Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Du Nữ

Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trường Học Đờn Bà
Trong tác phẩm này, Andre' Gide ý muốn chẫm rãi kẻ cà tỉ mỉ nói về tâm hồn, tâm lý những kẻ cao nhã u trầm đằm thắm yêu nhau? mà sử dụng ngôn ngữ loài người vô tận tục tĩu chúng sinh bằng mật ngữ u u u nhiên trường kỳ kham nhẫn - Người dịch tạm ghi. "...Tôi rất muốn được đứng một mình ở trong phòng; những cặp mắt của những khách tới viếng khiến tôi khó chịu; tưởng chừng như, cứ mỗi phen tôi ngắm bức tranh, thì thiên hạ dòm ngó tôi quan sát. Tuy nhiên, mặc dù đau khổ và khó chịu, tôi vẫn cứ bị thu hút bởi cái đẹp phi thường của cái " cô nương dã dượi" kia khiến lòng tôi cảm thấy được tràn ngập chứa chan một mối mê man tê mê gần như mê loạn, một mối kỳ vỹ mê ly dịu dàng dập dìu khôn tả; từ trước tới lúc bấy giờ, có bao giờ tôi cảm thụ một nỗi niềm như thế đâu. Một kẻ nào đó đã tiến gần đến tôi, lặng lẽ êm ru, và bất thình lình tôi cảm thấy hai bàn tay mát rượi úp vào hai mắt tôi. Tôi quay lại. Chính là Gisèle. - Gặp lại nhau đây, thật bất ngờ tươi vui ngộ nghĩnh quá! -  Gisèle ríu rít nói như chim. Nàng chợt thấy mẹ tôi. - Cháu đã làm xong việc uỷ thác của bác cho má con, má con nói rằng bà cũng sẽ rất sung sướng nếu được quen biết bác. Thật dịp may hiếm có, má con cùng đi với con tới đây. Nhưng có điều là con không biết giới thiệu. Rồi cô nàng lấy cánh tay bà má, dắt tới bên chúng tôi, vụng về nói: - Má ạ... Bà X..., mẹ của người bạn mới của con; thật vậy, má cũng chưa biết mặt Genevìeve...Ấy đó! đó là cô ta. Bà mẹ của Giesèle thật là kiều diễm và tôi cảm thấy ngay là mẹ tôi cảm mếm bà liền. Bà (vốn người Ăng Lê) bà nói tiếng Pháp rất thạo, tuy giọng nói âm tiết rất mạnh, và như thế càng thêm đậm đà ý vị và dường như còn gia thêm vào cho tính cách cao nhã tự nhiên thiên nhiên thuần thái của bà. Chúng tôi đang đứng trước bức tranh kỳ vỹ ..." *** Review Thanh Hai: Tui yêu Bùi Giáng lắm, một phần là ông là người Quảng nam đặc biệt nhứt, một phần vì ông có cái chất điên quá khác người , những bài thơ của ông thì đã quá nổi tiếng với cái sự “điên rực rỡ” trong từng câu từ, từng tứ thơ. Ở địa hạt chuyển ngữ, Bùi Giáng lại càng khác biệt với phần còn lại. Cũng vì quá khác biệt với những lời dịch đôi khi miên man, bay bổng và những từ ngữ lạ lẫm mà có 1 số độc giả đọc và chỉ trích ông không tôn trọng nguyên tác. Tui thì không đọc được bản gốc nên không dám ý kiến chi, chỉ thấy một điều đơn giản là đọc các bản dịch của ông cảm thấy như được bơi trên dòng sông ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ riêng có của ông không lẫn lộn với ai được, như khi tui đọc 1 bài thơ Nguyễn Bính, hay 1 đoản văn của Mikhail Prisvin... Đọc riết 1 hồi có cảm giác như ông đang sáng tác chứ không phải đang dịch, vì dấu ấn cá nhân của ông thổi vào tác phẩm quá lớn. TRƯỜNG HỌC ĐỜN BÀ là một cuốn như rứa. Thiệt ra cái chữ “đờn bà” là từ địa phương chỉ dân Quảng Nam mới dùng, nên tui - là người Quảng mà - mới ngó đã yêu liền, chưa biết nội dung là răng . Nhưng cần chi hè ?? Cặp bài trùng Bùi