Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm

Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sức Mạnh Của Tịnh Khẩu
SỨC MẠNH CỦA TỊNH KHẨU Tâm trí không thích sự tĩnh lặng bởi bản thân nó là không giới hạn, hay thay đổi và bất an. Nó luôn thích sự ồn ào bởi vì tâm trí luôn cần hoạt náo. Với bản ngã, yên lặng có nghĩa là gần với cái chết. Thế nhưng tĩnh lặng là một trạng thái tự nhiên của mọi vật. Âm thanh là sự náo động, nhiễu loạn. Từ “nhiễu” là từ tiếng La tinh “nausea” , nó có nghĩa là gây ra ốm đau. Sự nhiễu loạn của tư tưởng và phát âm làm tiêu hao khí lực của con người. Do đó tịnh khẩu là một biện pháp bảo vệ và phục hồi sức khoẻ bản thân và làm trẻ hoá cơ thể. Hơn thế, nếu bạn muốn chứng nghiệm về Đạo để đi vào cốt lõi bên trong của sự sống. Không có cách nào tốt hơn là im lặng. Như một vị thầy từ xưa đã nói “Tiết kiệm lời nói là trở về với tự nhiên”, và “Những người nói nhiều là những người hiểu ít”. Khi vị thầy không nói và “ nói mà không dùng lời” có nghĩa là đã đi đúng đường. Tôi rất lấy làm tâm đắc với Đạo Đức Kinh của Lão Tử và cuốn sức mạnh của sự im lặng của Stuart Wilde. Có 9 cách để tịnh khẩu: 1. Hiểu được giá trị của lời nói : Mỗi ngôn từ bạn phát ra đều là dạng khí, nó biểu trưng cho sức sống của bạn. Nếu bạn muốn có sức mạnh bạn cần phải bảo vệ khí của bạn bằng cách đặt một giá trị vào từng lời nói của bạn, không nên nói tràng giang đại hải và nói nhiều, nói thừa. Có nghĩa là bạn sẽ không tự nói nếu không cần thiết phải nói. Bạn phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc này. Bạn sẽ tìm ra được lời nói thích hợp và chính xác cho từng trường hợp giao tiếp. Bằng cách đó bạn sẽ biết phân giải năng lực khí của bạn ra. Lời nói của bạn sẽ có tiếng vang và trọng lượng như sấm. Hơn thế nếu bạn muốn lời nói có giá trị, bạn phải biết giữ gìn lời nói của bạn khi bạn nói. Có nghĩa là để nói sao cho bạn không bị lỡ lời, không phải xin lỗi người khác. Bạn đừng nói về mình sẽ làm gì ngoại trừ khi bạn đã chắc chắn thực hiện được nó. Cuối cùng, bạn đừng nói lời khoác lác khuếch trương. Nếu bạn hiểu giá trị ủa lời noi svậy thì bạn sẽ không than vãn, phàn nàn để làm gia tăng thêm sự tiêu cực của mình. Khi khó chịu bất mãn đừng than vãn kêu ca gì. 2. Hãy trở thành một tâm gương tự soi lại mình : Hãy lắng nghe sự phản chiếu, vũ trụ giống như một cái gương nó chấp nhận vô điều kiện mọi ý nghĩ lời nói cảm giác và hành động của bạn và sau đó phản chiếu một cách vô tình vào mọi sự kiện đời sống của bạn. Nếu bạn đồng hoá nó với thành công nó là thành công, nếu bạn định dạng nó với thất bại thì bạn thất bại. Như thế những sự kiện ngoài đời của bạn là biểu hiện nội dung chất ở bên trong nội tâm của bạn. Để hoà nhập vào vũ trụ đơn giản nhất, trước và sau khi nói hãy lắng nghe kỹ cũng như hãy trở thành cái gương phản chiếu lại toàn bộ lời nói của những người khác vào họ. Ví dụ ai đó nói bảo bạn là con chuột bạn có thể im lặng và nghĩ trong đầu “Có đúng vậy không?” . Hãy thực hành điều này và trở thành một tấm gương vô cảm nhận trước những lời nói đó. Bằng cách này. Tư tưởng bạn được bình lặng. Bởi vì lời nói không từ tư tưởng bạn phát ra, nó chỉ phản chiếu lời người kia. Nó từ người kia, bạn sẽ không bị mất khí. Qua đó bạn có thể giúp đỡ người kia quay về tự thảo luận với tư tưởng của chính họ. Họ sẽ cảm thấy họ đã lỡ lời. 3. Hãy trở nên mơ hồ, không khẳng định chắc chắn một điều gì :Đó là một phần của con người cùng với sự tĩnh lặng, đó là một phần của chân lý. Nếu bạn có một ý nghĩa nào đó đặt vào lời nói, bạn sẽ bị mất khí lực, nhưng nếu bạn ở trong trạng thái mơ hồ, bạn sẽ được điền đầy khí lực, bạn không nói gì và bạn càng tiến gần tới sự thật hơn là bạn nói điều gì. Vì Đạo là vô định hình nên bạn không thể nói một điều gì về nó cả. Bạn không thể nói về nó mà chỉ có thể cảm nhận nó. Khi bạn nói về một điều gì đó, bạn thực sự đang đi xa sự thật của nó – “Thật như giả, giả như thật”  4. Đừng biểu lộ, xác nhận, hoặc tự ca ngợi mình : Vì như thế là bạn sẽ mở banh cơ thể khí của bạn – Bạn đứng trên các đầu ngón chân và bạn sẽ bị đổ nhào mọi người sẽ trông chờ bạn thể hiện như bạn đã nói. Nếu bạn giữ im lặng trước mọi sự việc, bạn sẽ giữ cho bản thân tự do khỏi ý kiến của mọi người khác. Và bạn sẽ trở thành không định hình giống như Đạo. 5. Không đua tranh, hơn lời và tranh cãi : Nên để cho mình thấp hơn người khác. Khi bạn biết lắng nghe người khác như một dòng chảy hoà tan. Thánh nhân không bao giờ tranh lời. Đừng cố gắng diễn giải hiểu biết triết lý sống của mình cùng trình độ tâm linh và mọi chặng đường phát triển của nó. Nếu ai hỏi bạn vướng mắc gì đừng trả lời mà cố dẫn họ về sự phản chiếu lại chính bản thân họ, và để họ tự trả lời câu hỏi của họ. Câu trả lời tốt nhất là im lặng. Đừng thể hiện bạn biết nhiều, hãy thế hiện bạn biết ít, bạn không