Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Du Nữ

Saikaku Và Thế Gian Đa Tình "Con người là những hiện thân ma quái”, đó là nhận xét của Ihara Saikaku, văn hào Nhật Bản thế kỷ XVII. Đó không phải là một lời phê phán về đức lý mà chỉ miêu tả tài tình bản tính của con người bằng một mệnh đề ngắn gọn. Những hiện thân ma quái, ôi con người, đó là hữu thể khó nắm bắt nhất, khó định tính nhất. Đó là một sinh vật đa chiều. Nhận xét của Saikaku tình cờ phù hợp và như thể là cộng hưởng với lời thơ Hy Lạp trong khúc hợp xướng thứ nhất từ vở bi kịch Antigone của Sophocles: “Nhưng không gì vượt qua nổi con người Trong sự kỳ lạ của nó!” Chính bản thân Saikaku cũng là một hiện tượng lạ trong văn học Nhật, người có thể được so sánh với Rabelais của văn học Pháp về một tiếng cười chói lọi mà cả hai đã ném vào đời sống. CHÂN DUNG CỦA “VẦNG TRĂNG PHÙ THẾ” Ihara Saikaku (1641 – 1693) là người cùng thế hệ với thi hào Basho dù hai người ít có điểm chung nào về tâm hồn lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, trong 26 năm sáng tác đầu tiên (Saikaku bắt đầu viết văn vào tuổi 14) ông chuyên tâm làm thơ, nhất là thơ haiku. Ông có tài làm thơ nhanh đến mức nổi danh là “Nimano” (Nhị Vạn Ông). Vì trong một cuộc thi thơ, Saikaku đã đọc hầu như liên tục hơn hai vạn bài haiku, chính xác là 23.500 bài, trong khoảng thời gian một ngày (đúng 24 giờ đồng hồ) vào năm 1684 trước ngôi đền Sumiyoshi ở Osaka. Đó là một kỷ lục thơ ca không thấy ai tìm cách vượt qua. Khả năng sáng tác thần tốc ấy không mấy thích hợp cho thơ trữ tình – hàng vạn bài haiku (hay haikai theo cách gọi thời đó) mà ông làm rồi ra sẽ không còn vương lại trong trí nhớ ai. Tuy vậy vào năm 1672 Saikaku cũng đã là nhân vật trung tâm của một nhóm nhà thơ tiên phong đi theo phái Danrin. Và tác phẩm đầu tiên của Saikaku được ấn hành nằm trong tập thơ haiku của nhóm này xuất hiện vào năm 1673. Cho dù sau này nổi tiếng là một tiểu thuyết gia lỗi lạc, Saikaku cũng dành cho thơ không ít thời gian. Tính đến cuối đời, ông xuất bản chừng khoảng 12 tập thơ và tác phẩm phê bình thơ. Nuôi ba đứa con, trong đó có một đứa con gái mù. Ông không tục huyền bao giờ và năm 1677, làm lễ thí phát, một cử chỉ khá thông thường của các nghệ sĩ thời đó khi muốn dành cuộc đời mình cho sáng tạo nghệ thuật hoặc đi tu. Năm năm sau, vào tuổi 40, ông đạt được thành công lớn khi quay ngòi bút sang văn xuôi với cuốn tiểu thuyết Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko). Cuốn sách ấy mở đầu cho hàng loạt tác phẩm “Phù thế thảo tử” (Ukiyo zoshi) của ông, ảnh hưởng đến cả thời đại. Và Saikaku trở thành tiểu thuyết gia hàng đầu, linh hồn của thời Phục hưng Nhật Bản. Saikaku tuy không phải là người sáng tạo ra văn chương phù thế, tức “Phù thế thảo tử” nhưng ông đã đem lại cho nó một màu sắc huy hoàng, tựa như tranh khắc gỗ, vẽ lại cuộc sống đa tình của thế gian, kể cả những hiện thân ma quái của nó. Phù thế, ấy là Ukiyo, là cõi người