Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuôn Mặt Người Khác

Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chai Thời Gian - Praphatsorn Seiwikun
Tác phẩm yêu thích nhất của thanh thiếu niên Thái Lan "Nếu cất được thời gian trong chai Điều đầu tiên tôi mong được làm Là chắt chiu dành dụm từng ngày Cho tới khi vĩnh hằng trôi qua Chỉ để dành trọn chúng bên em..." Chai thời gian, ca khúc xưa cũ đã cùng Fatso đi qua tuổi niên thiếu bỗng êm ả vang lên trong một quán cóc nhỏ, gọi về những kỷ niệm... Kỷ niệm mang bóng hình một mối tình đơn phương lặng lẽ, với con đường nhỏ rợp bóng cây kèn hồng còn vương tiếng cười của đám bạn sau giờ tan lớp. Fatso, em gái, những người bạn thân, đã tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành trong niềm vui niên thiếu, với cú sốc đầu đời khi gia đình tan vỡ, với cả cần sa, với bao lựa chọn khó khăn, khi vô tình bị cuốn vào những biến cố xã hội. Để rồi khi nhìn lại, chợt thấy tuổi trẻ như một bức tranh ghép với những mảng sáng tối, gợi những nỗi niềm man mác... Chai thời gian, cuốn tiểu thuyết bestseller nổi bật với thế hệ học sinh sinh viên Thái thập niên 1970, khám phá khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái trong một gia đình Bangkok trung lưu, những nhức nhối của hành trình trưởng thành, những giằng xé giữa tình bạn tình yêu trong trái tim tuổi mới lớn. Được khắc họa qua những khúc hồi tưởng đặc biệt ấn tượng và gần gũi, thế giới xúc cảm đó vừa thân thuộc vừa tươi mới, mang thời thanh xuân trở lại ngập tràn tâm hồn người đọc. "Tôi vẫn hay tự hỏi mình câu hỏi cũ ấy, rằng nếu tôi có thể giữ thời gian đứng yên, liệu tôi có thể có được tất cả những gì mình mong ước... Tôi vẫn còn nhớ những ngày chúng tôi đi bộ trên con đường rợp bóng cây kèn hồng; những ngày nắm tay nhau làm thành một đoạn xích để một đứa với ra rìa đầm lầy hái đài sen rồi chia nhau ăn; những ngày túm cặp của nhau không cho đứa nào lên xe buýt trước; và tất cả những ngày Jom cùng tôi sánh bước, khoác trên vai hộp đàn đến quán cóc, nơi mà chúng tôi sẽ nhét hàng đống xu vào máy hát nghe Chai thời gian hết lần này đến lần khác." *** Ca khúc “Chai thời gian” của Jim Croce phát ra từ chiếc máy hát tự động của một quán cà phê nhỏ ven đường khiến tôi dừng bước. Từ lâu, rất lâu rồi, tôi đã không nghe lại bài hát này, như thể nó đã biến mất khỏi kí ức của mọi người và bị ém nhẹm vào một xó xỉnh tối tăm nào đó. “Này Béo, đừng về vội.” Một giọng nói trong trẻo vang lên từ góc phòng. Tôi ngẩng đầu khỏi hộp đàn vĩ cầm, ngạc nhiên quay về phía người nói. “Chị chưa muốn về nhà.” Chủ nhân của giọng nói xách hộp đàn vĩ cầm đi về phía tôi. “Muốn đi loanh quanh một chút.” “Vậy đi cà phê đâu đó nhé?” tôi gợi ý, đoạn đưa tay gạt một lọn tóc dính trên trán. Chị gật đầu thay câu trả lời. “Tóc cậu lại dài ra rồi đấy.” Chị nhìn tôi. “Tốt nhất là đi tỉa đi.” “Vội gì,” tôi vừa đáp vừa chìa tay đỡ lấy hộp đàn của chị. “Để em cầm.” “Cảm ơn,” chị lầm bầm gỡ cặp khỏi vai tôi. “Bọn mình bỏ đám này vào ô tô đi, đỡ phải vác theo.” “Chị nói cứ như mấy thứ này nặng bằng cả trái đất ấy.” Tôi bật cười bước đi, hai tay duỗi thẳng, mỗi tay xách một hộp đàn vĩ cầm, chị đi đằng sau ôm cặp sách của tôi. “Chú Maen!” chị gọi người lái xe đang ngồi đợi trên ghế băng trước cửa phòng nhạc. “Chú cho cặp sách và hai cái đàn này vào xe đi.” “Vậy còn cô thì sao ạ, thưa cô?” Chú Maen đỡ lấy đàn và cặp, nhìn chị dò hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Chai Thời Gian của tác giả Praphatsorn Seiwikun.