biết. Thay vì vô tranh hơn thua hãy để mình thấp dưới người khác, như mặt đất vậy. Khi bạn không nói, tư tưởng bạn được bình yên, nó sẽ tìm ra lối xử lý thích đáng với họ.Nếu phải nói, đừng xuất phát từ ý tưởng của mình. Đó là nói như không nói. 6. Đừng nhất trí tâm đắc với cái gì quá : Nếu bạn chưa thực chứng về nó, nếu bạn bị yêu cầu làm cái gì đó, hãy trả lời không, hoặc hãy nói “Hãy để tôi suy nghĩ trả lời sau”. Khi sự tĩnh lặng đã đi vào bạn, bạn sẽ tìm ra có nên nhận lời không. Từ đó người khác sẽ tin tưởng vào bạn. Do đó bạn điều khiển được mình. Nếu bạn phải cho ý kiến về vấn đề gì đó thì hãy nói “Tôi không biết chắc chắn”. Không biết là không dễ chịu cho bản ngã, bản ngã thích cho ý kiến về mọi thứ. Nhưng bản ngã thực sự lại không biết gì cả. 7. Đừng chỉ trích và phê phán : Đạo là không phê phán chỉ trích. Người có Đạo khong chỉ trích kẻ khác, họ có một sự từ bi vô lượng. Họ yên lặng chấp nhận mọi thứ, mọi người khác trong yên lặng và ủng hộ mọi người làm theo cái lý của họ. Đạo không cố gắng dẫn dắt và sửa chữa kẻ khác. Nó nhìn ra cái tốt trong cái xấu, cái thiên tính trong ma quỉ. Khi chỉ trích và bình luận kẻ khác, bạn không làm cái gì khác hơn là đưa ra ý kiến của bạn, nó làm tiêu phí năng lực, gây nhiễu cho bạn, con người bị mệt và ốm do chỉ trích và tranh luận. Chỉ trích và tranh luận là dấu hiệu của một cơ thể ốm yếu. Người lành mạnh có thể hoà hợp mọi sự mà không cần phê phán. Bất cứ điều gì bạn không bằng lòng về người khác đều là biểu hiện bất an tại bên trong của bạn. Hãy để cho họ như vậy thay vì chỉ trích. Hãy để họ giải quyết vấn đề riêng của họ, để giành năng lực cho sự sống của bạn. 8. Đừng giải thích thanh minh, bênh vực bản thân mình : Vì lúc đó bạn cung cấp sức sống cho người khác. Ai đó bảo bạn ích kỷ.Đừng thanh minh, thay vào đó đừng quan tâm tới lời nói của họ.Bạn hiểu bạn hơn họ. Trong sự yên lặng bạn sẽ mạnh mẽ hơn nhiều khi họ nói xấu bạn. Khi bạn không tranh cãi với họ, họ sẽ dịu đi vì họ thấy bạn không chống đối họ, người ta sẽ thấy bạn không có tâm tranh đấu, họ sẽ tin bạn hơn vì họ biết bạn chấp nhận họ. 9. Hãy nói vắn tắt, nhanh gọn : Một tuần nên tịnh khẩu một ngày, khi cần nói thật nhanh, nói nhanh là thuộc về bản ngã. Đây là một bài thực hành để đi vào Đạo thay cho việc diễn giải điều vô hạn. Cá tính và tài năng: Khi tịnh khẩu, cá tính và tài năng của bạn sẽ bộclộ thay thế cho con người giả tạo của bạn. Bạn phát triển trong sự im lặng, trong sức lực của vô định. Với năng lực này bạn sẽ có thể điều chỉnh bản thân mình tới những điều tốt đẹp và thuận lợi.Nhưng bạn phải chú ý tới bản ngã của mình. Sức mạnh chỉ đến khi bản ngF im lặng. Khi bản ngã dính vào và bạn lạm dụng sức mạnh thì đã có chất độc tư tưởng, càng ở cao thì càng ngã đau.Hãy tịnh khẩu, phục hồi lại sinh lực, đáp ứng với mọi người. Đừng đánh giá họ cao thấp và chỉ trích họ. Hãy để cho mọi việc mọi người như vậy. Đó là Đạo – Con đường của tự nhiên. Nhóm biên dịch Diệu Minh. Theo Macrobiotic Today  -------------------- ________Ngọc Trâm_________     Chúng tôi mới tổ chức thành công một khoá tu tích cực trong đó gần như hoàn toàn tịnh khẩu đây cũng là một yếu tố chính của sự thành công. Hôm qua tôi sang quán thực hành tĩnh tu và ở một mình từ tối thứ 7, sáng thứ 2 mới về nhà làm việc rất hiệu quả với đầy năng lượng. Những âm thanh được phát ra từ mồm của tôi trong khi ở quán là việc tụng đọc kinh Phật. Một ngày lợi ích vô biên. Tịnh khẩu muôn năm! -------------------- ________Ngọc Trâm_________     Muốn thực hiện được bất cứ thứ gì trên đời thì cần và rất cần qui y Tam bảo để tâm có chỗ nương nhờ mới trở nên dễ dàng vững mạnh, và phải có ý chí, cần niệm Phật cho có nhiều năng lượng lành mạnh, những lúc nguy khốn chị thường niệm Phật rất chi là hiệu quả tức khắc, ví dụ thiền định cũng cần ý chí và nỗ lực, để cho ý chí mạnh muốn là được.... thứ nữa là nói nhiều không phải là xấu chỉ có tốn hơi của mình và mình bỗng xẹp xuống như quả bóng sau khi nói tràng giang đại hải như em, chị cũng mắc bệnh nói nhiều là do nghiệp lực nữa đấy, chị xem chỗ này mà kinh quá vì thấy điều đó còn được nói trong cả tử vi của mình nữa... Nếu thầy giáo cũng tịnh khẩu nữa thì làm gì có học sinh... lời nói có ích thì nói nhiều cũng vẫn lợi mình lợi người. Em đã bao giờ nghe nói Pháp chưa? nói xong thì cả hai người nghe và người nói đều đầy ắp năng lượng, chuyện lạ có thật đấy. Nhà Phật có bát chánh đạo: chánh ngữ là như vậy. Chứ không có bảo mình phải im lặng tịnh khẩu, vì mình hay nói lời vô ích phá tán năng lượng (như kiểu của chị, hi) thì tịnh khẩu mới đầy giá trị...  Vào đây để xem xét điều mà người Tây Tạng kết luận được trong đó có cả phần "nói nhiều" -------------------- ________Ngọc Trâm_________ Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Tịnh Khẩu của tác giả Georges Ohsawa.