ta. Uki là “ưu” (ưu sầu) nhưng cũng là “phù” (trôi nổi). Cuộc đời hẳn nhiên là phù ảo nhưng cuộc đời cũng là phiêu lãng. Phiêu lãng là sống. Là đi. Là yêu. Là ôm ấp trần gian. Là mộng. Là bay đi theo hương. Là phong ba. Là cát bụi. Là không chết trong khi sống. Là cười cho cả tiếng. Là khóc cho khô lệ. Là một hiện thân tràn đầy của từng khoảnh khắc. Văn chương phù thế, mà Saikaku là người dẫn đầu, là văn chương của những ngọn sóng náo nức, mãnh liệt, lúy túy, nén mình về phía trước mà quay lưng lại với những thần linh xưa cũ. Sống là sóng, là nổi sóng, là thay đổi, là trôi, là dâng tràn. Và con người đô thị, những thị dân Edo chợt khám phá ra tiếng nói của chính mình nơi Saikaku. Khác với võ sĩ đạo, các thị dân ấy đã có con đường của riêng mình gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo). Các nhân vật của Saikaku, cả nam lẫn nữ, đều phiêu lãng trên con đường ấy, cuồng nhiệt và liều lĩnh, ngây thơ và sành sõi, đa tình và tuyệt vọng, thường vấp phải sai lầm nhưng tất cả đều không sợ sống. Sau đó ít năm, Saikaku thử bút trong lãnh vực sân khấu, viết kịch bản cho múa rối (Joruri). Cũng như trong thơ, ông không đọ nổi với Basho thì trong sân khấu, ông chẳng bì được với Chikamatsu. Vở kịch ông soạn vào năm 1685 chỉ là một thất bại. Ngoài ra ông cũng viết một số bài phê bình về kịch nghệ Kabuki. Và với năng lực tài hoa của mình, Saikaku còn đi vào hội họa, vẽ minh họa cho một số tập thơ và tiểu thuyết của chính ông. Các minh họa phù thế thảo tử của ông được yêu thích và nhiều nhà phê bình đánh giá khá cao. Chưa hết, Saikaku còn là một nhà thư pháp có tiếng. Do thành công của cuốn truyện đầu tay, Saikaku tiếp tục viết tiểu thuyết. Từ đó, đến cuối đời, cứ trung bình mỗi năm ông cho ra hai tác phẩm. Đặc biệt, vào năm 1688 sức sáng tạo của ông lên đến tuyệt đỉnh, hoàn thành tất cả 5 tác phẩm dài. Như vậy, viết tiểu thuyết trong khoảng 10 năm cuối đời, ông đã có không dưới 25 bộ sách. Saikaku mất vào tuổi 51. Trước đó ông soạn bài haiku từ biệt thế gian: “Vầng trăng phù thế Hai năm dài tôi đã Dõi đôi mắt nhìn theo.” Di cốt tro tàn của Ihara Saikaku được chôn cất trong chùa Seigan ở Osaka. Saikaku theo sự mô tả của thời ấy có một mái đầu thanh tú và lãng mạn, một dáng dấp trẻ trung. Chân dung ông do nhà thơ Haga Issho đương thời vẽ cho thấy một con người có vóc dáng nhỏ bé đầu cạo trọc, ngồi trầm tư trên sàn với tấm áo choàng truyền thống, đôi tai mở lớn như đang chăm chú nghe, đôi mắt đang nhìn chăm chú một điều gì đó, đôi bàn tay đặt lên nhau trên đầu gối thì rất nhỏ nhưng gân guốc. Toàn thể chân dung ấy toát lên một tính cách mãnh liệt, tràn trề sinh lực, một cái nhìn sắc sảo tinh anh, một hài hước sành đời và một lòng bao dung đầy hiểu biết. Đó là chân dung của một vầng trăng trầm lặng nhưng nồng nàn. Sự trộn lẫn giữa bóng tối và ánh sáng. CHỦ ĐỀ ĐA TÌNH Tiểu thuyết của Saikaku có thể chia làm hai đề tài lớn: Sắc dục và tiền tài. Trước hết là các tác phẩm