Giáng - Andre Gide là đủ để cho tui sở hữu liền rồi. Ni không đọc thì mai đọc, năm ni không đọc thì năm sau sẽ đọc ????. Mà đúng là như rứa thiệt á. Vì tui mua sách ni hơn 5 năm rồi chừ mới lôi ra đọc nề. “Nhà trường của gái lớn lên Phiêu bồng rất mực còn nên nói nhiều Sịch mành trở mộng đăm chiêu Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng” Bốn câu thơ của Bùi Giáng trên trang đầu tiên của cuốn sách, trong đó câu thứ 4 là ông mượn câu thơ của cụ Nguyễn Du. Tiếp đến trang thứ 2 lại là những dòng người dịch tạm ghi : “Trong tác phẩm này, Andre Gide ý muốn chậm rãi kề cà tỉ mỉ nói về tâm hồn, tâm lý những kẻ cao nhã u trầm đằm thắm yêu nhau ? Mà sử dụng ngôn ngữ loài người vô tận tục tĩu chúng sinh bằng mật ngữ u u u nhiên trường kỳ kham nhẫn..” Ui ông viết cái chi mà tui đọc không hiểu nổi , từ ngữ lạ lẫm và không biết sắp xếp theo cái chuẩn mực chi nữa, mới đọc dô thấy mệt rồi . Mệt mà lỡ yêu rồi biết làm răng đây hihi. Cuốn ni đọc bữa vài chương nhẩn nha thôi, hông đọc 1 lần được đâu, vì ông dịch dễ điên lắm ???? Khuya khuya đem ra đọc : “Đứa con bé bỏng của ta ơi, các vị mục sư và ta, không cùng thờ chung một thượng đế - ông bố trả lời tôi như thế, lúc tôi gắng nói (gói nắng) gọi nắng xuân về cho kiều diễm nở hoa - con đừng có nằn nì nài nỉ nông nổi náo nức nữa, con sẽ làm cho ta nổi đóa đấy. Đó là những chuyện mà có lẽ mai sau con sẽ hiểu nếu con không quá giống quá nhiều quá quá là quá giống bà má của con quá đỗi chao ôi ! Đó con ạ !” Mô phật, tui trích đoạn 1 chút cho bà con đọc thử, hễ không hợp với kiểu dịch ni thì đừng mua sách đọc rồi chửi dịch giả hỉ ???? Riêng tui thì đọc dô như thường và cũng thấy hay như thường . Yêu nhứt là Bùi Giáng lúc nào cũng ưng nói lái - một đặc trưng để nhận ra người xứ Quảng dù họ có sinh sống ở bất cứ nơi đâu.   *** André Paul Guillaume Gide (22 tháng 11 năm 1869 – 19 tháng 2 năm 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng của thế kỷ 20, người đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Sáng tác đầu tay của ông là cuốn tự truyện Les cahiers d'André Walter (Những cuốn vở của André Walter, 1891) viết bằng thơ và văn xuôi đầy chất thơ, kể về sự giằng xé, giày vò giữa thể xác và tâm hồn và sự tìm kiếm lối thoát trong các hình thái thần bí và thanh cao của tình yêu. Do bị bệnh lao không phải chịu quân dịch, những năm 1893-1894 André Gide du lịch sang Algérie và Tunisia, nơi ông phát hiện ra mình là người đồng tính luyến ái. Thời gian khủng hoảng kéo dài được ghi nhận bởi sự bất ổn tinh thần và những kiếm tìm chân lý thể hiện trong truyện vừa Le Retour de l'Enfant prodigue (Cuộc trở về của đứa con du đãng, 1907). Về mặt phong cách, Gide đã khắc phục lối viết cầu kì ban đầu, đến với một ngôn ngữ giản dị rõ ràng. Năm 1908, ông trở thành người đồng sáng lập Tổng quan mới của nước Pháp, một trong những tạp chí có ảnh hưởng đối với sự phát triển nền văn học Pháp và thế giới. Tiểu thuyết châm biếm Les Caves du Vatican (Những động ngầm dưới Vatican, 1914) đặt vấn đề về sự chấp nhận một cách mê muội những tín ngưỡng và lý tưởng. Năm 1926, tiểu thuyết Les Faux-monnayeurs (Những kẻ làm bạc giả) ra đời mang lại nhiều thành công cho ông, đó là một đóng góp thực sự vào sự phát triển thể loại tiểu thuyết. Một năm sau khi xuất bản truyện vừa Thésée (Theseus, 1946) - mà ông coi như một bức di thư văn học - André Gide được bầu làm Giáo sư Danh dự trường Đại học Oxford và được tặng giải Nobel năm 1947. Năm 1950, André Gide xuất bản tập cuối cùng của bộ Journal (Nhật kí). Ông mất năm 1951 ở Paris.   