Nhạn - Mori Ogai
Văn học thời Minh Trị ghi dấu ấn của hai tác gia lớn là Natsume Soseki (Hạ Mục, Thấu Thạch) 夏目漱石 (1867-1916) và Mori Ogai (Sâm, Âu Ngoại) 森鴎外 (1862-1922). Là thế hệ nhà văn tiếp xúc với tri thức và văn minh phương Tây (Natsume đi du học Anh, Mori Ogai đi du học Ðức), cả hai người đều có những đóng góp quan trọng trong việc cách tân văn học Nhật Bản cận đại. Trong khi Natsume được dịch và giới thiệu với độc giả Việt hầu hết những tác phẩm quan trọng thì Mori Ogai chưa có được cái may mắn ấy. Khác với tác giả của “Nỗi lòng” 心 và “Từ đó về sau” それから hầu như chỉ chuyên tâm sáng tác, Mori Ogai ngoài văn chương dịch thuật còn tham gia quân ngũ. Chính Mori Ogai là người khởi xướng tạp chí văn học “Phên giậu” Shigarami soshi しがらみ草紙 và đã dịch tác phẩm “Faust” lừng danh của Goethe ra Nhật ngữ. Ngoài sự nghiệp dịch thuật và binh nghiệp lẫy lừng (làm đến chức Tổng trưởng Quân y Lục quân), văn nghiệp Mori Ogai cũng rất phong phú và trải qua nhiều biến chuyển gắn liền với lịch sử văn học Nhật Bản hiện đại. Vì thế chúng tôi chọn dịch một tác phẩm tiêu biểu của Mori Ogai, tiểu thuyết “Nhạn” 雁 . Quyển tiểu thuyết này gồm 24 chương ngắn không có nhan đề được cấu trúc theo như chính lời tác giả ở chương 24: “Một nửa câu chuyện này là những chuyện xảy ra khi tôi với Okada còn chơi với nhau thân thiết, một nửa còn lại là nghe Otama mà tôi quen sau này kể lại sau khi Okada đã ra đi. Cũng giống như hai mảnh trái phải của một bức tranh dưới kính thực thể cùng phản chiếu một ảnh tượng, câu chuyện này là ghép và tương chiếu những điều tôi thấy trước đó và những điều nghe kể sau này”. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Takemori Tenyu[1] ở phần giải thích tác phẩm cho rằng, “Câu chuyện được tái cấu thành từ “hai mảnh trái phải của một bức tranh”, tức là “những điều thấy trước đó và những điều nghe kể sau này”. Tính chất của sự tái cấu thành này không chỉ trong quyển “Nhạn” mà còn là điểm cần phải chú ý xuyên qua chỗ thâm sâu của văn nghiệp Ogai”[2]. Takemori Tenyu cũng cho rằng vấn đề tái cấu thành này có bao hàm yếu tố phức tạp. Khi phân tích cụ thể tác phẩm ta có thể nhận ra 27 tình tiết. Chẳng hạn từ chương 1 đến chương 3 ta thấy có 5 tình tiết như sau: 1. “Tôi” dọn về khu nhà trọ Kamijo. Thời điểm là năm “Minh Trị thứ 13”. (Chương 1) 2. Okada, sinh viên trường y, dọn đến trọ sát phòng của nhân vật “tôi”. (Chương 1) 3. “Tôi” do mua quyển truyện “Kim Bình Mai” ở nhà sách cũ mà quen thân với Okada. (Chương 1) 4. Căn nhà phòng nhì nơi con dốc Vô Duyên. (Chương 2) 5. Truyện về “cô gái ngồi bên cửa sổ”. (Chương 2, 3) Và “sau khi thử kiểm tra các tình tiết truyện, tôi (Takemori) đi đến suy nghĩ rằng đây không phải là nguyên vẹn một “câu chuyện cũ” của nhân vật “tôi”. Hơn nữa khi giản lược hóa câu chuyện đến đoạn cuối từ chương 22 đến chương 24 ta lại có thể lấy ra được 5 tình tiết khác. I. Bữa ăn tối ở phòng trọ Kamijo có món cá saba hầm súp miso. (Chương 22) II. Cuộc gặp gỡ giữa Otama, Okada và “tôi” ở con dốc Vô Duyên. (Chương 22, 24) III. Câu chuyện về con ngỗng trời. (Chương 22, 23) IV. Chuyện Okada đi du học Tây phương. (Chương 23, 24) V. Các chuyện về sau và giải thích phương pháp viết. (Chương 24) Tình tiết truyện từ I đến IV với tình tiết 1 đến 5 trước đó gần gũi về mặt thời gian, tuy nói là tồn tại với tư cách “nguyên hình” (hình dạng ban đầu, tự nhiên, chưa chỉnh sửa) nhưng chẳng phải là những tình tiết riêng biệt hay sao?”[3] Còn về nội dung thì tác phẩm này xoay quanh chuyện tình của ba nhân vật chính là Suezo, Okada và Otama. Tuy gọi là tình tay ba nhưng thực ra chỉ xoay quanh tâm tình của Otama. Suezo hoàn toàn không hay biết gì về tình địch còn Okada thì chỉ như người đi qua đường, một lần giúp đỡ mỹ nhân mà còn chút gì lưu luyến. Con dốc Vô Duyên là một địa danh có thật nhưng nó cũng hàm chứa ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Ðiềm báo của một cuộc tình không thành. Như một tấm tranh cuộn dần dần được mở ra, các nhân vật từ từ xuất hiện cùng những biến chuyển tâm lý qua các hoàn cảnh được Mori Ogai khắc họa rất sắc nét. Tâm trạng thất thường của người cha khi an ổn tuổi già nhớ nhung con gái, toan tính con buôn của Suezo, nỗi muộn phiền của người vợ Otsune, sự chuyển biến từ ngây thơ đến dạn dày của Otama, cả những giằng xé của Okada và của cả nhân vật “tôi”, thói ba hoa của Ishihara lần lượt điểm tô cho tấn tuồng có ba nhân vật chính. Với giọng văn thong dong, điềm đạm và các câu văn gãy gọn rõ ràng, Mori Ogai kể lại cho chúng ta một câu chuyện đầy đủ chương hồi. Tác phẩm dần dần mở ra như một bộ phim quay chậm, như chiếc đèn kéo quân. Trên đó những toan tính, dằn vặt, mâu thuẫn gia đình, bản chất con người dần dần hiện lên rõ ràng minh bạch. Nhân sinh từ ngàn đời nay, dù nơi nào cũng vậy, cũng diễn đi diễn lại một vở tuồng. Có trung có nịnh, có khao khát đam mê, có tuyệt vọng thẫn thờ, có những toan tính nhỏ nhen với những ước vọng phi thường. Tuy chỉ có chừng ấy nội dung nhưng cách diễn đạt và hình ảnh mỗi thời mỗi khác với văn phong riêng biệt của từng tác gia khiến chúng ta mỗi lần xem là một lần cảm thấy tươi mới. Cũng như một bàn cờ tướng chỉ có ba mươi hai quân mà thiên biến vạn hóa, bàn cờ vây chỉ hai màu trắng đen mà mấy ngàn năm để lại biết bao nhiêu huyền thoại, diễn ra biết bao nhiêu trận thư hùng. Mori Ogai đã mang đến cho chúng ta thêm một phối cảnh mới của vở kịch đời với sắc màu riêng biệt độc đáo Nhật Bản. Qua biến thiên dâu bể hàng trăm năm, tác phẩm vẫn ngời sáng lung linh một ngọn lửa tinh thần bất diệt. Nagoya, ngày 23/2/2013 Hoàng Long Mời các bạn đón đọc Nhạn của tác giả Mori Ogai.
