc thường thấy Neil Gaiman mang một phong cách rất đặc trưng. Đó là những màu nhiệm, kỳ diệu, niềm vui và cả sự nghiêm túc trong Bụi sao, cuốn sách sắp được nói tới đây, nói riêng và các tác phẩm văn học khác nói chung. Ông chia sẻ:  Những ý tưởng đến từ sự tuyệt vọng, ngay khi ông bị hạn chót thúc giục. Những ý tưởng cứ đến bất ngờ khi ông đang làm điều gì đó khác.  Có lẽ Bụi sao cũng được viết ra như vậy.   BỤI SAO Bụi sao được xuất bản lần đầu vào năm 1999. So với những tác phẩm trước đó và cho đến nay, Bụi sao luôn được coi là cuốn tiểu thuyết giả tưởng mang màu sắc khác biệt nhất trong suốt sự nghiệp văn học của Gaiman. Có lẽ bạn đọc từng nghe một Coraline thơ mộng, bí ẩn và ám ảnh; một Đại dương cuối đường làng thuần túy là những suy diễn và dự đoán; một thế giới nguyên sơ và nguyên bản hơn với các vị thần Bắc Âu, cùng Odin, Thor và Loki, cây tần bì Yggdrasil nối liền cửu giới, những người khổng lồ, những người lùn trong Thần thoại Bắc Âu. Cả ba đều khác nhau, nhưng cả ba đều là Neil Gaiman. Tất nhiên, đến cả Bụi sao, cùng là thể loại giả tưởng nhưng vẫn mang một phong cách khác không nhàm chán và cũng không thể bị nhầm lẫn với những nhà văn khác. Chưa bao giờ ranh giới cổ tích và thực tại mong manh đến vậy. Sự kỳ quặc và đen tối của Xứ Tiên chỉ cách con người một bức tường thành. Cổ quái và nhân văn, đen tối và giàu cảm xúc, Bụi sao ẩn chứa những câu chuyện lạ lùng đằng sau hành trình của người hùng trẻ tuổi để rồi chứng minh điều đã nói trên, rằng cổ tích còn thật hơn cả những gì chúng ta cảm nhận.    VŨ KHÍ CỦA NHÀ VĂN Bất kỳ tác phẩm văn học nào cũng có “chất liệu” làm từ “ngôn từ”. Với khả năng gợi những hình tượng nghệ thuật, đưa ta thâm nhập vào thế giới của cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng mà ngôn ngữ thông thường ít khi đạt được. Ngôn từ trong văn chương giúp cho tác phẩm bộc lộ những bản chất sâu kín của đời sống. Cứ đi đi, và bắt lấy một vì sao băng, Làm cho một rễ cây khoai ma có bầu, Nói tôi nghe đâu là nơi cư ngụ của hết thảy những năm quá khứ, Hay ai là người đã chẻ bàn chân quỷ, Hãy dạy tôi biết nghe tiếng hát nàng tiên cá, Hoặc dạy tôi biết tránh xa cú chích của lòng ghen tị, Và tìm ra Cơn gió nào Lay chuyển được một tâm hồn trung thực. Trong Bụi sao, ta có thể tìm được hàng tá những câu văn tưởng chừng chẳng hề mang bất kỳ ý nghĩa đặc biệt nào, hoặc hơn nữa, chúng dường như vô nghĩa.  Nữ hoàng Victoria đang ngự trên ngai vàng nước Anh, nhưng Người vẫn chưa trở thành góa phụ áo đen của Windsor. Ngài Charles Dickens đang trích đăng từng kỳ tiểu thuyết của Oliver Twist. Bông hoa tuyết điểm ngân rung trong lòng bàn tay anh. Nhưng cách mà Neil Gaiman viết một cuốn sách thật sự khiến bạn đọc bất ngờ. Ở chương trước đây thôi, lời ra tiếng vào của cư dân Bức Tường có vẻ thừa thãi, cái vỗ vai của người cha dành cho đứa con trai muốn lên đường ra khỏi những hạn định mà cậu phải tuân theo từ khi còn nhỏ chỉ đơn giản là một lời khích lệ động viên. Về sau, những chi tiết vụn vặt ấy hiện lại trong suy nghĩ của người đọc một cách bất ngờ, thình lình vụt qua trí óc rồi biến mất. Bằng một cách thần kỳ, người ta tìm ra được chân tướng của sự thật mà tác giả chẳng cần nói trực tiếp. Như đã hiểu nhau từ lâu, độc giả và nhà văn đi qua tất cả chi tiết trong truyện một cách dễ dàng. Phong cách viết của Neil Gaiman kỳ thực rất đơn giản. Càng đi sâu càng thấm thía. Nó khiến cho người ta cảm giác như được biến thành đứa trẻ trốn trong tủ quần áo và đột nhiên lạc đến một thế giới thần tiên xa lạ.    SỰ GIAO THOA CỦA THẾ GIỚI CỔ TÍCH Thế giới thần tiên mà Neil Gaiman hiện ra thật quá đỗi mơ mộng và đẹp đẽ. Cuộc hành trình của Tristran đầy rẫy bao nhiêu khó khăn nguy hiểm nhưng cũng không kém phần lãng mạn.  Anh bước thêm bước nữa, nhưng anh vẫn đang ở giữa thung lũng hẹp. Dương xỉ cao, cây du và mao địa hoàng mọc khắp thung lũng, và vầng trăng đang treo giữa trời. Anh giơ cây nến lên cao, tìm kiếm một ngôi sao băng, có lẽ là một tảng đá hay một viên ngọc quý, nhưng anh chẳng thấy gì hết. Cốt truyện bắt đầu từ ngôi làng Bức Tường, nơi giáp ranh với thế giới phép thuật, nơi chàng trai trẻ Tristran bắt đầu hành trình đi tìm ngôi sao thất lạc để đổi lấy một nụ hôn của Victoria. Vì lời hứa ngây thơ, anh bí mật thâm nhập vào thế giới của nàng tiên và các pháp sư. Ai biết rằng ngôi sao không phải là đá cuội mà là một thiếu nữ và liều thuốc của sự xinh đẹp, bất tử.  Mạch truyện bất ngờ xoắn nút khiến cho độc giả bị cuốn vào bên trong thế giới cổ tích thần kỳ. Ngoài những hoàng tử tranh giành ngôi vương, người đọc còn thấy những nàng tiên, kỳ lân, sư tử; có những hồn ma, người khổng lồ, phù thủy và cả cướp biển. Từng lớp nhân vật được chồng lên nhau. Nhưng đằng sau sự giao thoa màu nhiệm ấy cũng ẩn chứa đầy những câu chuyện châm biếm con người trong thực tại. Ngôi vương để trống vì ông vua đã chết trong sự vô tâm và âm mưu của bảy người con trai. Những nàng tiên đã không còn thơ mộng mà ném những tiếng cười cợt vào đam mê của người khác. Sư Tử đập Kỳ Lân vòng quanh thị trấn. Y đập một lần Y đập hai lần Dốc hết sức lực Y đập ba lần cho chắc Sư Tử giữ vững quyền năng của mình   NHỮNG VỊ KHÁCH ĐẶC BIỆT CỦA NEIL GAIMAN Chúng ta có Tristran, chàng thiếu niên lang thang với đôi mắt mơ hồ. Anh đắm chìm trong cơn say mê tuổi trẻ và giữ cho mình một lời hứa ngây thơ với cô gái được nhiều chàng trai để ý nhất trong làng.  Victoria, tình yêu của Tristran Thorn. Người đã trao cho anh một lời hứa về tình yêu tuổi trẻ và là nguyên nhân cho cuộc hành trình ra phía ngoài của Bức Tường. Cuối cùng là một ngôi sao. Ngôi sao ấy là một hòn đá? Hay một dải Ngân Hà? Không một ai biết. Chỉ mãi cho đến khi cuộc hành trình của Tristran bắt đầu. Nhưng thật không may, không chỉ mình anh tìm kiếm ngôi sao rơi về phía Tây ngôi làng Bức Tường - nơi dẫn đến cổng ra, cánh cổng luôn có người canh gác và chỉ được mở bảy năm một lần - mà còn có cả ba mụ phù thủy và những chàng hoàng tử của Stormhold. Tạm gọi họ là những vị khách đặc biệt của Gaiman. Trải qua những gian nan và thử thách, tâm lý của nhân vật đã thay đổi và phát triển rất rõ ràng. Khác với Tristran của lúc đầu: Anh rụt rè đến mức khổ sở, và như thường thấy trong thái độ của những người rụt rè đến mức khổ sở, anh cố gắng sửa chữa điểm này một cách quá lố khi cứ nhằm vào những thời điểm không phù hợp mà tỏ ra sôi nổi quá mức Mọi kẻ đang yêu đều có trái tim của một người điên và đầu óc của một nghệ sĩ hát rong Sau khi gặp những vị khách đặc biệt của Neil Gaiman, tâm lý anh đã phát triển thành một con người hoàn toàn khác: trưởng thành hơn và không còn hy vọng nhiều vào những phép màu.  Đó là anh, người chạy theo ước mơ viển vông vì tình yêu. Nhưng đó cũng là anh, người trở về và lựa chọn từ bỏ tình yêu của mình. Dẫu vậy, cái kết tốt đẹp vẫn mở ra cho anh chàng Tristran Thorn dũng cảm, nghĩa hiệp. Tristran Thorn cuối cùng đã thực hiện việc anh hằng khao khát đó là đặt chân tới những vùng đất mới và khám phá bao điều khác lạ. Quan trọng hơn cả, một lần nữa anh lại tìm thấy tình yêu.   CỔ TÍCH VÀ NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH Không ai có thể sống mãi trừ phi họ có được trái tim của một ngôi sao Khi nào ta sẽ thắp lên ngọn nến Babylon?   Càng đọc văn của Gaiman, người ta càng dễ bị cuốn vào những ma thuật mà ông đã sử dụng. Bởi nói một cách đơn giản, Gaiman ở đây không còn là một nhà văn. Ông hóa thân thành ảo thuật gia đại tài, vẽ nên những bức tranh phép thuật về cuộc sống kỳ diệu, phong phú và náo nhiệt. Những câu văn có vẻ khó hiểu lại trở nên sáng tỏ sau mỗi lần độc giả phát hiện ra một câu chuyện mới.   Bụi sao còn được biết tới là một tác phẩm có nhiều cảnh bạo lực và không hoàn toàn phù hợp với mọi lứa tuổi. Nữ hoàng Phù Thủy máu lạnh với những trò giết người kinh dị, các chàng Hoàng Tử xứ Stormhold độc ác, vì tham lam vương quyền mà ra tay với anh em ruột, những cảnh tượng ghê rợn, hãi hùng của khu rừng ăn thịt. Tất cả đan xen lại với nhau và ẩn sâu đằng sau những huyền ảo.    Cuối cùng, cổ tích vẫn chiến thắng. Tình yêu được nuôi dưỡng trong con người Tristran Thorn trở thành điểm sáng của câu chuyện. Dù cho chàng trai trẻ này có thay đổi, không còn mang dáng vẻ đơn giản và ngốc nghếch nhưng khao khát đặt chân tới những vùng đất mới và hy vọng được khám phá vẫn còn đó, mãnh liệt giống như tuổi trẻ của chúng ta. LỜI KẾT Bụi sao mang màu sắc kỳ diệu nhưng cũng ảm đạm. Một cuốn truyện cổ tích nhân văn và đen tối. Giọng văn trầm trước hết là rong ruổi theo sau những câu văn xuôi đậm chất thơ, sau mang theo ước mơ không hạn định của những thiếu niên hoặc cũng có thể là người lớn mang trái tim của thiếu niên. Tác phẩm vốn không phải sinh ra để lên tiếng cho những suy nghĩ cao cả hay chạy trốn khỏi sự sụp đổ của thế giới. Có lẽ, đây chỉ cách thể hiện quan điểm cá nhân của Neil Gaiman về thế giới thực tại thông qua những câu chuyện cổ tích. Bởi dù sao, chính ông là người tin rằng: Loài rồng có tồn tại và cũng có thể gục ngã. Bụi sao hết sức sáng tạo và thực tế.   Review chi tiết bởi: Ánh Dương - Bookademy *** BOOK REVIEW “BỤI SAO” Thời gian quả là một guồng quay nghiệt ngã. Thấm thoắt một năm trôi qua thật nhanh, Tết Nguyên đán Kỷ Hợi lại đang gần kề. Trong những ngày cuối năm này, ai ai cũng cảm thấy cuộc sống sao mà tất bật, hối hả; dường như có chút gì đó nóng hổi trong tim, hối thúc con người chuẩn bị đón một năm mới sang. Dẫu vậy, thật quý giá biết bao nếu các bạn dành cho mình một khoảng lặng, nhâm nhi một tách trà bên một cuốn sách; tạm gác lại lo toan bộn bề để thả hồn phiêu lãng với câu chuyện cổ tích dành cho người lớn - Stardust của Neil Gaiman. Nếu là một mọt của những tác phẩm kì ảo- giả tưởng (fantasy), bạn chắc hẳn không thể nào không nghe tới những tác gia lừng danh như J.R.R Tolkien với những sáng tác về thế giới Trung Đại rộng lớn, hay là J.K Rowling với series Harry Potter đã góp 1 phần không hề nhỏ vào thế giới tâm hồn của bao thế hệ trẻ trên khắp thế giới. Vậy, liệu các bạn đã từng nghe tới cái tên Neil Gaiman – người đã gây dựng nên một thế giới đan xen giữa hiện thực và huyền ảo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của mình? Neil dẫn dắt người đọc hết từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và cuối cùng là một cái kết khiến ta phải băn khoăn suy nghĩ vương vấn kể cả khi đã đóng lại cuốn sách. Câu chuyện mở đầu với chàng thanh niên Tristran Thorn- một chàng trai trẻ tới từ ngôi làng cổ tích Bức Tường tọa lạc giữa thế giới thực. Anh đem lòng si mê 1 thiếu nữ trong làng. Vì lời hứa sẽ cho cô tất cả, anh bắt đầu lên đường tiến vào Xứ Tiên đi tìm 1 ngôi sao băng rơi xuống từ trên trời. Anh nào ngờ rằng ngôi sao băng ấy đâu phải là một ngôi sao bình thường. Cuộc kiếm tìm đưa anh giáp mặt với 3 vị hoàng tử khao khát quyền lực của vương quốc Stormhold cùng giành giật ngai vàng còn trống, với nữ hoàng phù thủy ngàn tuổi đầy thâm hiểm và quyền năng và tất cả đều có chung mục tiêu với chàng Tristran. Và cuộc hành trình kì lạ của Tristran sẽ không chỉ vén màn bí mật về quá khứ của anh mà còn là cuộc hành trình sẽ thay đổi cuộc đời anh mãi mãi… Lần theo từng bước chân của Tristran, nhà văn Neil Gaiman đã vẽ nên cả một thế giới cổ tích nhiệm màu với những lâu đài tráng lệ, cánh rừng thần tiên với những vị hoàng tử và những mụ phù thủy nhưng đây không phải là câu chuyện cổ tích mà bạn hay nghe từ thời thơ ấu. Đây là câu chuyện của hiện thực, của những gian khổ khắc nghiệt, của ánh sáng và bóng đêm mà Tristran đã phải vượt qua trên hành trình của mình , để bản thân có thể trở thành một anh hùng đúng nghĩa, một người anh hùng của những khát vọng say mê và tình yêu vượt qua mọi trở ngại để rồi nhận ra nó chưa bao giờ là thứ gì đó xa xôi như những ngôi sao băng kia… “Bụi sao” chắc chắn sẽ khiến cho bạn suy nghĩ và băn khoăn về tình yêu, niềm hạnh phúc cũng như cuộc đời con người. Liệu bạn có thể đặt cuốn sách xuống sau khi đã mở ra và bắt đầu câu chuyện của Tristran ? Mời các bạn đón đọc Bụi Sao của tác giả Neil Gaiman & Huyền Vũ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane
Độc giả bị cuốn hút vào tác phẩm “Mật mã Da vinci” sẽ yêu thích những bí mật chất chồng đan xen của “Bí mật bộ cờ Montglane”. – Matthew Pearl, tác giả của “The Dante Club” Một bí mật được cất giấu qua nhiều thế kỷ, để tránh xa những kẻ sẽ lạm dụng quyền năng của nó. Một phụ nữ gan dạ và bí ẩn đã dành cả đời mình để chống lại các quy luật và bảo vệ lịch sử thoát khỏi tiến trình thay đổi vĩnh viễn. Khi ngọn lửa cách mạng Pháp bùng cháy và quyền lực của nhà vua bị tước đoạt, các nữ tu của Tu viện Montglane buộc phải khai quật một bí mật chốn giấu hàng ngàn năm trong những bức tường bao bọc tu viện. Toả đi khắp thế giới, mỗi người mang theo một quân cờ của bộ cờ vua huyền bí đã được tám người Ma-rốc trao tặng cho vua Charlemagne từ thời xa xưa, ẩn trong mỗi quân cờ là một mật mã. Bất cứ ai tập hợp được các quân cờ này đều có thể tham gia vào ván cờ chứa đựng quyền lực vô biên - một ván cờ mang đến ngày tàn cho tất cả các vị vua chúa. Nhiều thế kỷ sau, một cô gái được chọn là người kế tục để bảo vệ các quân cờ thất lạc. Liệu cô có tìm ra lời giải đáp bí ẩn lớn lao nhất mọi thời đại không? “Pha trộn yếu tố hư cấu lịch sử cùng điều thần bí cổ xưa và tạo ra một tác phẩm vàng” - Tạp chí People “Hấp dẫn…lạ thường ngoài sức tưởng tượng” – Newsday “Vừa sôi nổi vừa sâu sắc… chẳng mấy người cưỡng lại được sức hút của tác phẩm” - Los Angeles Times Book Review *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua tìm thấy rất nhiều điều thú vị. Katherine Neville Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: Phòng vệ, Quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, Một ván cờ… Nếu nhìn lại, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện là một ván cờ kỳ bí và đầy huyền ảo với những quân cờ là con người và những nước đi đầy toan tính. Sự hấp dẫn phủ trùm lên cuốn truyện còn ở cách xây dựng nhân vật: Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Maurice Talleyrand là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất của tác phẩm. Hiện ra như một “ác quỷ” đầy mưu mô xảo trá, thâm độc và rất nguy hiểm qua lời kể của nữ tu viện trưởng tu viện Montglane. Talleyrand được mô tả: “đã làm tình với rất nhiều, nhiều đến nỗi anh không đếm xuể”. Thế nhưng, dần dần, càng về sau, độc giả càng hiểu sâu sắc về anh - như một con người khác. Hoàn toàn không dễ dàng để theo dõi số phận của các nhân vật. Bởi thế, cuốn sách này không dành cho những ai thiếu sự chú tâm. Mỗi dòng chữ trong truyện đều gián tiếp hoặc trực tiếp hé lộ những bí mật tiếp theo trong số phận nhân vật và số phận bộ cờ Montglane. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ của lòng tham con người. Tất cả đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho là có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người khiến những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Yếu tố lịch sử và những huyền bí cổ xưa, với những nhân vật có thực như nữ hoàng Catherine của Nga, Napoleon Bonapart của Pháp, nhà triết học Voltare... đã biến Bí ẩn bộ cờ Montglane thành quyển sách vàng cho những ai yêu thích khám phá bí ẩn của lịch sử. Ngày xưa, Cao Bá Quát từng có câu nói đại ý, khi đọc sách, người ta có thể ngồi ở nhà mà bao quát chuyện nhân gian. Với quyển sách này, độc giả cũng sẽ có cảm giác như thế. Bởi cuốn sách là một kỳ thư hấp dẫn về chính trị, lịch sử, phong tục, lối sống và nhất là cờ vua, một bộ môn thể thao đầy trí tuệ. Hạ Vi *** Câu chuyện về bộ cờ vua và những bí ẩn đẫm máu mang một sức hút mãnh liệt. Nó khiến những ai yêu thích sách có màu sắc trinh thám và bộ môn cờ vua sẽ tìm thấy rất nhiều điều thú vị trong đó. Toàn bộ tên các chương sách đều được đặt liên quan đến cờ vua: phòng vệ, quân tốt tiến đến bốn cánh hậu, một ván cờ… Nếu nhìn lại toàn bộ quyển sách, rõ ràng, có thể hình dung cả câu chuyện về bí ẩn bộ cờ Montglane là một ván cờ kỳ bí và đầy  huyền ảo với những quân trong ván cờ là con người và những nước đi mà mỗi tính toán của con người trong đó. Sự hấp dẫn phủ trùm lên quyển truyện còn ở cách xây dựng nhân vật. Đồ sộ và đa dạng với sự đan xen của nhiều tuyến, nhiều nhân vật nhưng cũng sắc sảo và độc đáo với từng nhân vật một. Sự bất ngờ khi độc giả bóc tách từng tính cách số phận nhân vật làm nên sức quyến rũ không cưỡng nổi của một trong những quyển sách bán chạy nhất của nước Mỹ. Nếu độc giả nhắm mắt lại, hình dung đường dây số phận chồng chéo của các nhân vật sẽ nhận ra rằng, hóa ra, họ đang theo dõi một ván cờ số phận của lòng tham con người. Tất cả các bi kịch đều bắt nguồn từ lòng tham - một loại bi kịch mang màu sắc cổ điển trong các vở kịch, tiểu thuyết. Bộ cờ Montglane được cho rằng có ẩn chứa trong nó một bí ẩn chết người mà những kẻ lạm dụng nó sẽ thay đổi lịch sử. Cuộc săn tìm bộ cờ đã khiến con người bộc lộ mặt trái của mình. Nhà văn Katherine Neville đã trung thành với phong cách “đồ sộ” như bà từng làm với Đam mê được xuất bản trước đây. Những nhân vật lịch sử như Charlemagne, Napoléon, Voltaire, nữ hoàng Catherina II..... vẫn tiếp tục thực sự của đam mê. Họ cũng yêu, ghét, vui, buồn...với những tham vọng không che giấu. Và chính vì thế mà họ rất đời, rất người.   Trang Trang *** Katherine Neville là tác giả người Mỹ có những tác phẩm bán chạy nhất trên thế giới trên tờ NY Times, USA Today chuyên viết tiểu thuyết phiêu lưu/săn lùng kho báu. Các tiểu thuyết của bà bao gồm The Eight, A Calculated Risk, The Magic Circle và The Fire, là phần tiếp theo của The Eight.  *** TU VIỆN MONTGLANE, PHÁP  Mùa xuân năm 1790 Một nhóm nữ tu băng qua đường, những chiếc khăn trùm đầu nhàu nát của họ nhẹ bay chấp chới như cánh hải âu. Khi các cô lướt qua những vòm cổng đá cao vòi vọi của thành phố, đàn gà con và mấy chú ngỗng te tái tránh lối, vỗ cánh loạn xạ, bì bõm lội qua vũng bùn. Các nữ tu bước trong làn sương mù u ám vẫn bao phủ thung lũng mỗi sớm tinh mơ và từng cặp sóng đôi lặng thinh đi về phía tiếng chuông trầm lắng, ngân lên từ những quả đồi trên kia. Họ gọi mùa xuân này là le Printemps Sanglant, theo tiếng Pháp, có nghĩa Mùa Xuân Đẫm Máu. Năm đó anh đào đơm hoa sớm, còn lâu tuyết trên các đỉnh núi cao mới tan. Những cành cây mảnh khảnh oằn cong xuống đất bởi sức nặng của những đóa hoa đỏ tươi ướt đẫm. Có người nói anh đào nở rộ sớm vậy là điềm lành, biểu tượng của sự hồi sinh sau một mùa đông khắc nghiệt và dài đằng đẵng. Nhưng rồi những cơn mưa giá rét kéo đến và làm đông cứng các khóm hoa trên cành, khiến thung lũng bị vùi sâu trong sắc hoa đỏ nhuốm những vệt sương nâu. Như thể vết thương bết máu khô. Và người ta nói đây là một dấu hiệu khác thường. Cao ngất ngưởng phía trên thung lũng, tu viện Montglane nhô lên sừng sững như mỏm đá khổng lồ trồi ra khỏi đỉnh núi. Công trình kiến trúc trông như pháo đài kia vẫn tách biệt với thế giới bên ngoài gần cả nghìn năm nay. Nó có sáu, bảy lớp tường dày chồng lên nhau vì khi những phiến đá ban đầu bị xói mòn qua nhiều thế kỷ, người ta đặt các lớp tường mới bên ngoài lớp cũ với những giàn chống đỡ. Kết quả tạo thành một hỗn hợp kết cấu ảm đạm và chính vẻ ngoài đó ấp ủ nhiều lời đồn đại về chốn này. Tu viện là kiến trúc nhà thờ cổ kính nhất còn nguyên vẹn ở Pháp, và nơi đây cất giữ một lời nguyền cổ xưa sắp được đánh thức lần nữa. Khi cái họng chuông đen ngòm vang vọng khắp thung lũng, những nữ tu sĩ còn lại, từng người, từng người một, rời mắt khỏi công việc, để những chiếc cào, chiếc cuốc sang một bên. Họ bước qua những rặng cây anh đào trải dài đối xứng hai bên lối đi để trèo lên con dốc ngược trở về tu viện. Ở cuối đoàn người dài lê thê, hai nữ tu trẻ mới vào viện, Valentine và Mireille, khoác tay nhau lê bước rón rén trong những chiếc ủng lấm lem bùn. Họ đã tạo thành một phần lạc lõng bổ sung vào hàng ngũ trật tự của các nữ tu. Mireille cao lớn, tóc đỏ với đôi chân dài và bờ vai rộng, trông giống cô nông dân khoẻ mạnh hơn là tu sĩ. Cô đeo một cái tạp dề lớn bên ngoài chiếc áo và những lọn tóc quăn đỏ ló ra lơ thơ bên dưới khăn trùm. Bên cạnh Mireille, Valentine mặc dù cao gần bằng nhưng có vẻ mỏng manh ẻo lả. Làn da nhợt nhạt của Valentine nom cứ như trong suốt, nước da trắng được tôn thêm lên nhờ mái tóc vàng nhạt rũ xuống vai. Cô đã nhét chiếc khăn trùm đầu vào túi áo, và miễn cưỡng bước đi bên cạnh Mireille, vừa đi vừa đá ủng vào bùn. Hai cô gái trẻ này, những tu sĩ nhỏ tuổi nhất ở tu viện, là chị em họ bên ngoại. Cả hai đêu mồ côi từ nhỏ sau trận đại dịch khủng khiếp đã tàn phá nước Pháp. Bá tước de Remy già nua, ông ngoại Valentine, đã phó thác hai cô cho nhà thờ trước lúc ông qua đời, để lại số di sản khá lớn bảo đảm cuộc sống cho hai cô cháu gái. Hoàn cảnh giáo dưỡng hình thành nên một sự gắn bó khăng khít giữa hai cô gái. Cả hai đều ngập tràn vẻ hân hoan vô bờ của tuổi trẻ. Tu viện trưởng thường nghe thấy vài nữ tu lớn tuổi phàn nàn rằng lối sống này chẳng phù hợp chút nào với cuộc đời ẩn dật tại một nhà tu kín, nhưng bà cũng hiểu rằng kiềm chế sức sống của tuổi trẻ thì tốt hơn là tìm cách bóp nghẹt nó. Và người viện trưởng cũng cảm thấy có đôi chút thiên vị dành cho hai chị em côi cút, một tình cảm khác thường so với cả tính cách lẫn địa vị của bà. Các nữ tu đứng tuổi hẳn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bản thân viện trưởng thuở thiếu thời đã duy trì một tình bạn sâu sắc như thế với một cô gái. Hai người đã tách biệt nhau nhiều năm trời và xa cách hàng ngàn dặm. Lúc này, trên dốc mòn, Mireille đang nhét những lọn tóc đỏ bướng bỉnh trở vào dưới tấm khăn trùm đầu và giật mạnh cánh tay cô