Những nhân vật của Gide đều mang bóng dáng cuộc đời ông, như ông từng viết: “Kẻ khác có thể đã viết nên một tập sách; nhưng câu chuyện tôi kể ra đây, tôi đã hồi tưởng lại bằng cả tâm hồn”. Để hiểu về những tác phẩm gây chấn động của Gide, cần nhìn lại chính đời ông. Gide sinh ra vốn là đứa trẻ nhạy cảm, sống bản năng. Về sau, ông lại gặp thêm quá nhiều bão táp trường đời: Mất cha từ nhỏ, chiến tranh liên miên, bệnh tật và đặc biệt là cú sốc năm 26 tuổi, khi ông phát hiện ra mình là người đồng tính. Trước đó, Gide đã mối tình lãng mạn kéo dài với cô em họ Madeleine Rondeaux từ khi ông mới là cậu bé 12 tuổi (ông đã hồi tưởng lại mối tình đầy ngang trái này trong tác phẩm Khung cửa hẹp). Phát hiện này khiến ông bị rối loạn cảm xúc. Về sau, ông vẫn trân trọng và cưới Rondeaux nhưng đồng thời chạy theo những mối tình đồng giới và thật bất ngờ, lại có con với một người phụ nữ khác. Như con thiêu thân, Gide lao vào những cuộc sa đọa trác táng và không ngần ngại phô bày trên trang giấy. Nhiều người đã lên án Gide kịch liệt, coi những tác phẩm của ông như liều thuốc độc cho người đọc. Bạn bè trong giới văn chương cũng có phần dè chứng ông. Nhưng Gide không vì thế mà chùn bước. Ông vẫn trung thành với bản chất con người, coi thường những hình thức phù phiếm, giả tạo. Ông nâng tầm quan điểm của mình lên thành triết lý trong Kẻ vô luân, kể về Michel, kẻ vượt qua mọi rào cản đạo đức trong hành trình nổi loạn để khám phá con người thật của mình. Mời các bạn đón đọc Trường Học Đờn Bà của tác giả André Gide.
Đẹp Là Một Nỗi Đau
Một phụ nữ, chết đã hai mươi mốt năm, sống lại. Hoàn toàn bằng xương bằng thịt, trở lại cõi đời từ dưới nấm mồ. Ở thế giới nào khác, đây có thể là chuyện hoang đường, quỷ dị, nhưng trong thế giới của Đẹp là một nỗi đau thì không. Và, đến cả cái đẹp truyền kiếp của những phụ nữ trong gia đình Dewi Ayu dường như cũng vừa hoang đường quỷ dị vừa bình thường, hợp lẽ. Qua bao biến động và thăng trầm lịch sử của Indonesia, từ thời thuộc địa Hà Lan cho tới Thế chiến thứ hai với sự hiện diện bạo tàn của phát xít Nhật, rồi thời độc lập với cuộc xung đột một mất một còn giữa thế lực tư bản đang lên và những người cộng sản trung kiên, những người đàn bà đó, dẫu có làm gì, dẫu được xã hội gọi là gì, vẫn luôn là họ, những phụ nữ đẹp cả bên ngoài lẫn bên trong, để rồi đều được số phận đáp lại bằng một cách mà họ không chờ đợi. Nếu sắc đẹp là một trong những đặc tính vĩnh hằng của gia tộc này và có lẽ của cả Halimunda, quê nhà họ, thì nỗi đau cũng là một đặc tính vĩnh hằng. Đẹp là một nỗi đau, tiểu thuyết đầu tay của Eka Kurniawan, viết khi tác giả chưa đầy ba