Cách Suy Nghĩ Của Người Giàu
Cuốn sách này không nói về tiền mà nói về cách tư duy. Mỗi chương là một bài học mà tôi đúc kết được trong suốt 26 năm phỏng vấn những người giàu nhất thế giới. Trong đó tôi đưa ra so sánh về cách tư duy của giới trung lưu và người giàu. Mục đích của việc so sánh là để chỉ ra sự khác biệt khá rõ giữa họ. Tôi bắt đầu hành trình phỏng vấn từ năm 1984, khi còn là sinh viên không một xu dính túi, để đi tìm câu trả lời về thành công mà tôi không thể tìm thấy ở trường lớp. Những khám phá đã thay đổi cuộc đời tôi và tôi viết sách này với mong muốn mang đến cho bạn cơ hội như thế. Nếu bạn làm theo niềm tin, triết lý và chiến lược của người giàu thì đó là con đường đúng đắn giúp bạn trở thành triệu phú. Bí mật không nằm trong cơ chế của tiền, mà nằm trong cách tư duy giúp kiếm ra tiền. Một khi nắm được cách tư duy thì bạn sẽ có khả năng kiếm tiền vô tận. Nếu bạn nghĩ rằng “không phải người giàu nào cũng tin hay làm như vậy” thì cũng đúng. Tôi đã dựa vào những gì mà phần lớn người giàu chia sẻ để đưa ra các so sánh này. Sở dĩ tôi phỏng vấn họ bởi tôi cũng muốn được giàu như họ. Và tôi đã phát hiện ra rằng: để trở nên giàu có tôi phải học cách suy nghĩ như người giàu. Suốt 25 năm đầu đời tôi tư duy về đồng tiền như bao người khác và tôi túng quẫn. Khi tôi thay đổi tư duy thì tiền bắt đầu chảy ào ạt vào túi. Việc thay đổi tư duy về tiền khiến tôi có những hành động thiết thực và kết quả là tôi trở thành triệu phú. Đừng quá choáng ngợp hay hoảng sợ trước thành công của tôi cũng như của người khác bởi bạn hoàn toàn có thể làm được như thế. Hãy dùng cuốn sách này như là kim chỉ nam. Chúc bạn may mắn trên hành trình của mình. Steve Siebold *** 1 Giới trung lưu tập trung tiết kiệm… Người giàu tập trung kiếm tiền   Sợ mất mát và không chắc chắn về tương lai nên đa số người đều tập trung vào việc tiết kiệm tiền. Những người có tư duy lớn hiểu rõ tầm quan trọng của việc tiết kiệm và đầu tư nên họ tập trung vào việc làm giàu thông qua phục vụ mọi người và giải quyết các vấn đề. Khi kinh tế chao đảo thì giới trung lưu lo sợ bị mất tiền, và sẽ phải mất nhiều năm mới có thể phục hồi được. Trong khi đó, những người có tư duy lớn dù cũng ở trong tình trạng tương tự nhưng họ lập tức hướng sự chú ý đến các cơ hội tài chính mối mẻ. Trong khi số đông bán đi để đổi lấy sự tồn tại ngắn hạn thì những triệu phú lại mua về để đổi lấy thành công lâu dài. Một bên xuất phát từ sự sợ hãi còn một bên xuất phát từ sự dồi dào. Những người tự thân làm giàu sẵn sàng nắm lấy rủi ro được dự báo trước bởi họ biết nếu có mất thì họ vẫn có thể lấy lại được. Trong khi giới trung lưu làm giàu bằng cách tìm kiếm cơ hội đầu tư thu hồi vốn nhanh, thì những người giàu lại đầu tư một cách thông minh, biết rằng một núi tiền sẽ rơi vào túi họ từ dịch vụ mà họ cung cấp. Hầu hết mọi người đều quan tâm đến phần lợi nhuận thu được từ khoản tiết kiệm và đầu tư thay vì dùng số tiền đó để tạo ra một gia tài. Số đông quá tập trung vào việc cắt phiếu trúng thưởng và sống cuộc sống đạm bạc nên họ bỏ lỡ những cơ hội lớn. Thậm chí ngay trong thời kì khủng hoảng kinh tế, người giàu cũng không đồng tình với ý tưởng chi tiêu dè xẻn của phần đông mọi người. Họ là những bậc thầy trong việc hướng năng lượng của mình vào đúng chỗ: nơi có nhiều tiền. Còn bạn thì sao? Bạn tập trung vào việc tiết kiệm từng đồng hay xây dựng một đế chế? Tình hình tài chính của bạn hiện nay sẽ phản ánh rõ nét tư duy trước đây của bạn. Nếu bạn giàu thì hãy tiếp tục duy trì tư duy ấy. Nếu không thì đã đến lúc phải thay đổi rồi đấy. “Tiền là sức mạnh mà bạn nên khao khát được sở hữu”. – Russell Conwell   NGUỒN SÁCH LÀM GIÀU: The Rich: A New Study of the Species (Người giàu: Nghiên cứu mới của loài người) của William Davis. CÂU HỎI TƯ DUY PHẢN BIỆN: Dựa vào hành vi và thành quả của bạn trong quá khứ, bạn là người có tư duy vĩ đại hay tư duy tầm thường? HÀNH ĐỘNG: Quyết tâm suy nghĩ lớn lao hơn và tối đa hoá tiềm năng kiếm tiền của bản thân ngay hôm nay.   Mời các bạn đón đọc Cách Suy Nghĩ Của Người Giàu của tác giả Steve Siebold.
Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Để Khám Phá Tính Sáng Tạo Và Giải Quyết Vấn Đề
Với những kỹ thuật cho phép suy nghĩ bằng cả bộ não của Ứng dụng bản đồ tư duy, bạn có thể phá vỡ mọi chướng ngại cản trở suy nghĩ tự do để khám phá thế giới vô tận của giải pháp và ý tưởng. Ứng dụng bản đồ tư duy chỉ cho bạn cách: – Giải quyết vấn đề một cách sáng tạo; – Đưa ra những quyết định đúng đắn; – Đổi mới tư duy và động não; – Cải thiện trí nhớ và sự tập trung; – Hoàn thiện các kỹ năng tổ chức. Những kỹ thuật tuyệt vời này sẽ là khởi nguồn của một chuỗi ý tưởng mới; đến lượt mình, chuỗi ý tưởng này lại khơi dậy những ý tưởng khác, mới mẻ hơn, sáng tạo hơn; và cứ như vậy… Sự kỳ diệu của Ứng dụng bản đồ tư duy là vô hạn. Cụ thể, thiết thực, dễ hiểu, dễ áp dụng và mang lại hiệu qủa tức thì, cuốn sách là một công cụ đầy sức mạnh giúp