về sắc tình, gọi là Koshokubon (Hiếu sắc bản). Thứ hai là các tác phẩm về đời sống thực tiễn hàng ngày của thị dân gọi là Choninmono (Đinh nhân vật) hầu như lúc nào cũng liên quan đến tiền tài. Tiểu thuyết những năm đầu thường tập trung vào đề tài sắc dục. Càng về sau Saikaku càng chú ý đến đời sống kinh tế của thị dân. Đa tình, hay “hiếu sắc”, là chủ đề đặc biệt đã làm nên danh tiếng của Saikaku và cũng là yếu tố từng làm cho người ta loại trừ ông trong một thời gian dài. Những tác phẩm hiếu sắc – gọi như thế vì chữ Koshoku (hiếu sắc) được Saikaku đưa vào nhan đề nhiều tiểu thuyết ban đầu của ông: ▪ Người đàn ông đa tình (Koshoku ichidai otoko: Hiếu sắc nhất đại nam, 1682) ▪ Người đàn bà đa tình/ Đời du nữ (Koshoku ichidai onna: Hiếu sắc nhất đại nữ, 1686) ▪ Năm người đàn bà đa tình (Koshoku gonin onna: Hiếu sắc ngũ nhân nữ, 1686) Và ngay cả những tác phẩm mà nhan đề không có chữ “Koshoku” thì trong thời kì đầu ấy vẫn xoay quanh đề tài sắc tình. “Koshoku” ám chỉ tình yêu lẫn sắc dục trong mọi phương diện của nó, có khi bao gồm cả những mối quan hệ yêu đương đồng tính – Các nhân vật ấy thường đa tình đến cực điểm, cả nam lẫn nữ. Hiếu sắc có thể là lần lượt có nhiều người tình khác nhau trong cuộc đời. Nhưng hiếu sắc cũng có thể là chung tình đến cực điểm, có thể cùng nhau chết (tự sát đôi) để bảo vệ tình yêu. Hiếu sắc có thể là nỗi đam mê với trần gian muôn màu, niềm vui sống (Joie de vivre) lúy túy trào dâng. Thế gian xuất hiện trước mắt Saikaku là một thế gian đa tình. Hay trong ông là cả thế gian ấy, là cả người đàn ông, là cả người đàn bà. Con người trở thành nhan sắc của chính cuộc đời chứ không phải chỉ có vẻ đẹp của hoa đào, hoa mơ, hay trăng, nước. Ngắm hoa ư? Được. Ngắm trăng ư? Được. Nhưng con người, đó chính là hoa, là trăng của thời đại mới. Ngắm đi. Nâng niu đi. Ôm ấp đi. Phố xá bỗng nhiên trở thành những bài thơ mới và con người trở thành những bức tranh mới. Một truyện ngắn của Saikaku bắt đầu như thế này: “Tôi chán những đám mây hoa đào đến độ xa lánh kinh đô suốt cả mùa xuân”. Xưa nay, với người Nhật chẳng có gì đẹp bằng hoa anh đào. Thế mà ở đây, chẳng những nó mất hết vẻ quyến rũ mà còn gây buồn phiền khó chịu. Không phải Saikaku tấn công vào hoa đào và thiên nhiên. Nhưng ông thấy rõ thời đại của “hoa” đang nhường lại ngôi vị ưu tiên cho thời đại của “người” với tất cả cái đẹp và cái xấu của nó. Sau chiến tranh, con người đang tận hưởng tự do và những lạc thú mới. Họ trở nên phóng đãng, lao vào sắc dục như những con thiêu thân. Và cái gì quá độ mà chẳng có nguy cơ lố bịch. Saikaku thấy rõ thời đại mới đã đánh mất các cảm thức tinh tế của ngày xưa, thấy rõ sự dung tục đang lan tràn trong lối sống thị dân. “Người ta đến rừng mơ ở Kitano hay viếng hoa tử đằng ở Otani nhưng không phải để ngắm hoa mà để vò xé nó. Người ta nhìn làn khói hùng vĩ tuôn trào từ đỉnh Toribe để chỉ thấy nó không khác nào khói ống điếu!” Trích đoạn trên nằm trong Người đàn