mươi tuổi, là một tác phẩm đẹp, đau, thực sự khó quên. *** Sau khi lau chùi vũ khí, sửa chữa mũ mãng, đặt cho ngựa và cho mình một cái biệt hiệu khá oai, chàng thấy còn một việc nữa là phải tìm một tình nương, vì một trang hiệp sĩ giang hồ không có người yêu ví như cây không lá không quả, như xác không hồn. - Miguel de Cervantes, Don Quijote *** Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm. Một thằng bé chăn cừu, bừng tỉnh sau giấc ngủ ngày dưới gốc cây đại, đã tè cả ra quần và hét toáng lên, rồi cùng với bốn con cừu chạy tán loạn giữa những tấm bia mộ bằng gỗ như thể người ta vừa ném một con hổ vào giữa chúng. Mọi chuyện bắt đầu từ tiếng động phát ra từ ngôi mộ cũ có tấm bia không tên ngập trong cỏ dại cao tới gối nhưng ai cũng biết đó là mộ của bà Dewi Ayu. Bà qua đời ở tuổi năm mươi hai và sống lại sau khi chết hai mươi mốt năm, và từ thời điểm đó trở đi không ai biết làm thế nào để tính chính xác tuổi của bà. Nghe thằng bé chăn cừu kể lại chuyện xảy ra, người trong xóm liền đổ tới chỗ ngôi mộ. Cuốn lại mép xà rông, bế theo con cái, ôm khư khư cán chổi, lấm bùn ngoài ruộng, họ tụ tập sau mấy bụi anh đào, rặng dầu mè và trong các vườn chuối gần đó. Không ai dám lại gần, họ chỉ lắng nghe tiếng ầm ào phát ra từ ngôi mộ cũ như thể đang túm tụm quanh người bán thuốc rong chào hàng ngoài chợ mỗi sáng thứ Hai. Tất thảy đám đông đều thích thú với cảnh tượng đáng sợ này, không hề bận tâm rằng giả như họ chỉ có một mình thì một nỗi kinh hoàng như thế chắc hẳn đã khiến họ chết khiếp rồi. Họ thậm chí còn chờ đợi một điều kỳ lạ nào đó, chứ không phải mỗi ngôi mộ cũ ồn ào, bởi người đàn bà nằm dưới ba thước đất đó từng là gái điếm cho người Nhật trong chiến tranh và đức kyai cũng luôn nói rằng, những người có tội lỗi ô nhục chắc chắn sẽ bị trừng phạt dưới mồ. Chính bởi thế mà âm thanh ồn ào đó dứt khoát là tiếng roi quất của một thiên thần đang đày đọa, nhưng họ dần dà thấy chán và hy vọng có điều kỳ diệu nho nhỏ nào khác nữa. Nhưng khi điều đó xảy ra, nó đến theo cách kỳ khôi nhất. Ngôi mộ rung lắc và rạn nứt, mặt đất bùng nổ tựa như bung ra từ sâu bên dưới, gây ra cơn địa chấn nhỏ và một cơn dông khiến cỏ giả và bia mộ bay ràn rạt, bên dưới làn mưa bụi đất như cả một tấm màn dày đó, xuất hiện hình dáng một người đàn bà lớn tuổi đứng dậy trông bực bội và cứng nhắc, thân thể vẫn bọc trong vải liệm như thể bà mới được chôn đêm trước thôi. Lúc này mọi người đều hoảng loạn chạy tứ tán, thậm chí còn hỗn loạn hơn cả bầy cừu, tiếng la hét của họ dội vang vào những dãy đồi ở phía xa. Một người đàn bà quẳng đứa bé con mình vào bụi cây còn bố nó trốn biệt sau thân cây chuối. Hai người đàn ông lao xuống mương, một số người lăn ra bất tỉnh bên đường trong khi một số người khác nữa chạy một mạch không ngừng mười lăm cây số. Chứng kiến tất cả những điều này, bà Dewi Ayu chỉ ho vài tiếng rồi hắng giọng, khoan khoái thấy mình đang giữa bãi tha ma. Bà cũng gỡ bớt nút thắt cao nhất của tấm lót bộ vải liệm, rồi nới lỏng bớt hai nút thấp nhất để hai chân có thể bước đi. Mái tóc bà đã dài ra một cách kỳ lạ, thế nên khi bà