em họ trong khi lên lớp về tội chậm trễ. "Nếu em vẫn cứ lề mề nấn ná mãi, Mẹ Bề Trên sẽ lại quở phạt chúng ta", cô nói. Valentine vùng khỏi tay chị và xoay một vòng. "Trái đất đang đắm chìm trong cảnh sắc mùa xuân", cô hò reo, đung đưa hai cánh tay và suýt nữa lộn nhào xuống vách đá dựng đứng. Mireille vội kéo cô lôi đi dọc theo bờ vực cheo leo. "Cớ sao chúng ta phải giam mình trong cái tu viện ngột ngạt buồn tẻ ấy khi mọi vật ngoài kia đang căng tràn nhựa sống ?" "Vì chúng ta là những nữ tu", Mireille bĩu môi vặc lại, gấp gáp bước đi, bàn tay bấtu chặt cánh tay Valentine. "Và nghĩa vụ của chúng ta là nguyện cầu cho nhân loại". Nhưng làn sương mờ ấm áp dâng lên từ đáy thung lũng đã mang theo mùi thơm ngào ngạt đến nỗi mọi thứ xung quanh đều ngát hương hoa anh đào nở rộ. Mireille cố gắng không đế ý tới nỗi xốn xang mà cảnh vật nơi đây dấy lên trong cô. "Ơn Chúa, chúng ta chưa phải là nữ tu", Valentine nói. "Chúng ta vẫn chỉ là những người mới tu chừng nào còn chưa tuyên thệ. Chẳng bao giờ quá muộn để được cứu rỗi. Em đã nghe thấy các nữ tu lớn tuổi thì thào với nhau rằng hiện các tên lính đang lúc nhúc khắp nơi trên đất Pháp, đánh cắp kho báu của các tu viện, vây bắt các nhà tu hành và tống họ về Paris. Có thể một vài tên lính cũng sẽ đến đây và bắt em về Paris. Rồi họ đưa em đi xem nhạc kịch mỗi đêm, và uống sâm banh từ chiếc giày của em !" "Những người lính chẳng phải lúc nào cũng mê ly như em mơ mộng đâu", Mireille nhận xét. "Suy cho cùng, nghề của họ là giết chóc chứ đâu phải đưa người ta đi xem hát". "Đó không phải tất cả những gì họ làm", Valentine nói, giọng cô trầm xuống thành một tiếng thì thào bí hiểm. Họ đã lên đến đỉnh đồi, nơi con đường trở nên bằng phẳng và thoáng đãng hơn nhiều. Ở đây lát đá phiến phẳng lỳ giống những con đường cao tốc thênh thang thường thấy ở các thành phố lớn. Phía bên kia đường, người ta trồng những cây bách lớn nổi lên trên nền một rừng cây anh đào, trông chúng có cái vẻ trang trọng nhưng gớm ghiếc, giống như chính cái tu viện này, hết sức lạc lõng. "Em nghe nói", Valentine ghé sát vào tai cô chị họ thì thầm "rằng lính tráng thực hiện những hành động đồi bại đối với nữ tu sĩ ! Nếu một tên lính tình cờ bắt gặp một nữ tu, trong một cánh rừng chẳng hạn, hắn sẽ lập tức lôi một vật ra khỏi đũng quần, đặt vật ấy vào trong người nữ tu lắc qua lắc lại. Và thế là khi hắn xong việc, nữ tu sẽ có em bé !" "Thật là báng bổ !" Mireille thét lên, giằng ra khỏi tay Valentine và cố nén một nụ cười thoáng trên môi. "Chị nghĩ em thô lổ đến thế là cùng, làm sao trở thành nữ tu được". "Đó đúng là điều em đã nói suốt ngay từ đầu", Valentine thú nhận. "Em thích làm cô dâu của một người lính hơn làm cô dâu của Chúa". Khi hai chị em tiến đến gần tu viện, họ có thể trông thấy bốn hàng cây bách sóng đôi ở mỗi lối ra vào và tạo thành hình một dấu thánh giá. Những thân cây bao bọc quanh hai cô gái khi họ gấp gáp chạy xuyên qua làn sương mù đang sẫm dần lại. Họ đi qua những cánh cổng tu viện và băng ngang khoảng sân rộng. Khi họ đến gần những cánh cửa gỗ cao nặng nề dẫn đến thánh đường chính, tiếng chuông tiếp tục rung lên, chẳng khác gì hồi chuông báo tử len lỏi qua lớp sương dày đặc. Từng người dừng lại trước cửa để gạt bùn đất khỏi đế ủng, thoăn thoắt làm dấu thánh, và bước qua cánh cổng chính đồ sộ. Không ai trong hai cô liếc nhìn lên dòng mẫu tự tiếng Francs thô sơ khắc vào khung vòm đá gắn trên cửa, nhưng cô nào cũng biết nó viết gì, như thể những từ ngữ kia đã khắc sâu vào trái tim các cô: Nguyền rủa kẻ nào mang những bờ tường này xuống cõi tục. Nhà vua chỉ bị ngăn cản bởi bàn tay của Chúa mà thôi. Bên dưới lời đề từ, cái tên được khắc thành những chữ viết lớn rời nhau 'Carolus Magnus'. Ông chính là người tạo ra công trình này và cả lời nguyền ám lên những ai sẽ phá hủy nơi đây. Đó là nhà cai trị vĩ đại nhất của Đế chế Francs trong hơn một nghìn năm trước, người được cả nước Pháp biết đến với danh xưng hoàng đế Charlemagne.  (Charlemagne (Charles ler le Grand), vua của người Francs từ năm 768 đến 814 và là hoàng đế của đế chế Occident từ năm 800 đên 814, được coi là một trong những ông vua vĩ đại nhất nước Pháp nhờ công thống nhất và mở rộng lãnh thổ quốc gia.) Những bức tường phía trong tu viện tối tăm, lạnh lẽo, và ẩm ướt rêu phong. Từ chính điện bên trong có thể nghe thấy những tiếng thì thầm cầu nguyện của các tu sĩ mới vào viện cùng tiếng lách cách khe khẽ khi họ lần tràng kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, và kinh Lạy Cha. Valentine và Mireille vội vã đi qua nhà nguyện lúc người cuối cùng trong số những nữ tu mới vào viện đang quỳ gối khấn vái và hai cô dõi theo tiếng xì xào bàn tán đến bên một cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ, nơi phòng làm việc riêng của Mẹ Bề Trên. Một nữ tu lớn tuổi hơn đang hối thúc người tụt lại sau cùng nhanh nhanh đi vào. Valentine và Mireille đưa mắt nhìn nhau và bước vô. Bị gọi đến phòng làm việc riêng của nữ tu viện trưởng kiểu này thật kỳ lạ. Rất ít nữ tu đặt chân đến đây, mà nếu có đến thường là để nhận kỷ luật. Valentine, người luôn bị trách phạt, rất hay đến đây. Thế nhưng tiếng chuông tu viện xưa nay vốn để triệu tập tất cả các nữ tu sĩ. Chắc hẳn tất cả mọi người sao có thể bị gọi đến phòng làm việc của Mẹ Bề Trên nhận hình phạt cùng một lúc được chứ ? Khi họ bước vào căn phòng rộng có trần thấp, Valentine và Mireille thấy tất cả các nữ tu trong viện quả thật đã tề tựu ở đó, cả thảy hơn năm mươi người. Trên những dãy ghế dài bằng gỗ cứng đối diện bàn viết của nữ tu viện trưởng, họ ngồi thì thào với nhau. Rõ ràng ai cũng nghĩ đây là một sự việc khác thường, và những khuôn mặt ngước nhìn lên khi hai cô bước vào với vẻ mặt hãi hùng. Hai chị em ngồi vào chỗ của họ ở dãy ghế cuối cùng. Valentine siết chặt tay Mireille. "Chuyện này là sao ?" Cô thì thào. "Điềm dữ đây, chị nghĩ vậy", Mireille đáp, giọng cũng thì thầm. "Mẹ Bề Trên trông có vẻ nghiêm nghị và ở đây có hai phụ nữ chị chưa gặp bao giờ".  Ở cuối căn phòng dài, phía sau chiếc bàn đồ sộ bằng gỗ anh đào bóng loáng, nữ tu viện trưởng đứng đó. Bà nhăn nheo và khô cứng như một mảnh da khô, nhưng vẫn lộ ra uy quyền của chức vụ to lớn bà đang nắm giữ. Sắc thái muôn thuở trong điệu bộ của bà gợi lên ý nghĩ từ lâu bà đã hòa hợp thể xác vào chính tâm hồn mình, nhưng hôm nay trông bà viện trưởng nghiêm trang hơn bao giờ hết. Từ trước tới giờ, các nữ tu chưa từng thấy bà như thế lần nào. Hai người lạ mặt, đều là những phụ nữ trẻ to xương với đôi bàn tay lớn, lù lù xuất hiện hai bên nữ tu viện trưởng như những thiên thần báo oán. Một người có làn da tái nhợt, tóc đen và đôi mắt sáng, trong khi người kia mang những đường nét khỏe mạnh giống Mireille, với nước da trắng mịn và mái tóc màu nâu hạt dẻ chỉ hơi sẫm hơn những lọn tóc nâu đỏ của Mireille một chút. Dù cả hai mang dáng dấp những nữ tu nhưng họ không khoác trên mình y phục tu hành mà mặc những bộ quần áo đi đường màu xám trơn rất bình thường. Tu viện trưởng chờ cho tất cả các nữ tu sĩ yên vị và cánh cửa được khép lại. Khi căn phòng hoàn toàn yên ắng, bà mới bắt đầu nói với chất giọng bao giờ cũng khiến Valentine nghĩ đến âm thanh chiếc lá khô bị xéo nát. "Các con của