chúng ta phát huy tối đa khả năng sáng tạo để đạt tới đỉnh thành công trong mọi khía cạnh của cuộc sống. *** Lời nói đầu Khả năng của bộ não vĩ đại tới mức nào và bạn sử dụng được bao nhiêu phần trăm? Vào những năm 1950, các nhà tâm lý học ước tính một người trung bình sử dụng được 50% khả năng của bộ não. Đến thập niên 60-70, con số này hạ xuống còn 10%. Đến thập niên 80 chỉ còn 1%. Giờ đây, vào những năm 1990, nó chỉ còn không quá 0,01%. Tuy nhiên những con số này không chứng tỏ trí tuệ nhân loại ngày càng đi xuống mà cho thấy khả năng đo lường sức mạnh tiềm ẩn to lớn của bộ não con người ngày càng tăng. Giáo sư Pyotor Anokhin, một trong những nhà nghiên cứu não bộ hàng đầu thế giới, đã công bố ước tính khoa học về số mẫu tư duy mà một bộ não trung bình của con người có thể sử dụng. Con số mà ông nhấn mạnh là vừa phải ấy còn lớn hơn rất nhiều so với số nguyên tử trên toàn vũ trụ. Trong cuốn sách này, Joyce Wycoff sẽ hướng dẫn bạn suốt hành trình khám phá khả năng của bộ não đầy kỳ thú. Tất nhiên, hiểu biết về khả năng tiềm ẩn của chúng ta có thể đem lại cảm hứng và động lực, nhưng như vậy chưa đủ; chúng ta cần có hướng dẫn thực tiễn để tiếp cận với những khả năng còn chưa được khai thác của mình. Ứng dụng bản đồ tư duy cung cấp những gợi mở thiết thực và có thể áp dụng tức thì khi lập bản đồ tư duy – một hệ thống sức mạnh vô cùng hiệu quả nhằm khai thác tối đa khả năng của bộ não. Bản đồ tư duy được Tony Buzan phát triển vào đầu những năm 1970 như một công cụ giúp con người ghi nhớ hiệu quả. Khi áp dụng công cụ này, ông nhận ra nó không chỉ giúp ghi nhớ hiệu quả mà còn giúp tăng cường kỹ năng tư duy cho sinh viên của mình. Giá trị của bản đồ tư duy thể hiện rõ nét nhất khi đối chiếu với kỹ thuật truyền thống mà đa số chúng ta sử dụng để lấy ý tưởng và ghi nhớ: lập dàn ý. Tuy nhiên, việc lập dàn ý đòi hỏi chúng ta phải sắp xếp các ý tưởng trước khi chúng hình thành, và do đó làm giảm tốc độ và phạm vi của các ý tưởng. Bộ não của chúng ta sở hữu khả năng nảy sinh ý tưởng vô hạn. Nó hoạt động tốt nhất khi các ý tưởng được tự do tuôn trào trước khi phải sắp xếp lại. Có vô số hệ thống ghi nhớ được phát minh để giúp bộ não tự do nảy sinh các ý tưởng nhưng phương pháp lập bản đồ tư duy vượt xa tất cả. Phương pháp này là phương tiện khuyến khích dòng tư duy tự nhiên bằng cách tạo ra một “vòng phản hồi tích cực” giữa bộ não và các ghi chú. Hãy nhớ lại cuốn sách bạn mới đọc gần đây và tưởng tượng bạn phải viết bài thu hoạch về nó. Khi bắt đầu nhớ lại các ý, bạn có thể không hình dung lại được dàn ý chính thức của cuốn sách. Thay vào đó, bạn sẽ thấy các từ khóa, các mối liên tưởng, hình ảnh và tranh vẽ tự nhiên “nổi lên trong ý thức”. Để viết bài thu hoạch, bạn sẽ phải sắp xếp lại các dòng liên tưởng đó. Không chỉ gia tăng các liên tưởng tự do, lập bản đồ tư duy còn đem lại một phương pháp sáng tạo toàn diện để tổ chức các ý tưởng. Rất nhiều sinh viên của chúng tôi nói việc lập bản đồ tư duy diễn ra rất tự nhiên và họ đã xây dựng được hệ thống ghi nhớ của riêng mình bao gồm các hình ảnh, màu sắc và các từ khóa gần giống như bản đồ tư duy. Trực giác phát triển giúp họ khám phá những khía cạnh linh hoạt và chính xác mới của tư duy. Từ năm 1975 tôi đã kết hợp chặt chẽ với Buzan để phát triển bản đồ tư duy thành một công cụ đào tạo tư duy hiệu quả. Vào cuối những năm 1970, chúng tôi xác định viễn cảnh như sau: đến năm 2000 sẽ có 100 triệu người thường xuyên sử dụng bản đồ tư duy, phương pháp lập bản đồ tư duy được giảng dạy ở các trường học và trở thành phương pháp tối ưu khi làm việc tập thể. Việc hiện thực hóa viễn cảnh này đòi hỏi mỗi cá nhân phải dạy, diễn đạt và quảng bá sức mạnh của bản đồ tư duy theo nhiều cách khác nhau. Cuốn sách của Joyce Wycoff là đóng góp quý báu cho việc hiện thực hóa viễn cảnh nói trên. Chị đã viết cuốn sách nhằm phổ biến phương pháp lập bản đồ tư duy, chứng minh tính ứng dụng thực tiễn của nó trong cuộc sống. Gần đây, bản đồ tư duy trở thành “chủ đề nóng” thu hút sự quan tâm của nhiều người. Nhưng nhiều người phản ứng rất hời hợt và thực dụng đối với vấn đề này. Hiệu quả của bản đồ tư duy thường bị hiểu sai do kỹ thuật này đơn giản đến mức người ta có thể dễ dàng bỏ qua ý nghĩa sâu xa của nó. Sự linh hoạt và thiện chí mà Joyce Wycoff thể hiện đã khiến cuốn sách khác biệt so với bất cứ tác phẩm nào cùng đề tài. Điều đặc biệt là Joyce đã áp dụng kỹ năng tư duy ngay trong cuốn sách này. Khi bạn đọc những trang tiếp theo và làm theo chúng, bạn sẽ tiếp cận càng gần với trí tuệ tuyệt vời của chính mình. Michael J. Gelb Nhà sáng lập và Chủ tịch tổ chức High Performance Learning Washington, DC, Hè 1990 Mùa hè 1990 *** Lời giới thiệu Tã giấy cho chuột và Cầu vồng “Tã giấy cho chuột” “... những chiếc tã giấy bé tí xíu.” “Mười hai chiếc một hộp ...” “được gấp lại và rắc phấn thơm ...” “... giao hàng tại nhà theo yêu cầu.” “Đó sẽ là điều vĩ đại nhất.” “Chúng ta sẽ giàu có!” Những tiếng