giũ tóc ra khỏi tấm vải hoa quấn quanh, nó xõa ra bồng bềnh trong gió chiều, quét lên mặt đất và óng ánh như lớp địa y đen dưới lòng sông. Tuy đã có nếp nhăn nhưng gương mặt bà vẫn trắng sáng, đôi mắt vẫn linh hoạt chăm chú nhìn đám người đứng xem đang bỏ chạy khỏi chỗ nấp phía sau bờ bụi, một nửa số họ chạy đi, số còn lại sắp ngất xỉu. Bà phàn nàn, không phải riêng với người nào, rằng người ta thật ác độc khi đã chôn sống bà. Điều đầu tiên bà nghĩ tới là đứa con nhỏ của bà, tất nhiên bây giờ nó không còn là đứa trẻ nữa rồi. Hai mươi mốt năm trước, bà đã chết mười hai ngày sau khi sinh hạ một bé gái hình hài gớm ghiếc, nó xấu tới mức bà đỡ khi đó còn không chắc nó có thực sự là một đứa trẻ không nữa, vì cái lỗ nơi nó chui ra và cái lỗ để thải phân chỉ cách nhau có hai xăng ti mét thôi. Nhưng rồi đứa trẻ này oằn mình vặn vẹo và mỉm cười, rốt cuộc thì bà đỡ cũng tin rằng nó thực sự là người chứ không phải phân và nói với mẹ nó, bấy giờ đang nằm mệt lử trên giường và không có vẻ gì khao khát được nhìn thấy con mình, rằng đứa bé đã chào đời, khỏe mạnh và có vẻ dễ gần. “Là con gái phải không?” Dewi Ayu hỏi. “Phải,” bà đỡ đáp, “giống như ba đứa trẻ ra đời trước nó vậy.” “Bốn đứa con gái, đứa nào cũng đẹp,” Dewi Ayu nói với giọng bực bội. “Lẽ ra tôi nên tự mở một nhà chứa mới phải. Nói cho tôi biết con bé này đẹp thế nào đi?” Đứa trẻ được cuốn chặt trong lớp tã bắt đầu oằn mình khóc trong vòng tay bà đỡ. Một người đàn bà đi ra đi vào căn phòng, vơ đống quần áo bẩn dính đầy máu mang đi, vứt bỏ nhau thai và suốt một hồi bà mụ không trả lời vì bà không sao có thể nói đứa trẻ trông giống đống phân đen sì này là xinh đẹp được. Cố tình phớt lờ câu hỏi, bà nói, “Cô đã lớn tuổi rồi, nên tôi e cô không đủ sữa nuôi con đâu.” “Đúng vậy, tôi đã bị ba đứa trước vắt kiệt rồi.” “Và hàng trăm thằng đàn ông nữa.” “Một trăm bảy mươi hai thằng. Người già nhất đã chín mươi, đứa nhỏ nhất mới mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó. Tôi nhớ tất cả bọn họ.” Mời bạn đón đọc Đẹp Là Một Nỗi Đau của tác giả Eka Kurniawan & Nguyễn Thái Hà (dịch )& Dương Kim Thoa (dịch).
Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường
⊹⊱ Phong, anh là ngọn gió mát lạnh thênh thang giữa đất trời trông trói buộc, thế nhưng không biết tự lúc nào, anh đã là ngọn gió ấm áp bên đời em, sưởi ấm con tim em, chỉ riêng em mà thôi. ⊰⊹ ⊹⊱ Có thể một khoảng khắc nào đó trong cuộc đời, anh sẽ không thể bên cạnh em nữa, nhưng em vẫn cứ vẫn tin bước tiếp nhé, vì anh sẽ luôn chờ em ở phía cuối con đường. Dù có khó khăn, giông bão gì, anh vẫn đợi em, đợi em vượt qua nỗi buồn, đợi em vui vẻ nắm lấy tay anh đi hết những quãng đường còn lại. ⊰⊹ ⊹⊱ Anh là ngọn gió, là ánh mặt trời, là tia hy vọng trong cuộc đời em. Vì vậy anh chỉ được thuộc về em, chỉ của một mình em thôi đấy! ⊰⊹ *** 7h30' sáng Sân bay Tân Sơn Nhất Một người con gái nhỏ nhắn, phong cách ăn mặc hơi bụi bặm với chiếc nón lưỡi trai che khuất một phần gương mặt hoàn mĩ đang kéo vali bước ra hòa vào dòng người tấp nập. Đứng lặng trước cửa sân bay, cô dõi mắt xuống đường phố ngoài kia. Sài