ta", nữ tu viện trưởng nói, chắp hai tay phía trước, "trong gần một nghìn năm nay, dòng tu Montglane đã trụ vững trên đỉnh núi này, thực hiện nghĩa vụ của chúng ta đối với nhân loại và phụng sự Chúa. Mặc dù cách ly khỏi thế gian nhưng chúng ta vẫn nghe thấy những bất bình âm ỉ trong tình trạng náo động ngoài kia. Tại nơi này, trong cái xó xỉnh nhỏ bé, chúng ta đã và đang tiếp nhận những tin dữ xảy ra gần đây, nó có thể làm thay đổi sự chở che an toàn mà chúng ta tận hưởng bấy lâu. Hai người phụ nữ đứng cạnh ta là những người đưa tin. Ta xin giới thiệu xơ Alexandrine de Forbin, bà ra dấu về phía người phụ nữ tóc đen, và Marie Charlotte de Corday, họ cùng nhau điều hành Tu viện các xơ tại tỉnh Caen ở địa phận miền Bắc. Họ đã đi suốt chiều dài nước Pháp dưới lớp áo cải trang, một hành trình gian khổ, để đem đến cho chúng ta lời cảnh báo. Vì vậy ta yêu cầu các con hãy lắng nghe những điều họ nói. Điều đó tối quan trọng đối với tất cả chúng ta. Tu viện trưởng ngồi xuống, và người phụ nữ được giới thiệu là Alexandrine de Forbin hắng giọng, nói nhỏ nhẹ đến nỗi các nữ tu sĩ phải căng tai lắng nghe. Tuy vậy lời lẽ của cô ta rất rõ ràng. "Các chị em đạo hữu của ta", cô bắt đầu, "câu chuyện mà chúng tôi phải kể không dành cho những người nhút nhát. Trong chúng ta có những người đến với Chúa với hy vọng cứu rỗi nhân loại. Có những người đến đây với hy vọng thoát ly trần thế. Và cũng có những người miễn cưỡng đến đây, không hề cảm thấy bất kỳ động lực nào hết". Nói đến đây, cô đưa cặp mắt đen láy, long lanh về phía Valentine khiến cô này thẹn đỏ cả mặt. 'Bất kể các chị nghĩ mục đích của mình là gì thì nó cũng đã thay đổi, kể từ hôm nay. Trong hành trình của Charlotte và tôi đã đi dọc suốt chiều dài nước Pháp, qua Paris và tất cả làng mạc. Chúng tôi đã chứng kiến không chỉ những người đói khát mà cả những người chết vì đói. Dân chúng đang nổi loạn trên đường phố để giành giật miếng ăn. Những cảnh tàn sát, đàn bà vác những chiếc đầu bị cắt lìa cắm trên đỉnh ngọn giáo diễu qua khắp các khu phố. Những cảnh hiếp dâm, và còn tệ hơn thế. Trẻ nhỏ bị giết, người lớn bị tra tấn ngay trên các quảng trường và bị phanh thây bởi những đám đông giận dữ ..." Các nữ tu không còn giữ yên được nữa. Giọng họ vang lên đầy hốt hoảng trong khi Alexandrine tiếp tục câu chuyện đẫm máu. "Bây giờ là tháng tư. Tháng mười năm ngoái, nhà vua và hoàng hậu đã bị một đám đông phẫn nộ bắt cóc khỏi cung điện Versailles và bị đưa về giam giữ tại điện Tuilleries ở Paris. Chúng ép nhà vua ký vào một văn kiện, bản "Tuyên ngôn nhân quyền", tuyên bố quyền bình đẳng cho mọi người. Thực tế, Quốc hội hiện đang điều hành chính phủ; nhà vua không có quyền can thiệp. Đất nước chúng ta đã vượt xa tầm một cuộc cách mạng. Chúng ta đang trong tình trạng vô chính phủ. Tồi tệ hơn nữa, Quốc hội phát hiện trong ngân khố quốc gia không có vàng; nhà vua đã làm vương quốc khánh kiệt. Ở Paris, người ta tin rằng nhà vua sẽ không sống sót qua năm nay". Cơn chấn động lướt qua những dãy ghế của các nữ tu, và tiếng xì xào sửng sốt râm ran khắp gian phòng. Mireille siết nhẹ bàn tay Valentine trong khi cả hai đều nhìn chằm chằm vào người nói. Những phụ nữ trong căn phòng này chưa bao giờ nghe thấy những ý nghĩ kiểu đó được phát biểu lớn tiếng, và họ cũng không thể hình dung những điều như vậy là có thật. Tra tấn, vô chính phủ, giết vua. Sao có thể thế được ? Viện trưởng đập tay xuống mặt bàn yêu cầu giữ trật tự, và các nữ tu sĩ im bặt. Bấy giờ Alexandrine ngồi vào chỗ, còn xơ Charlotte đứng một mình cạnh bàn. Giọng nói của xơ to và mạnh mẽ. "Trong Quốc hội có một kẻ cực kỳ xấu xa. Mặc dù tự nhận mình là thành viên của giới tăng lữ nhưng hắn rất khao khát quyền lực. Y chính là giám mục địa phận Autun. Trong thâm tâm, những người thuộc Giáo hội La Mã tin rằng hắn là hiện thân của ma quỷ. Họ nói hắn sinh ra đã có móng chân chẻ đôi, biểu tượng của cái ác, rằng hắn uống máu con nít để giữ vẻ trẻ trung, rằng hắn cử hành lễ Đen cầu xin quỷ Satăng. Vào tháng mười, tên giám mục này đề xuất với Quốc hội cho Nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của Nhà thờ. Ngày hai tháng mười một, dự luật Tịch Biên của hắn được Mirabeau, một chính khách cấp cao, ủng hộ trước quốc hội, và đã được thông qua. Ngày mười ba tháng hai, công cuộc tịch thu bắt đầu. Bất cứ tăng ni nào chống đối cũng đều bị bắt giam. Và ngày mười sáu tháng hai, tên giám mục của vùng Autun ấy được bầu làm chủ tịch Quốc hội. Giờ đây chẳng gì có thể ngăn hắn lại được". Các nữ tu sĩ đang trong tâm trạng cực kỳ kích động, họ cất cao giọng kêu than kinh hãi và cực lực phản đối, nhưng giọng Charlotte vang vọng trên hết. "Khá lâu trước khi đưa ra dự luật Tịch Biên, giám mục Autun đã mở những cuộc điều tra về nơi cất giữ tài sản của Giáo hội ở Pháp. Mặc dù bản dự luật ghi rõ các linh mục bị tước vị trước và các nữ tu sĩ được tha nhưng chúng tôi biết tên giám mục đó đã để mắt tới tu viện Montglane. Nhiều cuộc điều tra của y tập trung nhắm vào xung quanh Montglane này. Chúng tôi vội vã đến đây báo cho các chị biết chuyện này. Kho báu của Montglane không được để rơi vào tay hắn". Nữ tu viện trưởng đứng đó, đặt tay lên bờ vai vững chãi của Charlotte Corday. Bà nhìn khắp lượt các hàng ghế nữ tu trong những bộ trang phục đen, những chiếc nón hồ cứng của họ rập rờn dưới kia như mặt biển đầy hải âu hoang dã, và bà nở một nụ cười. Đây là các con chiên của bà, những người bà đã dẫn dắt từ rất lâu và có thể bà sẽ không được gặp lại họ trong đời một khi tiết lộ điều buộc phải nói ra. "Giờ thì các con đã nắm được tình cảnh như ta", viện trưởng nói. "Mặc dù đã biết từ nhiều tháng nay về số kiếp của chúng ta nhưng ta vẫn không muốn nói làm các con lo sợ, đến khi nào ta chọn được một hướng đi. Trên hành trình đáp lại lời kêu gọi, các xơ ở Caen đã chứng thực nỗi hãi hùng tồi tệ nhất của ta". Các nữ tu lúc này đã rơi vào một sự im lặng chết người. Không thể nghe thấy một âm thanh nào ngoài giọng nói của nữ tu viện trưởng. "Ta là một bà già có thể sẽ được gọi về với Chúa sớm hơn hình dung. Lời thề nguyện của ta khi bắt đầu cai quản tu viện này không chỉ là lời thề với Chúa. Gần bốn mươi năm trước, lúc trở thành nữ tu viện trưởng của Montglane, ta đã thề giữ kín một bí mật, nếu cần có thể hy sinh cả tính mạng để bảo toàn nó. Bây giờ đến lúc ta thực hiện lời thề này. Nhưng ta phải chia sẻ một vài điều của bí mật với từng người các con và đến lượt các con phải thề giữ kín. Câu chuyện của ta dài, và các con phải kiên nhẫn nếu ta có nói chậm rãi. Khi ta kể xong, các con sẽ biết tại sao từng người trong chúng ta buộc phải làm những điều tất yếu". Nữ tu viện trưởng tạm ngừng để nhấp một ngụm nước trong chiếc cốc lễ bằng bạc đặt trên bàn trước mặt rồi nói tiếp. Hôm nay là ngày bốn tháng tư năm 1790 sau Công nguyên. Câu chuyện của ta bắt đầu vào một ngày bốn tháng tư cách đây nhiều năm. Người tiên nhiệm đã kể ta nghe, như thông lệ bao đời nay từ khi tu viện ra đời, viện trưởng sẽ truyền lại câu chuyện cho người kế nghiệp trong buổi lễ thác vị. Và bây giờ ta kể các con nghe... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Bộ Cờ Montglane của tác giả Katherine Neville & Nguyễn Lâm Xuân Các (dịch).