Ngoại Tình - Paulo Coelho
Sau tất cả, quặn thắt trong những hoang mang, tình yêu và lòng khoan dung vẫn luôn là thứ cứu rỗi con người. Với những tín đồ văn chương, cái tên  Paolo Coelho không còn quá xa lạ. Thâm trầm và sâu sắc, nhà văn xứ Brazil đã làm rung động cả thế giới với tác phẩm Nhà giả kim – cuốn sách bán chạy chỉ sau Kinh Thánh. Người ta đổ xô tìm kiếm Paolo Coelho, điên cuồng đọc sách ông. Tại Việt Nam, Nhà giả kim chễm chệ nằm trên danh sách bán chạy nhất mà chẳng đối thủ nào có thể hạ gục trong một thời gian dài. Tuy nhiên, đã bao giờ bạn tìm hiểu Paulo Coelho theo góc nhìn khác? Thay vì đọc Nhà giả kim, hãy tìm đến ông qua tiểu thuyết Ngoại tình. Một điều đặc trưng trong các tác phẩm Paolo Coelho chính là tầng nghĩa đa phức. Ngoại tình tưởng chừng dễ đọc, dễ ngấm, nhưng đó là sự cấu thành hoàn hảo từ mảnh ghép cuộc đời tác giả. Người ta vẫn luôn đắm chìm trong chất thơ mỹ miều của Paolo Coelho, nhưng ít tai biết rằng cuộc đời ông nếm trải tất cả các dư vị: bạo lực, ma túy, cần sa, tình dục điên cuồng chóng vánh cho đến vô số cuộc ăn chơi trác táng. Ngoại tình không những là con dao mổ tìm đến tận cùng sự trống vắng sợ hãi và phức tạp của mối quan hệ ngoài luồng, mà nó còn thể hiện góc nhìn trần trụi trong văn phong của một trong những tác giả bậc nhất thế giới. *** Paulo Coelho là tác giả viết tiếng Bồ Đào Nha bán chạy nhất mọi thời đại, là một trong những nhà văn được nhiều người đọc nhất thế giới, và là tác giả còn sống được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Cha đẻ tiểu thuyết 'Nhà giả kim' sẵn sàng đăng sáng tác của mình lên mạng Internet và khuyến khích mọi người tải về đọc. Tiểu thuyết gia cho rằng, cách này rất hữu hiệu để khuyến khích mọi người đến với sách in, cũng như kích thích văn hóa đọc.   Là một nhà văn lướt web sành điệu, Paulo Coelho bỏ thời gian tìm tòi một phần mềm mới trên trang The Pirate Bay và khám phá các chức năng của nó. Sau khi kết luận rằng chương trình này rất thú vị, ông đăng các tác phẩm của mình trên trang này cho mọi người cùng đọc. Nhà văn khẳng định, càng nhiều người đọc miễn phí sách ông trên mạng thì sách in của ông sẽ bán chạy hơn. Những tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Nhà Giả Kim Ngoại Tình Hành hương Bên bờ sông Piedra tôi ngồi khóc Những nữ chiến binh Ngọn núi thứ năm Cẩm nang của chiến binh ánh sáng Veronika quyết chết Quỷ dữ và nàng Prym Cha, con và chú Mười một phút Như một dòng sông chảy Phù thủy phố Portobello ... *** Mỗi sáng, khi mở mắt chào đón cái gọi là “ngày mới”, tôi cứ muốn nhắm mắt lại, nằm nguyên trên giường và đừng thức dậy nữa. Nhưng tôi không thể làm vậy. Tôi có một người chồng tuyệt vời, anh không chỉ yêu tôi cuồng si mà còn là chủ một quỹ đầu tư lớn. Hằng năm anh xuất hiện trong danh sách ba trăm người giàu nhất Thụy Sĩ trên tạp chí Bilan - dù anh cực kỳ khó chịu với việc đăng tin này. Tôi có hai con trai (mà như bạn bè tôi vẫn nói) là “lẽ sống của tôi”. Tôi