cười khúc khích và ha hả xen lẫn giọng của vài người nêu ra ý tưởng và nhận xét cùng một lúc. Những người này là ai và tại sao họ lại nói về tã giấy cho chuột? Một bữa tiệc vui vẻ của thanh niên? Hay trò chơi nhìn tranh đoán chữ? Không, nhóm người này thực ra là đội phát triển sản phẩm mới tại một chi nhánh của hãng Hewlett-Packard (HP)... đang trong giai đoạn lập bản đồ tư duy. Tã giấy cho chuột là sản phẩm mới của HP chăng? Không, nhưng bản đồ tư duy đang giúp họ phát triển sản phẩm mới. Vậy bản đồ tư duy là gì? Và nó có liên quan gì với việc phát triển sản phẩm mới? Tôi mừng vì các bạn đặt ra câu hỏi đó. Cầu vồng trí tuệ làm bừng sáng bầu trời cuộc đời chúng ta với các sắc màu, sự duyên dáng và đối lập với những đám mây đen. Cầu vồng trí tuệ từ đâu mà có? – những sắc màu rực rỡ, duyên dáng và vẻ đẹp tỏa sáng cuộc đời của chúng ta ư? Bộ não đã được phân tích và lập lại bản đồ, phân chia và khảo sát, nhuộm màu và chụp ảnh. Kiến thức về vô số các liên kết điện và các phản ứng hóa học ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, những tương tác độc nhất vô nhị tạo nên trí tuệ của chúng ta vẫn còn là điều bí ẩn. Mặc dù chúng ta đã hiểu hơn về quá trình tạo ra “cầu vồng” ... sáng tạo... thì bộ não vẫn phức tạp đến nỗi con người khó lòng nắm bắt toàn bộ cách thức hoạt động của nó. Bộ não là món quà kỳ diệu của tự nhiên – toàn bộ vũ trụ của chúng ta được tạo ra trong vỏn vẹn 1.4 kg vật chất có nếp nhăn này – mọi thứ chúng ta nghe và thấy, nếm và sờ, mọi cảm xúc, chuyển động, suy nghĩ và cảm hứng của chúng ta có được đều là nhờ bộ não. Thách thức mới cần giải pháp mới. Thế giới thay đổi nhanh chóng đến mức chúng ta có cảm giác mình liên tục ở trên một vùng đất lạ. Nó luôn đòi hỏi những giải pháp mới cho những thách thức mới. Công cụ cơ bản của chúng ta trên vùng đất mới này chính là trí tuệ... trí tưởng tượng và óc sáng tạo. Chính trí tưởng tượng và óc sáng tạo sẽ mở cánh cửa dẫn đến sự phát triển, những sản phẩm và dịch vụ mới, thị trường thế giới, phương pháp giao tiếp mới, cách thức bảo vệ môi trường và tài nguyên. Chính trí tưởng tượng và óc sáng tạo sẽ mang đến cho chúng ta nhiều vẻ đẹp, âm nhạc, trường học tốt, việc làm, nhà cho người vô gia cư, và chấm dứt đói nghèo, chiến tranh. Trong cuộc tìm kiếm những hiểu biết về trí tuệ, chúng ta cần những công cụ chưa có trong chương trình học hay trong kinh nghiệm, những công cụ dùng để khai phá vùng đất mới của trí tuệ con người. Bản đồ tư duy chính là một trong những công cụ đó. Đó là kỹ thuật phát triển một phương pháp sáng tạo và mới mẻ trong tư duy. Bản đồ tư duy: công cụ kỳ diệu Bản đồ tư duy có một tác động kỳ diệu; nó tác động tới toàn bộ não, cho phép tổ chức các ý tưởng trong ít phút, thúc đẩy sự sáng tạo, phá vỡ trở ngại mà người viết gặp phải và cung cấp một cơ chế động não hiệu quả. Bản đồ tư duy dễ học và dễ sử dụng. Đến cuối Chương 3, bạn sẽ biết đầy đủ về cách lập bản đồ tư duy để ngay lập tức cải thiện khả năng viết của mình, củng cố kỹ năng tổ chức ý tưởng và sử dụng thời gian hiệu quả hơn. Phần còn lại của cuốn sách sẽ chỉ cho bạn thêm một vài cách sử dụng bản đồ tư duy khác. Sách bài tập tự khám phá Đây là một cuốn sách bài tập – không phải là sách giáo khoa. Mỗi ứng dụng của kỹ thuật lập bản đồ tư duy lại có kèm theo một số bài tập. Chúng sẽ hé lộ những khả năng của bạn, mà trước đây bạn chưa từng biết tới. Đó cũng chính là mục đích của cuốn sách: giúp bạn khám phá những điều mới lạ về bản thân thông qua bản đồ tư duy. Chỉ khi nào khám phá ra mình thật sự là ai thì chúng ta mới có thể giải phóng hoàn toàn tiềm năng và tính sáng tạo của bản thân. Bạn nên sử dụng cuốn sách này cùng với kỹ thuật lập bản đồ tư duy trên hành trình khám phá bản thân. Nó sẽ giúp bạn đánh giá đúng khả năng tư duy của mình. Khi bạn bắt đầu sử dụng phương pháp kỳ diệu này, tiền đồ sẽ rộng mở và bạn sẽ trở thành một nhà tư tưởng vĩ đại. Cuốn sách này gồm ba phần: Phần 1 — Hiểu biết về bộ não và sự sáng tạo Bản đồ tư duy dựa trên những nghiên cứu và nguyên tắc về não/trí tuệ. Phần này giải thích hoạt động của bộ não, cách thức hoạt động sáng tạo và cách thức tổ chức các nguyên tắc thành quá trình xử lý thông tin hiệu quả của bản đồ tư duy. Phần 2 – Hai kỹ năng lập bản đồ tư duy Bản đồ tư duy là một kỹ thuật đơn giản nhưng mỗi yếu tố của nó đều rất quan trọng. Phần thứ hai giải thích các yếu tố từ cơ bản đến phức tạp của bản đồ tư duy. Phần 3 – Các ứng dụng của bản đồ tư duy Bản đồ tư duy là một kỹ thuật cực kỳ đa năng và hiệu quả. Phần thứ ba này cho bạn thấy những ứng dụng của bản đồ tư duy và có thể thúc đẩy nhiều cách sử dụng bản đồ tư duy mới. Chào mừng bạn đến với bản đồ tư duy và tiếp cận một phương pháp tìm hiểu thế giới hoàn toàn khác! Biết đâu bạn sẽ thấy việc khám phá tã giấy của chuột cũng rất hay. Mời các bạn đón đọc Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Để Khám Phá Tính Sáng Tạo Và Giải Quyết Vấn Đề của tác giả Tony Buzan.