Cuồng Vọng
Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dài nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt... *** Clive Cussler sinh năm 1931 tại bang Illinois (Mỹ) nhưng tuổi thơ và quá trình trưởng thành lại gắn liền với vùng đất California. Ông từng là thợ máy phục vụ trong Không quân Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1973, tác phẩm đầu tay của ông được phát hành. Sau đó, tên tuổi của Cussler nhanh chóng được khẳng định khi cho ra mắt cuốn "Raise the Titanic!" vào năm 1976, số lượng phát hành cuốn sách này cùng cuốn "Sahara" lên tới hàng chục triệu bản và được coi là tác giả của những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ. Theo New York Times, Cussler sở hữu khối tài sản lên tới 80 triệu USD. Có thể thấy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Cussler đã phát hành hơn 80 cuốn sách trong đó phần lớn mang đề tài bí hiểm và những tác phẩm của ông được phát hành ở hơn 100 nước trên thế giới, đồng thời được dịch ra khoảng 40 thứ tiếng. Bên cạnh công việc tiểu thuyết gia, Clive Cussler còn sở hữu và điều hành Cơ quan Hàng hải và dưới nước quốc gia Mỹ - một tổ chức phi lợi nhuận, phát hiện hơn 60 xác tàu, thuyền dưới lòng đại dương. Đặc biệt, Cussler chính là người đã là tìm ra con tàu Carpathia – con tàu tham gia giải cứu những người sống sót trong vụ đắm tàu Tinanic lịch sử. Các tác phẩm được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Thác Lũ Cuồng Vọng Bí Ẩn Titanic Sóng Dữ Hoang Mạc Băng Cháy ... *** SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP   Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.   Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt. Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp. Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá. Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất. Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá. Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng. Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc. Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận. Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất. Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn. Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải. Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt. Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm. Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra. Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói. Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó. Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập. Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại. Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long. Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn. Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ. Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis. Mời các bạn đón đọc Cuồng Vọng của tác giả Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng.
Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng
“Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là một tác phẩm văn học tiêu biểu của nhà văn nổi tiếng F. Scott Fitzgerald. Đây là cuốn sách mà tác giả gửi gắm cả cuộc đời của mình vào. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết đến nhân vật trứ danh Gatsby, một nhân vật ám ảnh nhiều thế hệ bạn đọc trong tác phẩm kinh điển “Gatsby Vĩ Đại”. Bộ tiểu thuyết này được viết dưới ngòi bút của Fitzgerald. Cùng với Hemingway, Fitzgerald được xem là nhà văn tiêu biểu nhất của nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX. Ngoài “Gastby Vĩ Đại”, “Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng” là tác phẩm vững vàng nhất của nhà văn vào khoảng thời gian ông đã trưởng thành trong sự nghiệp văn học của mình. Cuốn sách nói nhiều đến vấn đề sự nghiệp và kế sinh nhai. Monroe Stahr không giống bất cứ nhân vật nào khác của Fitzgerald, đã bị lôi cuốn vào một nền kỹ nghệ mới mà chính tác giả là người đi đầu sáng lập. Cuốn sách được nhà văn viết vào lúc cuộc sống gặp nhiều khó khăn nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Bởi vậy, cuốn sách mang một tư tưởng sâu sắc, một ý nghĩa mà nhiều người cần phải suy ngẫm mới hiểu được. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ. Tiểu thuyết gia, nhà viết truyện ngắn F. Scott Fitzgerald thường tự nhận mình là người con của “thời đại nhạc Jazz”. Cùng với người vợ xinh đẹp Zelda Sayre, ông sống một cuộc đời sôi động, tràn đầy tiệc tùng và luôn tiêu tiền như nước. Tuy vậy, trong một truyện ngắn, ông mở đầu: “Thế giới người giàu hoàn toàn khác biệt với bạn và tôi”. Và thế giới được coi là “khác biệt” với mình đó còn được ông miêu tả trong rất nhiều những tác phẩm như Đẹp và đáng nguyền rủa, Gasby vĩ đại. Cuộc sống chìm trong rượu và những đại tiệc xa xỉ của vợ chồng Fitzgerald đã thu hút sự hiếu kỳ của công chúng thời bấy giờ. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho các sáng tác của ông khá đắt khách. Trong lá thư gửi cho một người bạn, nhà văn viết: “Một truyện ngắn có thể viết ngay đầu miệng chai nhưng với một cuốn tiểu thuyết, anh phải giữ cho đầu óc mình thật tỉnh táo và minh mẫn để có thể kiểm soát được tất cả các nhân vật như Ernest Hemingway đã làm được trong Giã từ vũ khí”. Tác phẩm: This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920) Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920) The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa/Đợi Của, 1922) Vegatable (Rau cỏ, 1923) The Great Gasby (Đại gia Gatsby, 1925) Tender is the Night (Đêm dịu dàng/Cuộc Tình Bỏ Đi, 1934) Top at Reveille (Tín hiệu thức tỉnh, 1935) The Last Tycoon (Trùm tư bản cuối cùng/Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng/Ông Hoàng Hollywood, 1941) The Crack-Up (Sụp đổ, 1945) Gatxbi Vĩ Đại Và Truyện Ngắn - Francis Scott Fitzgerald *** LỜI NGƯỜI DỊCH Fitzgerald là ai? Ông là người đã nhìn thấy rõ những nỗi vui buồn tế nhị nhất của con người, và đã biết dùng ngôn từ để mô tả những nỗi buồn vui đó một cách khéo léo, rõ ràng, tỉ mỉ nhất. Những hàng chữ ông đã viết ra, những cuốn truyện ông để lại cho nhân loại là “trầm tích” để con ngươi mãi mãi về sau này biết rằng những ngươi sống trước mình hàng chục năm, trăm năm, ngàn năm, triệu năm đã có những tình cảm như thế đấy. Cũng như Homer, Nguyễn Du, Shakespeare, Fitzgerald sẽ sống mãi với thời gian và không gian. Nhờ những đứa con đó mà nhân loại có thể tìm lại dấu vết của mình. Tìm lại dấu vết để có một sức sống liên tục, để suy tư về số kiếp và định mệnh của mình đồng thời toan tính một dự phóng cho tương lai. Nhà tài phiệt cuối cùng là cuốn truyện Fitzgerald đã gửi gấm cả cuộc đời mình trong đó. Ông đã viết nó vào lúc nghèo đói nhất, vào lúc ông tự tử không chết. Những tư tưởng sâu sắc nhất, những tình cảm cuối cùng ông đã đặt trong cuốn truyện này để gửi lại cho hậu thế. Chúng ta đã đọc Đoạn trường tân thanh và đã khóc cho Nguyễn Du. Chúng ta hãy đọc thêm Nhà tài phiệt cuối cùng để khóc thêm cho Fitzgerald khốn khổ một giọt nước mắt. Như thế là công bằng, bởi vì những người đó đã chảy rất nhiều mồ hôi, nước mắt mới viết lên được các tác phẩm để lại cho chúng ta ngày nay. Trước khi vào chuyện xin quý độc giả lướt qua vài nét chính về cuộc đời của Fitzgerald. Scott Fitzgerald: cơn sốt của đời sống “Mẹ ơi, sau này con có tất cả mọi cái mà bây giờ con chưa có hay không?” Cậu Fitzgerald đã hỏi mẹ câu đó lúc cậu bốn tuổi, sau này cậu đã có tất cả và Fitzgerald cũng đã trả lại cho xã hội tất cả. Ông chính là tác già những cuốn “Gatsby Huy hoàng” “Đêm trường êm dịu” và trở thành nhà văn lớn của Mỹ quốc. Cuối cùng, ông đã vĩnh biệt cuộc sống trong cảnh thanh bần và quên lãng của thế nhân. Phải chăng cuộc đời thi nhân giống như ngôi sao lạ, ánh sáng huy hoàng của mình phát ra lại thiêu đốt chính cuộc đời của mình? Francis Scott Key Fitzgerald chào đời ngày 24-9-1896 tại thành phố Saint Paul thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ông là con trai duy nhất trong gia đình. Trưức khi sinh ông, cha