ông đa tình. Đó là câu chuyện về cuộc đời phóng đãng của một chàng trai tên là Yonosuke, có nghĩa là “con người của thế gian”. Đứa con trần thế ấy có mặt trong tất cả các chương sách với những phiêu lưu tình ái. Nó theo đúng số chương sách của Truyện Genji do nữ sĩ Murasaki viết từ đầu thế kỷ XI dù nó là một cuốn tiểu thuyết ngắn chứ không phải một tác phẩm trường thiên như kiệt tác cổ điển kia. Và khác với Truyện Genji, nó thuộc vào một thời đại mà người ta bộc lộ nhục cảm một cách táo bạo. Nhục cảm koshoku đã thay thế cho niềm bi cảm aware thời cổ điển. Đúng ra, cái gọi là tình ái ở đây chỉ là những cuộc ăn chơi phóng đãng qua các thành phố Edo, Osaka, Kyoto… và cái đó gọi là “tự do”: “Hơn bất kỳ điều gì khác trên đời, Yonoseko yêu tự do”. Như thế, Yonoseko là một mẫu người dục tính, khác với Hoàng tử Genji là con người lãng mạn. Con người lãng mạn đi tìm cái đẹp, cứu vớt cái đẹp và sáng tạo cái đẹp. Cỏ hoa, bóng trăng, nhan sắc và tâm hồn được tái tạo và huyễn hóa. Con người dục tính thuộc về thế gian này, khoảnh khắc này, nhục thể này. Nó tìm kiếm hoan lạc khắp nơi. Nó lấy thực làm mộng, nó không vỡ mộng nhưng lại làm vỡ thực tại với dục vọng của mình. Và khi con người dục tính làm “tiên tri” thì nó chỉ có thể là tiên tri giả. Yonoseko từng đóng vai một nhà tiên tri thần đạo mà hát to trên đường rằng “ngọn gió thiêng sẽ thổi và tàn sát tất cả các cô gái nào ở tuổi mười bảy đôi mươi mà vẫn còn trinh trắng”! Vậy mà Người đàn ông đa tình vẫn còn chút ít màu sắc lãng mạn nếu đem so sánh với tiểu thuyết viết sau đó bốn năm là Người đàn bà đa tình, tức Đời du nữ. Nhân vật trung tâm lần này là một du nữ và đây là câu chuyện của thân xác nàng. Đó là một thân xác liên kết mọi biến cố trong đời nàng và vì vậy trở nên một thân xác “có tính cách”. Nàng là nhân vật tiểu thuyết được tạo dựng sinh động nhất của Saikaku, một chân dung mang nhiều màu sắc hiện thực tâm lý nhất của văn học Nhật Bản đương thời. Các chương của tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất trong truyền thống “Sám hối vật ngữ” (Zange monogatari) tức loại truyện tự thú, tự bạch. Tên thật của nhân vật không hề được nêu lên. Xuất thân từ một gia đình tử tế, nàng làm thị nữ cho một phu nhân ở triều đình. Nhưng sau đó bị đuổi đi vì tội vụng trộm tình ái lúc mới 12 tuổi. Không bao lâu, gia đình nàng sa sút, nàng bị bán vào “thành phố không đêm” Shimabara ở Kyoto. Những thành phố không đêm (Fujajo: bất dạ thành) là các khu vực vui chơi thời ấy. Vừa là chốn ăn chơi, vừa là trung tâm của đời sống xã hội nghệ thuật. Đó là các khu phố Yoshiwara ở Edo, Shimabara ở Kyoto và Shinmachi ở Osaka. Những khu phố ấy bao gồm các thanh lâu, nhà tắm, lữ quán, sân khấu… chứa đựng đông đảo các du nữ, vũ nữ, vai hề, diễn viên cùng với những người hầu, phục vụ và buôn bán. Chính các thị tứ của lạc thú ấy đóng một vai trò quan trọng làm nên văn hóa thời Tokugawa (1600 – 1868). Bởi vì là nguồn đề tài bất tận cho nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia, họa sĩ và cả thơ. Nhân vật chính của các thành phố không đêm là du nữ (Yujo: gái làng chơi, các ả đào). Họ đàn hay, múa giỏi và nghệ thuật ứng xử, trò chuyện khéo léo… Những thị tứ như vậy được gọi là Yukaku (du quách). Shimabara chính là một Yukaku, ở đó bắt đầu cuộc đời lưu lạc khắp xứ của người đàn bà đa tình. Nàng lần lượt là du nữ, là tình nhân của một nhà sư, là thầy dạy viết thư, hầu phòng, hầu gái, ca nữ, gái nhà tắm, trà thất và khi xuống tận đáy, làm cả gái điếm đường. Có một số yếu tố khách quan từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nhưng vẫn không mạnh bằng bản chất “Koshoku” (hiếu sắc) ở nàng. Nàng không hề là một nhân vật lãng mạn. Nàng đến với đàn ông bằng thân xác chứ không bằng tình yêu và giấc mơ. Nàng tống khứ cả tôn giáo ra khỏi ngày lễ của nó, ra khỏi tâm hồn một sư già đang mặc tăng bào, cầm kinh khí tượng A di đà. Có lúc nàng hóa thành lang thang trên đường và hát theo vũ khúc xưa: “Ta cần một người đàn ông! Ta cần một người đàn ông!”. Về già, khi không còn có thể tìm thấy lạc thú nào nữa, đứng trước dãy tượng Ngũ Bách La Hán ở chùa Đại Vân nàng vẫn đầy ắp trong tâm cuộc sống hoan lạc cũ. “Khi đứng yên lặng ngắm nhìn năm trăm vị Phật này, Tôi cảm thấy rằng từng vị một gợi cho tôi nhớ đến mỗi người đàn ông mà tôi đã từng giao hoan trong quá khứ.” Ngay cả Phật cũng không thoát khỏi sự cảm nhận của nàng bằng thân xác là đàn ông, là nam và nàng là người nữ, dường như đó là điều nàng quan tâm trong suốt cuộc đời. Về cuộc đời, nàng ngỡ rằng mình đã thoát khỏi “những đám mây ảo vọng của chính mình”. Nàng lầm. Người đàn bà đa tình là nàng, là du nữ trong bản chất, là cư dân vĩnh viễn của những thành phố không đêm. CON ĐƯỜNG CỦA THỊ DÂN Đề tài thứ hai mà tiểu thuyết của Saikaku thường khai thác là tiền tài. Biết sử dụng tiền tài là một trong những yếu tố của Chonindo (Đinh nhân đạo). Những câu chuyện về thị dân và tiền tài thuộc về chủ đề Choninmono (Đinh nhân vật) mà Saikaku bắt đầu với bộ Kho tàng vĩnh cửu (Nippon Eitaigura: Nhật Bản vĩnh đại tàng, 1688). Đó là một tập sách gồm 30 truyện diễn tả các phương cách kiếm tiền và tiêu phí nó của thị dân. Cuốn sách được xem là bộ cẩm nang làm giàu và vì thế đã trở thành kinh thánh của thế kỷ XVIII. Giá trị của Kho tàng vĩnh cửu chính là bức tranh hiện thực về thế giới thị dân dưới ảnh hưởng của tiền tài. Saikaku có lẽ là tác giả đầu tiên ở Nhật đề cập đến đời sống kinh tế một cách cụ thể, linh hoạt và đầy đủ đến như vậy. Saikaku cũng là nhà văn đầu tiên vạch ra đường lối sống của thị dân, có thể gọi là Chonindo (Đinh nhân đạo), khác với tính cách cứng nhắc của võ sĩ đạo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ông đồng tình với việc làm giàu bằng mọi giá. “Những cách làm tiền bỉ ổi” bị ông vạch ra trong Kho tàng vĩnh cửu với lời kết luận như sau: “Chỉ người nào mưu sinh bằng những phương tiện đàng hoàng mới đáng gọi là