Gòn lại mưa nữa rồi, sau 10 năm, Sài Gòn vẫn đón chào người con gái bé nhỏ này bằng một cơn mưa. Ừ thì cô thích mưa, rất thích nhưng giờ đây, ở tại nơi này, nó lại làm cô nhớ đến những ngày đã từng hạnh phúc trong quá khứ. 10 năm, rất dài mà cũng rất ngắn, những kỉ niệm đẹp đó tưởng chừng như mới xảy ra ngày hôm qua. Cuộc đời này vùi dập cô, đưa cô từ bất hạnh này đến bất hạnh khác. 10 năm qua có được bao nhiêu ngày cô sống trong hạnh phúc thực sự? Có chăng thì cũng chỉ là những nụ cười giả tạo, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi trong đêm. Cô không có bất kì một người bạn nào cho đến năm 11 tuổi, mọi người xung quanh đều nhìn cô bằng ánh mắt khinh bỉ, những đứa trẻ cùng trang lứa ai cũng mắng cô là “Đồ mồ côi“. Ừ thì cô mồ côi. Ha, mồ côi nhưng vẫn còn ba - người đàn ông đáng khinh nhất trên đời này. Một chiếc xe sang trọng đỗ xuống trước mặt cô, người lái xe cung kính cúi đầu, cô đưa hành lí cho ông ta rồi lấy một cây dù, bảo ông ta về trước còn mình thì lặng lẽ bước đi ngắm nhìn đường phố Sài Gòn. Sài Gòn thay đổi nhiều quá, ồn ào hơn, tấp nập hơn nhưng cũng buồn hơn... Trời mưa nên rất ít người đi lại trên vỉa hè, cô rảo bước thật chậm, ngắm nhìn dòng người tấp nập vội vã trong cơn mưa. Những con người ngoài kia, chắc ai ai cũng có những hoài bão, những ước mơ cho riêng mình, không như cô, sống chỉ vì một người - một tia hy vọng nhỏ nhoi trong cuộc đời tối tăm lạnh lẽo của cô, một người mà cả đời này có thể cô sẽ không bao giờ gặp lại. Mưa ngày một lớn, tiếng mưa rơi phát ra âm thanh lộp bộp trên chiếc dù của cô, nghe thật vui tai. Đường phố vắng người hơn, thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe lướt nhanh qua. Quả thực bây giờ, cô rất muốn vứt chiếc dù này qua một bên, để cơn mưa lạnh buốt xối thẳng vào người cô.   Mời các bạn đón đọc Vẫn Có Một Người Đợi Em Nơi Cuối Con Đường của tác giả Sky Angels.
Tây Thu Tiểu Công Chúa
Để tôi kể bạn nghe, câu chuyện về cô bé Tây Thu già trước tuổi, con gái nhà bác bán đậu phụ cuối chợ. Cô bé lên cấp ba thì được chuyển vào ngôi trường mới, học cùng với con trai nhà bác bán kim cương đá quý. Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi vì nó là một câu chuyện học đường, không quá cao trào, kịch tính, chỉ là vài chuyện linh tinh của một cô bé con, trường lớp bạn bè xung quanh cô. Mình viết bộ này vì mấy bộ kia làm mình stress và ám ảnh kinh khủng nên phải viết cái gì nhẹ nhàng tươi mới cho tâm trạng phấn chấn lên một chút. Là một câu chuyện ONGOING và viết theo cảm xúc và cho nên không có thời gian ra chap cụ thể, có thể ba ngày, một tuần, cũng có lúc bế tắc thì cả tháng. Các bạn cân nhắc trước khi nhảy hố. P/S: Lan Rua’s Story ~ Porcupine & Duck Family. *** Review Ý Văn: Tôi đọc "Tây thu tiểu công chúa" cũng không phải là mới đây và phải nói là tôi đã khá ấn tượng với câu chuyện của Lan Rùa. Chuyện bình thường về một cô bé con bác bán đậu hũ và cậu con trai của đại gia kim cương. Cũng thuộc kiểu mô-tip lọ lem - hoàng tử nhưng bù lại ở đây, Lan Rùa cho tôi một góc truyện mà theo tôi thấy thì nó... mới mẻ hơn. Tây