mẹ ông đã có hai con gái, nhưng cả hai đều chết vì bệnh đậu mùa. Sau này Fitzgerald kể lại: “Trước khi sinh tôi ba tháng thì hai chị tôi qua đời. Tôi có cảm tượng cuộc đời văn sĩ của tôi bắt đầu từ đó. Tôi không biết tại sao nhưng nhất định là như vậy”. Càng lớn lên cậu Fitzgerald càng tỏ ra là một học sinh xuất sắc, thông minh, ngoan ngoãn. Cận có rất đông bạn bè và được mời đi hết dạ hội này đến dạ hội khác. Các cô bạn gái thích ngồi nghe cậu kể chuyện hàng ngày không chán. Những kỷ niệm đó, Fitzgerald không bao giờ quên, và ông dã dùng để xây dựng nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của ông sau này. Năm 17 tuổi, Fitzgerald theo học ở đại học Princeton và bắt đầu viết bài cho những đặc san của nhà trường. Ông say mê viết suốt đêm và nhiều khi đến sáng lại liệng tất cả vào sọt rác. Trong lớp, Fitzgerald thường mơ mộng và nhiều khi cậu chỉ nghe loáng thoáng được câu sau này vị giáo sư văn chương hay nhắc lại nhiều lần: “Mọi việc đều tùy theo quan điểm của mỗi người. Thưa quý vị, vấn đề nào cũng có phương diện chủ quan của nó”. Túc cầu và binh nghiệp Càng ngày những bài của cậu viết trong đặc san của nhà trường càng được nhiều người chú ý, và chẳng bao lâu cậu trở thành một cây viết chính trong ban biên tập. Tuy nhiên ngoài công việc làm báo, còn một môn khác mà cậu cũng say mê không kém, đó là môn túc cầu. Không có buổi chiều nào Fitzgerald vắng mặt trên sân cỏ. Nhưng điểm đặc biệt nhất là chàng có cái nhìn thật quyền rũ, và một cách cư xử với bạn bè rất lịch thiệp, cởi mở. Sau khi tốt nghiệp ở đại học Princeton, Fitzgerald gia nhập quân đội với cấp bậc Chuẩn úy. Năm 1918, đơn vị của ông đóng ở tiểu bang Alabama, và tại đây lần đầu tiên Fitzgerald đã gặp Zelda, một thiếu nữ mà chàng cảm thấy tình yêu chân thành của mình và của nàng cùng hòa chung một nhịp với nhau. Hai ngươi có gương mặt giống nhau và nhiều người lầm tưởng họ là hai anh em ruột. Nhưng sự giống nhau giữa hai khuôn mặt chưa bằng sự giống nhau giữa hai tâm hồn của chàng và nàng. Chẳng bao lâu mối tình của cặp Fitzgerald - Zelda đã được cả thành phố biết, và mọi người đều ước mong cho họ mãi mãi được hưởng hạnh phúc. Những ngày lang thang ở Nữu ƯớcChiến tranh Âu châu kết liễu, Fitzgerald được giải ngũ, chàng liền lên đường đi Nữu Ước để tìm cư hội lập nghiệp. Trước đó chàng đã bàn chuyện hôn nhân với Zelda, nhưng nàng trả lơi: chỉ cưới nhau khi nào chàng kiếm được công ăn việc làm. Tới Nữu Ước, chàng ôm khư khư những bản thảo đi khắp nhật báo này đến nhật báo khác mà vẫn không kiếm được công việc gì. Cuối cùng chàng đành phải nhận làm công việc viết các tấm bảng quảng cáo trong một hãng quảng cáo với số lương 90 dollars một tháng. Chàng phải sống chui rúc trong một căn nhà ổ chuột hôi hám ghê gớm. Thơ, truyện ngắn, kịch của chàng đem đến các báo và nhà xuất bản, chẳng có chỗ nào thèm đăng hay in. Fitzgerald đã nhận được tất cả 225 lá thư của các nhật báo và nhà xuất bản trả lời từ chối không đăng hoặc in các tác phẩm của chàng. Chàng dán tất cả những lá thư đó lên vách và nằm suy nghĩ tìm hiểu lý do của sự thất bại. Cuối càng một an ủi nhỏ đã đến với Fitzgerald: chàng bán được một truyện ngắn cho tờ “Smart Set” với số tiến ba mươi dollars. Chàng liền khởi viết cuốn chuyện dài “This Side of Paradise”. Sau một năm trời cặm cụi sáng tác suốt ngày đêm, cuốn sách được hoàn thành và chàng tràn đầy hy vọng, hăng hái gởi tác phẩm đến nhà xuất bản Scribners. Một tháng sau đó, chàng nhận đirạc điện tín của nhà xuất bản báo tin bằng lòng in cuốn truyện nói trên. Ngày đó chàng sung sướng đến ngây ngất. Zelda đem đến cho chàng một chai rượu mừng chiến thắng và nàng nhận lời làm lễ cưới với chàng. Ngày 26 tháng 3 cuốn “This Side of Paradise” bắt đầu xuất hiện trong các tiệm sách. Ngày 3 tháng 4, lễ cưới giữa Fitzgerald và Zelda diễn ra tại nhà thờ Saint Patrick ở Nữu Ước. Từ trong nhà thờ bước ra, chàng thấy tương lai mở rộng trước mặt và say sưa trong men chiến thắng. Chàng đã được cả tình lẫn tiền: Zelda đi bên cạnh và cuốn “This Side of Paradise” đã được in lại lần thứ hai. Báo chí nói đến một Thiên tài bí mật xuãt hiện. Các nhà phê bình ví chàng với Byron và Kipling (là hai đại văn hào Anh quốc). Báo chí còn thần thánh hóa mối tình của chàng với Zelda, và cái tên Fitzgerald được mọi người nhắc nhở để tượng trưng cho tiền tài, danh vọng, tình yêu và tuổi trẻ. Sẵn tiền chàng thường cùng với bạn bè giắt đầy đô la trong túi đi nhậu nhẹt say sưa tối ngày sáng đêm. Có khi họ vào rạp hát và cười lớn trong khi cả rạp đang yên lặng, hay ngồi trên mui xe tắc xi đi dạo phố và nhiều hành động lố bịch khác nữa, nhưng dư luận đã dễ dàng tha thứ cho chàng. Ở nhà thì lúc nào cũng đầy những bạn bè, nào nhà văn, nhà thơ, kịch gia, tài tử, nhà báo... Ngày vui chẳng được bao lâuVới lối sống phung phí tiền bạc như thế, chẳng bao lâu Fitzgerald không còn được một đồng xu dính túi, Tháng 3-1922 cuốn “The Beautiful and Damned” xuất hiện với sự hoan nghênh của dư luận, nhưng tiền bản quyển chàng đã lấy trước và tiêu sạch cả. Chẳng những thế chàng còn nợ thêm nhà xuất bản một số tiền lớn nữa, và phải tiếp tục viết để trừ nợ dần. Chàng làm việc đến 12 tiếng một ngày và uống rượu liên miên, nhiều khi người ta thấy chàng say nằm ngủ ngay ở bãi cỏ trong công viên. Tình trạng ăn ngả thất thường và làm việc quá độ đó khiến ông mắc phải bệnh phổi, bệnh đau dạ dày và chứng mất ngả. Năm 1924 Fitzgerald và Zelda sang Âu châu. Ông thuê một biệt thự xinh xắn ở Côte D’Azur và tiếp tục viết tác phẩm “Gatsby huy hoàng”. Năm 1925 tác phẩm hoàn thành và xuất hiện một cách thành công rực rỡ đối với dư luận, nhưng về phương diện tài chánh không làm cho ông thỏa mãn. Sách bán được 25.000 cuốn, chỉ vừa đủ để trừ nợ những số tiền ông đã nhận trước của nhà xuất bản. Năm 1927 ông trở về Hollywood viết truyện phim nhưng sau đó ông lại bỏ sang Âu châu và sống lang thang ở Thụy Sĩ, một xứ mà ông nhận xét là “nhiều cái đã hoàn thành nhưng ít cái được bắt đầu”. Trong thời này Zelda bắt đầu bị đau thần kinh. Năm 1929 ông phải đưa vợ về Mỹ để lo chạy chữa. Zelda tiều tụy đến nỗi không còn đủ sức lượm một trái banh ten-nít. Fitzgerald không bao giữ thốt một lời than vãn và tận lụy săn sóc vợ. Đầu hàng định mệnhBệnh tình của Zelda càng ngày càng trở nên nặng và chẳng bao lâu trở thành điên thực sự. Fitzgerald, sống trong cảnh khốn cùng, ông viết truyện ngắn kiếm ăn lần hồi. Sức lực mỗi ngày một thêm kiệt quệ. Nhiều đêm trường ông thức trắng đêm để viết. Cũng có khi thức đến sáng mà không viết được chữ nào! Năm 1934 ông hoàn thành cuốn “Đêm trường êm dịu” nhưng số bán không được nhiều như ông mong mõi. Càng ngày ông càng uống rượu nhiều và bị ám ảnh bởi nợ nần, bệnh tật, ông viết một tiểu luận nhan đề là “Sự rạn vỡ” phán tách tình trạng của ông. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của ông, tờ New York Post có viết một bài mô tả ông như là một người khốn khổ đáng thương nhất trên đời. Ông đọc xong bài báo quá thất vọng ông toan tự tử bằng morphine nhưng được cứu thoát. Hãng MGM lại mời ông viết truyện phim, ông đi Hollywood và gặp nữ ký giả Sheilah Graham. Hai người trở nên bạn thân, ông tâm sự: “Nhà văn mà không viết được nữa thì phải trở thành điên dại”. Ngày 20-4-1940 sau khi cùng với Graham đi coi hát về, ông đang ngồi ở ghế nói chuyện về cuốn tiểu thuyết mới tên là “The last Tycoon” mà ông đã hoàn thành được một nửa. Bỗng nhiên như có một sức mạnh vô hình lôi kéo, đầu ông bật ngửa về phía sau và im lặng không nói nữa. Graham vội vàng lay gọi, nhưng Fitzgerald đã tắt thở. Ngoài trời, một vì sao sáng cũng vừa đổi ngôi trong lúc thiên tài rời bỏ cuộc sống. Tháng Ba năm 1948 nhằm ngày 11, nhà thương điên ở Highland phát hỏa. Zelda cùng chín bệnh nhân khác ở tầng chót bị chết cháy. Người ta an táng Bà cạnh mộ Fitzgerald ở Rockville. Đó chính là nơi an sống ngàn thu của hai tâm hồn giai nhân và thi sĩ vậy. Saigon ngày 30 tháng 3 năm 1974 Tuyết Sinh Mời các bạn đón đọc Nhà Tài Phiệt Cuối Cùng của tác giả F. Scott Fitzgerald & Tuyết Sinh (dịch).