Sức Mạnh Của Trí Tuệ Xã Hội
Những gì Tony Buzan đóng góp cho bộ não con người sánh ngang với những gì Stephen Hawking làm cho Vũ trụ.” – Tạp chí Times. IQ cao và thân thể vạm vỡ chưa phải là tất cả Khi còn là một cậu thiếu niên, tôi nghĩ rằng để được yêu thích, tôi cần phải “khôn khéo” và có thân hình vạm vỡ. Tôi tích cực tham dự các sự kiện xã hội (như tiệc tùng, họp mặt…) để phô trương chỉ số thông minh (IQ, Intelligence Quotient) của mình, phân tích lỗi lầm của người khác, tham gia các cuộc thảo luận chỉ để chứng minh tôi đúng còn “đối thủ” của tôi thì sai, và khoe khoang cơ thể vạm vỡ (nhưng kém linh hoạt!). Nghe người khác bảo IQ cao và thân hình vạm vỡ là con đường dẫn đến thành công, tôi choáng váng khi nhẩm đếm lại số lượng “kẻ thù” mà tôi vô tình tạo ra do bộ dạng “thông minh” mà thiếu hẳn tình bạn chân thành của mình. Rồi bố tôi đã giúp tôi nhận ra rằng chiến thắng trong các cuộc tranh luận không thể là con đường dẫn đến thành công về mặt xã hội. Có lần tôi đã chiến thắng trong một cuộc đấu khẩu, nhưng đồng thời cũng thất bại trong việc cứu vãn tình bạn. Tôi bắt đầu quan sát những người thành công hơn hẳn tôi về mặt xã hội. Tôi nhận thấy họđang làm nhiều điều hoàn toàn trái ngược với tôi khi đó. Những người được yêu mến nhất (và hạnh phúc nhất!) trông luôn tươi tắn, vui vẻ và khéo nói đùa, chọc cười người khác (Tôi “không thể” làm được như vậy!). Tính tình họ thoải mái, cởi mở, tự tin biểu đạt cảm xúc, hào hiệp và thường tránh tranh cãi. Đối với tâm hồn thiếu niên nhạy cảm của tôi khi đó, không gì khổ sở hơn khi thấy họ lúc nào cũng thoải mái, tự tin và thành công trong chuyện yêu đương hơn tôi! Như vậy IQ và cơ bắp không phải là những điểm mạnh duy nhất tôi cần phát triển nếu muốn thành công về mặt xã hội. Tôi còn phải trau dồi thêm những kỹ năng vô cùng quan trọng khác để có thể thấu hiểu và tương tác hiệu quả với mọi người. Quyển sách này sẽ đưa bạn thoát khỏi những rắc rối như tôi từng trải qua, đồng thời nhanh chóng mang đến cho bạn phần thưởng vô giá – cuộc sống yên vui, sức khỏe, của cải… – khi làm chủ loại hình trí tuệ tuyệt vời này. Không chỉ riêng bạn, mà những người xung quanh đều được lợi. Trí tuệ Xã hội giúp cuộc sống vận hành tốt hơn -  Cứ nghĩ đến việc bước vào một bữa tiệc với toàn người lạ là bạn lại cảm thấy kinh hãi? -  Cứ nghĩ đến việc bắt chuyện với gia đình nhà vợ/chồng tương lai là bạn cứ như “gà mắc tóc”? -  Khi được giới thiệu với một nhóm người mới, có bao giờ bạn quên ngay tên của họ và lắp bắp không “moi” ra được điều gì để nói? -  Bạn muốn tạo ấn tượng tốt trong buổi phỏng vấn tìm việc nhưng lại cảm thấy căng thẳng đến nỗi không thể thốt nên lời? -  Bạn ao ước mình có thể trò chuyện vui vẻ với mọi người và dễ kết bạn? Nếu rơi vào bất kỳ tình huống nào nêu trên hoặc nếu Trí tuệ Xã hội của bạn còn thấp, quyển sách này đặc biệt dành riêng cho bạn. Trí tuệ Xã hội là gì? Trí thông minh này là khả năng giao tiếp một cách hòa hợp với mọi người xung quanh. Con người vốn là một loài có tính quần thể, nên khả năng tương giao là điều mang ý nghĩa sống còn để chúng ta có thể sống chan hòa, hạnh phúc trong mọi tập thể, cộng đồng. Nhà quản lý cần có Trí tuệ Xã hội để điều hành công việc hiệu quả hơn. Thật ra, nhân viên bán hàng, nhân viên lễ tân, giáo viên, bác sĩ, nhân viên xã hội... bất kỳ ai đảm đương công việc tiếp xúc với con người thì đều cần đến Trí tuệ Xã hội! Loại hình trí thông minh vô cùng quan trọng này còn có thể giúp bạn chèo lái cuộc sống của mình vượt qua những “ghềnh thác” đầy hung hãn – đó là những xung đột, những sai lầm và hạn chế. Những người mạnh về Trí tuệ Xã hội có khả năng vận dụng toàn bộ sức mạnh của trí não và ngôn ngữ cơ thể mình để giao tiếp và hiểu ngôn ngữ cơ thể người khác. Họ biết cách xây dựng và duy trì tình bạn. Đồng thời họ luôn có thái độ khích lệ người khác tiến bộ, sáng tạo hơn, cởi mở giao tiếp và sống thân ái với mọi người. Kim chỉ nam cho thành công --- Sức Mạnh Của Trí Tuệ Xã Hội được chia thành 10 chương tiếp nối nhau để giúp bạn nhanh chóng nâng cao Trí tuệ Xã hội của mình trong quá trình đọc sách. Chương 1: Trí tuệ Xã hội là gì & Tầm quan trọng của Trí tuệ Xã hội? Chương 2: Khám phá và làm chủ Ngôn ngữ Cơ thể Chương 3: Nghệ thuật lắng nghe Chương 4: Nghệ thuật xây dựng mối quan hệ Chương 5: Tỏa sáng giữa đám đông Chương 6: Thái độ sẽ quyết định tất cả! Chương 7: Thương lượng – Nghệ thuật Đắc nhân tâm Chương 8: Phong thái xã hội Chương 9: Kim chỉ nam cho sự thành công xã hội Chương 10: Sức mạnh của 10 loại hình trí thông minh Người có Trí tuệ Xã hội luôn dễ chịu với tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp, tuổi tác, văn hóa, địa vị, và quan trọng hơn hết là có khả năng làm cho mọi người cảm thấy thoải mái, dễ chịu khi tiếp xúc với mình. Làm chủ tất cả những kỹ năng này, người có Trí tuệ Xã hội sẽ trở thành bậc thầy về giao tiếp và lắng nghe, có khả năng kết nối với cả thế giới rộng lớn. *** Trí tuệ xã hội là gì & Tầm quan trọng của trí tuệ xã hội? ■Cứ nghĩ đến việc bước vào một bữa tiệc với toàn người lạ là bạn lại cảm thấy kinh hãi? ■Cứ nghĩ đến việc bắt chuyện với gia đình nhà vợ/chồng tương lai là bạn cứ như “gà mắc tóc”? ■Khi được giới thiệu với một nhóm người mới, có bao giờ bạn quên ngay tên của họ và lắp bắp không “moi” ra được điều gì để nói? ■Bạn muốn tạo ấn tượng tốt trong buổi phỏng vấn tìm việc nhưng lại cảm thấy căng thẳng đến nỗi không thể thốt nên lời? ■Bạn ao ước mình có thể trò chuyện vui vẻ với mọi người và dễ kết bạn? Nếu rơi vào bất kỳ tình huống nào nêu trên hoặc nếu Trí tuệ Xã hội của bạn còn thấp, quyển sách này đặc biệt dành riêng cho bạn. Trí tuệ Xã