người. Đời sống của con người có lẽ chỉ là giấc mơ, nhưng dù chỉ kéo dài độ năm mươi năm thì chọn một công việc tử tế trong thế gian này hẳn là cũng tìm được thôi”. Ảnh hưởng của tiền tài trong đời sống thị dân còn có thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm khác của Saikaku, đáng kể hơn cả là cuốn sách ấn hành vào khoảng cuối đời, mang tên Nợ nần thế gian (Seken Munesanyo, 1692). Đây cũng là tập truyện ngắn. Những câu chuyện xoay quanh ngày cuối năm, thời điểm phải lo thanh toán mọi nợ nần. Đời sống tối tăm đầy lo buồn của những thị dân hiện lên trên các trang sách này khác hẳn với đời sống xa hoa của những nhân vật mà Saikaku phác họa trong thời kỳ đầu. Không phải là những cá nhân đào hoa mà là những tập thể lầm than. Cũng không còn vấn đề làm giàu như trong Kho tàng vĩnh cửu nữa mà chỉ còn là vấn đề trả nợ trong địa ngục năm tàn. “Mùa cuối năm đầy những chuyện mà người đứng ngoài cũng thấy nát lòng!”. Ở đây hầu hết các nhân vật không có tên mà chỉ có những danh từ chung để chỉ các quan hệ xã hội: ông chủ, bà chủ, người thâu tiền, thư ký, người nghèo, người vợ, người con… Ngoài hai chủ đề trên, Saikaku còn viết các tạp thoại bao gồm những truyện truyền kỳ, truyện võ đạo và cả truyện trinh thám. Nổi bật trong loại này là Truyện các xứ (Shokoku banashi, 1685). Qua Truyện các xứ, Saikaku muốn thám hiểm “cuộc đời trong tất cả chiều rộng của nó”. Nó gọi ta nhớ đến Truyện mười ngày của Boccaccio vào thời Phục hưng ở Ý. Vẻ đẹp và thói xấu của con người trong các tác phẩm ấy đều có vẻ lý thú. Đó chính là hình ảnh con người như “hiện thân ma quái”. Đó là con người trong một thế gian có muôn màu kỳ diệu, có hoan lạc, có đau khổ, có bất trắc, có bình an… nghĩa là một thế gian đa sự, đa tình. Cái hiện thực căng đầy ở Saikaku thường đi đôi với sự trào lộng. Như chính cuộc đời, ngay cả trong những cảnh bi đát, Saikaku vẫn để lóe lên tia sáng nghịch thường. Theo Hibbett đó là “nghệ thuật đan xen ánh sáng và bóng tối” của Saikaku và cho rằng: “Bằng cách trộn lẫn trào tiếu với trang nghiêm, Saikaku đã sáng tạo ra một phong cách hiện thực châm biếm đầy chất thơ để có thể miêu tả cả phương diện vui thú lẫn buồn phiền của cõi phù thế”. Tính chất hiện đại của Saikaku đã làm dậy lên một phong trào khôi phục ông vào cuối thế kỷ XIX sau khi ông bị lãng quên gần hai thế kỷ. Người ta chợt nhận ra rằng, hóa ra ngay từ thế kỷ XVII, văn học Nhật đã biết đến một chủ nghĩa hiện thực tràn trề sự sống. Với Saikaku, “những con người phù thế khám phá ra rằng các câu chuyện kể về những rồ dại và mê cuồng của họ cũng hứng thú như bất kỳ truyện kể nào nhập từ Trung Quốc sang hay của ngày xưa truyền lại. Gái hồ ly, võ sĩ và các tiểu thư vẫn còn là thời thượng văn chương đấy nhưng đã có vẻ sáo mòn, khác với các nhân vật phù thế như chàng tuổi trẻ phóng đãng, như các du nữ tài sắc quyến rũ hoặc người vợ bướng bỉnh ngang tàng” (Hibbett, The Floating in Japanese Fiction, Tokyo 1992). Những