dậy sớm chuẩn bị bữa sáng cho chúng, rồi đưa chúng đến trường, chỉ mất năm phút đi bộ, chúng sẽ ở đó cả ngày, cho phép tôi làm việc và khỏa lấp thời gian của mình. Sau giờ học, cô trông trẻ người Philippines sẽ trông chúng cho tới khi vợ chồng tôi về nhà. Tôi thích công việc của mình. Tôi là một nhà báo được trọng vọng tại một tờ báo lớn, có thể tìm mua tờ báo này ở hầu khắp các sạp báo tại Genève, nơi chúng tôi sống. Mỗi năm một lần, cả gia đình tôi đi nghỉ, thường là một thiên đường xa xôi nào đó với bờ biển đẹp như mơ, trong các chuyến đi ấy chúng tôi ở những thành phố xa lạ nơi dân chúng thường là những người nghèo khổ, họ làm chúng tôi cảm thấy mình giàu sang hơn, có nhiều đặc ân hơn, và thấy trân trọng hơn những diễm phúc cuộc đời đã ban cho chúng tôi. Ồ, mà tôi còn chưa giới thiệu bản thân. Rất vui được gặp các bạn. Tôi là Linda. Tôi ba mươi mốt tuổi, cao một mét bảy mươi lăm, nặng sáu mươi tám cân, và tôi mặc những trang phục đẹp nhất mà tiền bạc có thể mua được (nhờ sự rộng rãi vô hạn của chồng tôi). Tôi khơi dậy ham muốn ở đàn ông và ghen tị ở phụ nữ. ... Mời các bạn đón đọc Ngoại Tình của tác giả Paulo Coelho.
Nghiệt Duyên - Thommayanti
Angsumalin từ biệt người bạn trai thân thiết từ thuở thiếu thời để anh lên đường sang Anh quốc du học, với lời hứa chờ đợi anh về và trả lời câu hỏi:" Em sẽ cưới anh chứ?" Nhưng rồi, Đại chiến Thế giới thứ hai nổ ra, quân Nhật tiến vào chiếm đóng đất nước Thái Lan, và nhất là sự xuất hiện của sĩ quan Nhật trẻ tuổi, đẹp trai, hào hiệp Kobpori đã làm đảo lộn mọi thứ trong cuộc đời cô gái... "Một mặt, Nghiệt duyên là câu chuyện tình cao đẹp và tinh tế; mặt khác nó làm tấm gương phản chiếu hậu quả ác nghiệt của chiến tranh, đồng thời của phản ánh một cách chân thực và sâu sắc cốt lõi của nền văn hóa Thái Lan để ta nghiên cứu tìm hiểu." - Trích lời tựa cho lần xuất bản thứ 11 của Nhà xuất bản Baanwannagum -  *** Thời tiết buổi sớm mai mùa đông năm ấy lạnh tới mức sương mù bao phủ khắp nơi. Nước sông Chao-Phraya đầy ứ bởi đang trong mùa lũ. Thuyền bè xuôi ngược trên sông chỉ như những ảnh hình mờ ảo trôi qua lại trong màn sương rồi khuất bóng đi ngay. Nhà cửa hai bên bờ sông cũng bị lớp sương mỏng che phủ, chỉ còn như những hình khối nhòa nhòa. Làn nước vỡ tan khi một bóng người đang lặn bỗng nhiên nổi lên, bím tóc tết dài lưới thướt, khuôn mặt trắng xanh, đôi môi tái nhợt vì lạnh. Trời lạnh đến nỗi hơi phả ra từ miệng cô trở thành một làn khói trắng dài. Có tiếng gọi vọng đến khiến cô bám vào bậc cầu thang, ngóng về phía cây cầu nối vào bên trong nhà. Ngôi nhà nằm khuất giữa vườn cây, chỉ trông thấy mái nhà cao cao nhô lên thấp thoáng khỏi hàng cây tối thẫm. “Ang ơi... Ang ơi...” Tiếng gọi càng lúc nghe càng gần hơn. Cô gái bèn lặn xuống, rồi từ từ ngoi lên, lần này chỉ thấy mỗi gương mặt từ cổ trở lên nổi trên mặt nước phía dưới cây cầu, không để phát ra tiếng động. ... Mời các bạn đón đọc Nghiệt Duyên của tác giả Thommayanti.