hội đơn giản là khả năng giao tiếp một cách hòa hợp với mọi người xung quanh. Suy cho cùng, con người cũng chỉ là một loài có tính quần thể, thế nên khả năng tương giao là điều mang ý nghĩa sống còn để chúng ta có thể sống chan hòa, hạnh phúc trong tập thể. Định nghĩa Trí tuệ Xã hội Thành thực mà nói, hầu như ai trong chúng ta cũng sẽ thừa nhận rằng nhờ có những kỹ năng xã hội mà chúng ta mới có thể nhanh chóng tạo được hình ảnh lịch thiệp trong mắt người khác. Và để nâng cao Trí tuệ Xã hội, ta cần trau dồi thêm rất nhiều kỹ năng như thế. Đầu tiên, bạn cần có khả năng tương giao với từng người, nhóm nhỏ, rồi nhóm lớn và sau đó là nhóm lớn hơn nữa. Đây là sự giao tiếp từ não bộ đến não bộ. Bộ não con người là cơ quan phức tạp nhất, tinh vi nhất và ẩn chứa nhiều sức mạnh nhất trong Vũ trụ. Tương giao với bản thân đã là một nhiệm vụ khó khăn, thế nên việc cùng lúc tương giao thành công với nhiều người (những bộ não khác) chính là biểu hiện của thiên tài! Những người mạnh về Trí tuệ Xã hội có khả năng vận dụng toàn bộ sức mạnh của trí não và ngôn ngữ cơ thể mình để giao tiếp và hiểu ngôn ngữ cơ thể người khác. Họ biết cách xây dựng và duy trì tình bạn. Đồng thời họ luôn có thái độ khích lệ người khác tiến bộ, sáng tạo hơn, cởi mở giao tiếp và sống thân ái với mọi người. Loại hình trí thông minh vô cùng quan trọng này còn có thể giúp bạn lèo lái cuộc sống của mình vượt qua những “ghềnh thác” đầy hung hãn – đó là những xung đột, những sai lầm và hạn chế. Làm chủ tất cả những kỹ năng này, người có Trí tuệ Xã hội trở thành bậc thầy về giao tiếp và lắng nghe, có khả năng kết nối với cả thế giới rộng lớn. Người có Trí tuệ Xã hội luôn dễ chịu với tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp, tuổi tác, văn hóa, địa vị, và quan trọng hơn hết là có khả năng làm cho mọi người cảm thấy thoải mái, dễ chịu khi tiếp xúc với mình. Nhà quản lý cần có Trí tuệ Xã hội để điều hành công việc hiệu quả hơn. Thật ra, nhân viên bán hàng, nhân viên lễ tân, giáo viên, bác sĩ, nhân viên xã hội... bất kỳ ai đảm đương công việc tiếp xúc với con người thì đều cần đến Trí tuệ Xã hội! Đây là một trong những loại hình trí thông minh quan trọng và hữu ích nhất. Thật đáng mừng là ta hoàn toàn có thể trau dồi loại trí thông minh này! Nhận ra những mặt mạnh và mặt hạn chế của bản thân trong tương tác xã hội Hãy lấy một tờ giấy lớn, dành ra vài phút để ghi lại những lĩnh vực trong cuộc sống – cả cuộc sống gia đình và công việc – mà bạn nghĩ rằng đó chính là ưu điểm hoặc nhược điểm của mình. Thật ngạc nhiên khi rất nhiều chuyên gia và doanh nhân thành đạt lại cảm thấy trò chuyện với người khác là một công việc khó khăn! Những lĩnh vực bạn đang nghĩ đến có thể là: ■Lắng nghe người khác ■Tán gẫu xã giao ■Nhận biết cảm xúc của người khác ■“Góp một tay”, hoặc trao đổi ý tưởng ■Có thái độ tích cực về bản thân ■Có thái độ tích cực về người khác ■Xử lý êm đẹp những tình huống lúng túng, ngượng nghịu ■Xây dựng mối quan hệ hòa hợp với mọi người ■Tỏ rõ lập trường của mình trước đám đông – với những lý do chính đáng! Câu chuyện cảnh báo về Trí tuệ Xã hội – phần 1 Khi còn là một cậu thiếu niên, tôi nghĩ rằng để được yêu thích, tôi cần phải “khôn khéo” và có thân hình vạm vỡ. Tôi tích cực tham dự các sự kiện xã hội (như tiệc tùng, họp mặt…) để phô trương chỉ số thông minh (IQ, Intelligence Quotient) của mình, phân tích lỗi lầm của người khác, tham gia các cuộc thảo luận chỉ để chứng minh tôi đúng còn “đối thủ” của tôi thì sai, và khoe khoang cơ thể vạm vỡ (nhưng kém linh hoạt!). Nghe người khác bảo IQ cao và thân hình vạm vỡ là con đường dẫn đến thành công, tôi choáng váng khi nhẩm đếm lại số lượng “kẻ thù” mà tôi vô tình tạo ra do bộ dạng “thông minh” mà thiếu hẳn tình bạn chân thành của mình. Rồi bố tôi đã giúp tôi nhận ra rằng chiến thắng trong các cuộc tranh luận không thể là con đường dẫn đến thành công về mặt xã hội. Có lần tôi đã chiến thắng trong một cuộc đấu khẩu, nhưng đồng thời cũng thất bại trong việc cứu vãn tình bạn. Tôi bắt đầu quan sát những người thành công hơn hẳn tôi về mặt xã hội. Tôi nhận thấy họ đang làm nhiều điều hoàn toàn trái ngược với tôi khi đó. Những người được yêu mến nhất (và hạnh phúc nhất!) trông luôn tươi tắn, vui vẻ và khéo nói đùa, chọc cười người khác (Tôi “không thể” làm được như vậy!). Tính tình họ thoải mái, cởi mở, tự tin biểu đạt cảm xúc, hào hiệp và thường tránh tranh cãi. Đối với tâm hồn thiếu niên nhạy cảm của tôi khi đó, không gì khổ sở hơn khi thấy họ lúc nào cũng thoải mái, tự tin và thành công trong chuyện yêu đương hơn tôi! Như vậy IQ và cơ bắp không phải là những điểm mạnh duy nhất tôi cần phát triển nếu muốn thành công về mặt xã hội. Tôi còn phải trau dồi thêm những kỹ năng vô cùng quan trọng khác để có thể thấu hiểu và tương tác hiệu quả với mọi người. Quyển sách này sẽ đưa bạn thoát khỏi những rắc rối như tôi từng trải qua, đồng thời nhanh chóng mang đến cho bạn phần thưởng vô giá – cuộc sống yên vui, sức khỏe, của cải… – khi làm chủ loại hình trí tuệ tuyệt vời này. Không chỉ riêng bạn, mà những người xung quanh đều được lợi. Sống chan hòa – “Liều thuốc” chữa bệnh cảm lạnh! Nhà tâm lý học Sheldon Cohen, thuộc trường Đại học Carnegie Mellon, đã chứng thực những nghiên cứu trước đây khi cho rằng đồng nghiệp, người thân, bạn bè và người yêu giữ vai trò như là “nhóm hộ vệ” giúp bạn phòng ngừa chứng cảm mạo thông thường, đồng thời những ai có đời sống xã hội tích cực hơn thì sẽ khỏe mạnh và sống lâu hơn. Theo ông, bên cạnh số lượng thì tính đa dạng của mối quan hệ xã hội cũng rất quan trọng. Cohen và các cộng sự đã tiến hành thử nghiệm với 151 phụ nữ và 125 