Thu là một cô bé nhà nghèo, nung nấu cho riêng mình một giấc mơ du học. Ngay từ những chương đầu, có thể thấy được sự quyết tâm của Tây Thu lớn đến thế nào. Và dù có chuyện gì xảy ra, Tây Thu cũng nhất định cố gắng cho bằng được. Còn Khôi, là con một đại gia nổi tiếng, là người mà mọi cô nàng trong trường ao ước được ngắm nhìn. Thế nhưng Khôi mắc một chứng bệnh khiến cậu không thể giao tiếp bình thường với mọi người. Cậu chủ động tách biệt ra với lớp, lầm lì và ít nói. Cũng như những gì bọn mình dự đoán được thì Thu là người khiến Khôi chủ động nói chuyện nhiều hơn. Rồi từ đó một tình yêu màu hường thời cấp ba được tô đậm. Văn phòng của Lan Rùa trong tác phẩm này rất hài hước, nhiều đoạn đọc khiến tôi cười ngất. Lắm lúc mà Khôi ghen tuông hờn giận thật sự tuy mình nhìn vào thấy "có thế thôi" nhưng cái sự trong cuộc thì chao ôi, chẳng ai ngờ. Ngoài cặp chính ra còn có cặp Chi - Hưng, cặp đôi chật vật lắm mới đến được với nhau. Bởi ban đầu Chi thích Khôi, và Hưng thì mặc cho điều đó cứ mải mê theo đuổi Chi. Ngoài các tuyến nhân vật trên còn có thêm nhiều những nhân vật khác nữa, đóng góp không nhỏ cho tác phẩm này. Đặc biệt phải kể đến ba mẹ Thu, mẹ Khôi và dì của Khôi. Mặc dù bây giờ đọc lại tuy tôi vẫn thấy tan chảy với tình yêu đẹp đẽ của đôi trẻ nhưng có chút gì đó khiến tôi cảm thấy thật mơ hồ, nội dung có phần hơi trẻ con và không ấn tượng mấy. Dẫu vậy tôi vẫn dành 4/5 sao cho chính những cảm xúc ngày đầu của tôi. Còn bây giờ, 3/5 sao là những gì tôi nhận thấy. Có lẽ... góc nhìn tôi bây giờ khác với tôi ngày xưa. *** Cảnh báo: Đây là một bộ truyện TEEN đích thực, chỉ thích hợp với teen thôi, truyện học đường. Chào các cậu! Hôm nay là sinh nhật lần thứ 14 của tớ. Ba mẹ tặng cho tớ một quyển sổ xinh xắn lắm, dùng để viết nhật kí. Cả đời tớ chưa bao giờ được dùng một quyển sổ đẹp đến vậy, nghe nói trị giá của quyển sổ này tương đương với hai mươi tư bìa đậu. Tớ trước giờ chưa bao giờ viết nhật kí cả, chẳng biết viết gì luôn. Xem nào, nên giới thiệu họ tên trước nhỉ, tớ tên Thu, nhưng vì nhà tớ bán đậu phụ ở cuối chợ nên bạn bè bà con cô bác thường gọi là Tây Thu, so sánh với Tây Thi ấy mà. Khổ nỗi Tây Thi đẹp nghiêng nước nghiêng thành, còn Tây Thu tớ đây, đi đến đâu cũng được nghe người ta khen, con này xấu quá, xấu lạ. -“Thu, đi giao hàng con.” Ba tớ gọi rồi, tạm bỏ bút. Thực ra thì tớ cũng không nghĩ mình xấu tới mức đấy đâu, có chăng chỉ là da đen nhẻm thôi. Biện minh chút xíu nha, da tớ thuở bé trắng lắm đấy, mà tội đi ship tào phớ nhiều nên bị cháy nắng. Ngày xưa nhà tớ chỉ bán hàng ở cuối chợ thôi, nhưng từ ngày tớ lên lớp 7, một lần tình cờ chơi facebook thấy hay hay, liều mình lập page Tây Thu Đậu Phụ, xong chuyển cả qua bán online nữa. Lúc nào tớ rảnh đều phụ ba đi giao hàng, toàn đi bằng xe đạp thôi, đến hơi bị chậm ý, nhưng khách họ hay thương trẻ con lém, không mắng mỏ gì cả. Mẹ tớ về sau làm thêm cả mấy món ăn vặt như nem chua, cóc dầm, xoài dầm, ốc xào…bán chạy không kém gì tào phớ cả, tuy nhiên nghề chính vẫn là làm đậu. Mời các bạn đón đọc Tây Thu Tiểu Công Chúa của tác giả Lan Rùa.