Nô Tì Isaura
Là con gái một nô tì da đen và một viên quản lý người Bồ Đào Nha, Isaura được nữ chủ nhân một điền trang ở Campos thuộc tỉnh Rio de Janeiro nuôi dạy như một tiểu thư con nhà giàu. Vào tuổi hai mươi, nhan sắc của nàng được mọi người chiêm ngưỡng: dung nhan như một nữ thần, mái tóc đen dài và rậm, dáng dấp như một nữ hoàng. Nhưng rồi nữ chủ nhân qua đời trong khi chưa kịp trả tự do cho cô gái, bỏ nàng lại làm một mồi ngon cho dục vọng của Leoncio, người chủ mới của điền trang. Bị ép uổng, hành hạ, Isaura phải trốn đi với cha, sau khi Leoncio không chịu để ông này chuộc con về. Ở Recife, số phận run rủi cho Isaura gặp Alvaro, một thanh niên giàu có có tư tưởng chống chế độ nô lệ. Một tình yêu mãnh liệt nảy nở giữa hai người. Nhưng Alvaro vì thiếu tỉnh táo đã đưa nàng đến dự một buổi dạ hội của giới thượng lưu, trong đó Isaura bị lộ tung tích. Nô tì Isaura (tiếng Bồ Đào Nha: A escrava Isaura, phát âm tiếng Việt như là A ét-cơ-ra-ba Y-xao-ra) là một cuốn tiểu thuyết khai thác đề tài giải phóng nô lệ da đen của nhà văn Bernardo Guimarães, xuất bản lần đầu năm 1875. Với cuốn tiểu thuyết này, Bernardo Guimarães đã giành được danh vọng tột đỉnh trong sự nghiệp sáng tác, thậm chí được chính hoàng đế Pedro II đánh giá rất cao. Trước khi trở thành bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập nổi tiếng vào bậc nhất trên thế giới, Nô tỳ Isaura vốn là một thiên tiểu thuyết rất lớn của văn học Brazil thế kỷ thứ XIX.Được viết vào năm 1875 do ngòi bút của Bernardo Guimarães (1825_1884), nhà thơ, nhà văn và giáo sư , cuốn tiểu thuyết này minh hoạ cho phong trào phản kháng mãnh liệt lên án và đòi bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ đang dấy lên rầm rộ trên khắp đất nước Brazil lúc bấy giờ ( chế độ này tồn tại đến năm 1888).Sự kiện trong truyện xảy ra vào khoảng thập kỷ 1830, dưới triều vua Pêdrô đệ nhị. Là con gái một nô tỳ lai da đen và một viên quản lý người Bồ Đào Nha, Isaura được nữ chủ nhân một điền trang ở Campos thuộc tỉnh Rio de Janeiro nuôi dạy như một tiểu thư con nhà giàu. Vào tuổi hai mươi, nhan sắc của nàng được mọi người chiêm ngưỡng:dung nhan như một nữ thần, mái tóc đen dài và rậm, dáng dấp như một nữ hoàng. Nhưng rồi nữ chủ nhân qua đời trong khi chưa kịp trả tự do cho cô gái, bỏ nàng lại làm một mồi ngon cho dục vọng của Leoncio, người chủ mới của điền trang.Bị ép uổng, hành hạ, Isaura phải trốn đi với cha, sau khi Leoncio không chịu để ông này chuộc con về. Ở Recife, số phận run rủi cho Isaura gặp Alvaro, một thanh niên giàu có có tư tưởng chống chế độ nô lệ. Một tình yêu mãnh liệt nẩy nở giữa hai người.Nhưng Alvaro vì thiếu tỉnh táo đã đưa nàng đến dự một buổi dạ hội của giới thượng lưu, trong đó Isaura bị lộ tung tích. Trong câu chuyện đầy những tình tiết bất ngờ này, đây chỉ là đoạn giữa chừng. Người đọc hồi hộp cầu mong cho cuộc tình duyên đầy gian truân của đôi bạn kêt thúc tốt lành... *** Vào những năm đầu của triều đại Don Perdro, trên dải đất Goitacases phì nhiêu và trù phú, có một điền trang tuyệt đẹp trải dọc con sông Paraiba, cách thị trấn Campos mấy dặm đường. Một tòa dinh thự nguy nga với những đường nét hài hòa mọc lên trên vùng đồng bằng canh tác, dưới chân mấy ngọn đồi phủ rừng đã có phần được những người tiều phu khai phá. Quanh vùng ấy, thiên nhiên hãy còn giữ nguyên vẻ hoang dã nguyên thủy, nhưng trong khu vực gần dinh thự bàn tay con người đã thuần phục cái thế giới thực vật quá phồn vinh để gầy dựng những khu vườn cây ăn quả, những bãi chăn súc vật tươi tốt và những vườn hoa cỏ xén phẳng phiu. Lác đác đó đây mới thấy những cây đại thụ - những cây xoài khổng lồ, những cây thông bá hương và những khóm chuối - hắt bóng lên cảnh vật như những di tích còn lại của sức sống mãnh liệt của rừng xưa. Họa hoằn lắm mới thấy một dãy tường, một hàng rào hay một quãng hào hố. Những cánh đồng cỏ và những khu trồng trọt lân cận được phân giới bằng những lũy tre khiến cho toàn cảnh nom như một khu công viên rộng mênh mông. Tòa nhà trông thẳng ra mấy ngọn đồi.Trước mặt nhà là dãy thềm bậc đá dẫn đến một khung cửa bám đầy những cây leo lúc nào cũng nở hoa. Phía sau tòa dinh thự là khu nhà phụ thuộc: những túp lều của nô lệ, những dãy chuồng bò và những kho chứa thóc và rơm rạ. Xa hơn nữa là những khu vườn hoa, vườn trồng cau và một khu vườn ăn quả rộng mênh mông chạy dài ra đến bờ sông. Ấy là một buổi chiều tháng mười quang đãng và yên tĩnh. Mặt trời như vẫn chần chừ không muốn lặn; nó cứ nổi lềnh bềnh cuối chân trời, treo lơ lửng trên những đám mây viền kim tuyến chốc chốc lại đổi màu. Một làn gió nhẹ và thơm khẽ lay động đám cây con và những tàu lá dừa soi mình trên nước sông trong vắt. Ánh tà dương đỏ rực chiếu thẳng vào các cửa kính trông như thể ở bên trong các phòng lửa đã tràn ngập khắp nơi. Cảnh vật chìm trong im lặng. Mấy con bò cái tơ nằm dưới bóng cây cao nhai cỏ chầm chậm, dáng hiền hòa. Đàn gà vịt tha thẩn đi nhặt thóc quanh nhà, mấy con cừu chốc chốc lại kêu lên vài tiếng “bê-ê-bê bê-ê-bê”, và mấy con thỏ thong thả về chuồng, thỉnh thoảng cất tiếng rống buồn bã. Tòa nhà dường như hoàn toàn hoang vắng. Chỉ có mấy cánh cửa lớn ở phía trước và mấy cánh cửa sổ ở phòng khách mở rộng là còn cho biết rằng trong nhà vẫn có người. Bỗng trong bóng hoàng hôn êm ả nổi lên những tiếng dương cầm thánh thót, rồi một giọng nữ du dương và tha thiết, tươi mát và trong trẻo lạ thường, cất tiếng hát. Giọng hát tuy có phần bị nén lại nhưng vẫn có một âm hưởng vang dội. Điệu hát buồn buồn, nghe như xa vắng khiến người ta nghĩ đến lời than thở của một tâm hồn bị giày vò đau đớn. Lời hát rằng: Từ thuở lọt lòng tôi đã thở Không khí đắng cay của kiếp nô lệ Như một mầm cây gieo xuống Một mảnh đất bị rủa nguyền Suốt đời tôi than khóc Thân phận kẻ tôi đòi. Hai cánh tay tôi bị kìm hãm Chẳng còn ôm ấp được ai Đôi môi và đôi mắt của tôi Nào có dám nói lấy một lời âu yếm Trời cho tôi một quả tim Chỉ để tôi đau khổ hơn nữa mà thôi. Trong gió đồng nội cất lên Hoa tỏa hương ngây ngất Chim chóc tự do ca ngợi Vẻ đẹp của rừng Riêng kẻ nô tỳ tội nghiệp Làm gì có được một lời ca! Hãy im đi, kẻ nô tỳ đáng thương Lời than của mi đầy tội lỗi Mi không có quyền Hát lên những niềm tủi cực Đời mi nào phải của mi Mà tim mi cũng không: hãy nhớ lấy. Mời các bạn đón đọc Nô Tì Isaura của tác giả Bernardo Guimarães.