đàn ông, yêu cầu họ liệt kê tất cả những người mà họ có liên lạc ít nhất là hai tuần một lần. Ngoài số lượng người liên lạc, họ còn phải cho biết tính đa dạng của các mối quan hệ xã hội, phân theo 12 nhóm như: hàng xóm, đồng nghiệp, bố mẹ, bạn đời, v.v. Sau đó những đối tượng nghiên cứu này bị cho phơi nhiễm virus gây cảm lạnh. Tỷ lệ lây nhiễm được nhóm nghiên cứu ghi nhận lại. Kết quả cho thấy 62% số người không có nhiều mối quan hệ xã hội có dấu hiệu bị cảm lạnh, trong khi tỷ lệ này ở nhóm người có ít nhất từ 6 nhóm quan hệ chỉ là 35%. Từ đó, Cohen kết luận rằng một trong những nguyên nhân làm gia tăng khả năng miễn dịch ở nhóm sau chính là cảm giác vui vẻ, thoải mái do mối quan hệ xã hội đa dạng mang lại. Tổng quan về Sức mạnh của Trí tuệ Xã hội Sức mạnh của Trí tuệ Xã hội được chia thành 10 chương tiếp nối nhau để giúp bạn nhanh chóng nâng cao Trí tuệ Xã hội của mình trong quá trình đọc sách. Chương 1 đã giúp bạn hiểu biết sơ lược về tầm quan trọng và sức mạnh tiềm tàng của Trí tuệ Xã hội. Sau đây là tổng quan nội dung phần còn lại của quyển sách. Chương 2: Khám phá và làm chủ Ngôn ngữ Cơ thể Ngôn ngữ cơ thể chiếm hơn một nửa hoạt động giao tiếp của chúng ta. Trong chương này, tôi sẽ lý giải cách bạn phóng chiếu hình ảnh về bản thân thông qua ngôn ngữ cơ thể như thế nào, đồng thời hiểu người khác qua ngôn ngữ cơ thể của họ. Cơ thể người là một “nhạc cụ” tuyệt vời tấu nên “khúc nhạc giao tiếp” theo nhiều cách rất tinh tế. Một khi đã biết chơi thành thạo loại nhạc cụ này, bạn sẽ nhận được những phần thưởng to lớn, thiết thực cho đời sống xã hội của bạn. Chương 3: Nghệ thuật lắng nghe Người có Trí tuệ Xã hội không phải là người nói nhiều mà là người lắng nghe hiệu quả. Chương này sẽ giới thiệu về nghệ thuật lắng nghe, trình bày những cách thức giúp bạn trở thành bậc thầy giao tiếp nhờ… nói ít! Hãy nhớ, không phải ngẫu nhiên mà chúng ta có hai lỗ tai và một cái miệng! Chương 4: Nghệ thuật xây dựng mối quan hệ Ai cũng có mục tiêu mang tính bản năng là kết bạn, có sức ảnh hưởng đến người khác, được yêu quý, giao tiếp dễ dàng, thương lượng thành công, và quản lý những mối quan hệ xã hội sao cho mang lại kết quả mong muốn. Hãy tiếp tục đọc và tìm hiểu những người thành công trong xã hội đã đạt được tất cả những điều này như thế nào. Chương 5: Tỏa sáng giữa đám đông Chương này sẽ chỉ cho bạn cách tỏa sáng giữa đám đông và cách sử dụng khả năng trí não của bạn để gây ấn tượng với người khác trong những buổi họp mặt xã giao! Chương 6: Thái độ sẽ quyết định tất cả! Thái độ không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi của bạn, mà còn tác động đến hành vi của những người xung quanh và đến cả những người khác mà họ tương tác. Hiệu ứng “sóng lan truyền” này cứ tiếp diễn và lan rộng ra toàn thế giới. Sự tự tin của bạn chính là bí quyết giúp tạo dựng mối quan hệ. Tôi sẽ giải thích ảnh hưởng của áp lực đồng đẳng và tiết lộ một trong những điều quan trọng nhất mà bạn có thể truyền lại cho con cái. Chương 7: Thương lượng – Nghệ thuật Đắc nhân tâm Dựa vào đâu để biết chắc chắn rằng trong bất kỳ cuộc thương lượng nào, cả hai bên đều hài lòng với kết quả đạt được? Làm thế nào để giải quyết những bất đồng một cách thân tình? Chương này sẽ “bật mí” cho bạn những điều bạn cần thực hiện! Chương 8: Phong thái xã hội Những điệu bộ, hành vi tưởng chừng nhỏ nhặt, đơn giản nhưng có thể cho biết Trí tuệ Xã hội của một người lớn mạnh đến mức nào. Chương này sẽ giúp bạn hiểu ý nghĩa của mỗi điệu bộ, cử chỉ và cách vận dụng chúng để mang đến lợi ích cho bạn. Chương 9: Kim chỉ nam cho sự thành công xã hội Trí tuệ Xã hội phát triển chắc chắn sẽ mang đến cho bạn một địa vị và sức ảnh hưởng cao trong xã hội. Hãy áp dụng mọi điều học được từ đây để có thể đón bắt thành công trong tương lai. Chương này sẽ giới thiệu đến bạn một Ngôi sao Trí tuệ Xã hội, một đại diện tiêu biểu thể hiện sức mạnh và những phẩm chất của Trí tuệ Xã hội. Chương 10 – Sức mạnh của 10 loại hình trí thông minh Trong chương cuối, tôi sẽ giới thiệu những loại hình trí thông minh mà chúng ta có – Trí tuệ Xã hội chỉ là một phần trong số đó – và cách các loại trí thông minh này tương tác, bổ trợ lẫn nhau như thế nào. Để giúp bạn thêm phần hứng thú trong chuyến hành trình khám phá và chinh phục “đỉnh cao” Trí tuệ Xã hội, bên cạnh phần lý thuyết, tôi cũng sẽ đưa ra những câu trích dẫn phù hợp, các bài tập tự đánh giá, những câu chuyện minh họa hấp dẫn và những sự kiện lịch sử có liên quan. Ngoài ra, quyển sách còn có một số phần đặc trưng khác như: ■Bản đồ Tư duy (Mind Map) Đây là công cụ tư duy tuyệt vời có thể giúp bạn nhìn rõ “tấm bản đồ ý nghĩ” trong đầu bạn! Bản đồ Tư duy sử dụng tất cả những “trang thiết bị” mà bộ não bạn sử dụng hàng ngày để ghi nhận, thấu hiểu và ghi nhớ mọi thứ (như: từ ngữ, đường kẻ, màu sắc, hình ảnh…). Bản đồ Tư duy dễ dàng áp dụng cho mọi điều, vào mọi lúc, ở mọi nơi. Bản đồ Tư duy chính là “bạn của bộ não”! ■Rèn luyện Trí tuệ Xã hội Tất cả những chương sau đều có phần Rèn luyện Trí tuệ Xã hội, bao gồm những trò chơi, bài tập thú vị giúp bạn phát triển và củng cố loại trí thông minh ưu việt này. Có thể hình dung phần này giống như “phòng tập thể hình” cho trí não, nơi bạn đến để nâng cao sức mạnh và độ linh hoạt của những “cơ bắp” Trí tuệ Xã hội! ■Lời khẳng định giúp củng cố Trí tuệ Xã hội Bằng cách thường xuyên tự lặp lại những câu khẳng định tích cực, bạn sẽ khắc ghi sâu những ý định tốt đẹp ấy trong đầu, có nhiều khả năng chyển tư tưởng thành hành vi và theo đó là phát triển vững mạnh Trí tuệ Xã hội. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Trí Tuệ Xã Hội của tác giả Tony Buzan.