gì Saikaku sáng tạo vào cuối thế kỷ XVII giữa một xứ Phù Tang đóng kín đến nay vẫn còn tràn đầy một niềm vui sống say nồng. Con người thời đại, cho dù ở xa Nhật Bản, vẫn tìm thấy hình bóng mình trong các tác phẩm của Saikaku, cả vẻ đẹp lẫn thói xấu, cả sắc lẫn tình, cả chơi đùa và bán buôn, cả trang trọng và khôi hài. Và nhất là đọc ông, ta chợt nhận ra thế gian quanh ta đa tình biết mấy! NHẬT CHIÊU *** Thời đại Edo (1603 – 1867) dưới sự lãnh đạo của Mạc phủ Tokugawa kéo dài 264 năm có thể xem là một trong những thời kỳ êm đềm nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với chính sách bế quan tỏa cảng, người Nhật dựa vào nội lực của chính mình để phát huy đặc tính văn hóa trên tất cả lĩnh vực từ cá tính dân tộc, tay nghề, mỹ thuật… Giai cấp samurai được khuyến khích coi trọng văn hơn võ; giai cấp thương gia ngày càng trở nên giàu có. Thêm vào đó nhờ vào sự phổ cập các trường tư thục, trường dạy trong chùa (terakoya 寺子屋) và kỹ thuật in ấn phát triển, sách in bằng bản khắc gỗ ra đời nên dân thường có điều kiện tiếp xúc với văn chương. Văn học được đại chúng hóa và văn hóa trở thành văn hóa của thị dân (Chonin bunka 町人文化). Sinh vào đầu thời Edo, Ihara Saikaku (Tỉnh Nguyên Tây Hạc 井原西鶴) (1642 – 1693) là nhà thơ haiku và tác gia tiêu biểu cho dòng tiểu thuyết “phù thế thảo tử”. Phần lớn cuộc đời ông viết về cuộc sống thị dân Edo với những mối quan tâm về tiền bạc và sắc tình. Với khả năng quan sát nhạy bén và tài năng đa dạng, Saikaku đã khắc họa tinh tế bản chất con người trong một xã hội của kim tiền và sắc dục. Những tác phẩm của ông vẫn còn có giá trị cho đến ngày hôm nay vì cho dù có văn minh đến đâu nhưng tâm lý con người ngàn năm nay vẫn không hề thay đổi. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là “Năm người đàn bà si tình” (Hiếu sắc ngũ nhân nữ 好色五人女). Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành 上田秋成) (1734 – 1809) vốn là con hoang của một kỹ nữ, sau được một thương nhân nhận nuôi để nối nghiệp nhưng cuối cùng lại chuyển sang nghề y. Ueda có niềm tin sâu sắc về những truyện huyền bí. “Vũ nguyệt vật ngữ” (雨月物語 Truyện kể trong mưa và trăng) đúng như tên gọi được viết xong vào đêm mưa tạnh trăng mờ năm 1768. Tuy viết về chuyện yêu ma quỷ quái nhưng lại ẩn chứa rất nhiều bài học về thế thái nhân tình. Hai tác phẩm tiêu biểu “Năm người đàn bà si tình” và “Vũ nguyệt vật ngữ” đặt song song và tương chiếu với nhau giúp chúng ta thấy được cuộc sống và quan niệm nhân sinh của người dân Nhật Bản thời Edo một cáchsống động và chân thực và từ đó có thể rút ra bài học cho chính mình trong cuộc đời hôm nay. Đặc biệt là lời cảnh tỉnh về sắc dục và ái tình. Từ xưa đến nay đã có biết bao nhiêu tấn tuồng đời diễn ra với mùi vị của kim tiền. Chính tiền bạc và sắc dục đã biến con người trở thành yêu ma, yêu ma vì tình mà trả thù người, người và yêu ma lẫn vào nhau, chung sống với nhau. Như xà tinh trong truyện “Con rắn tà dâm” vì tình mà uổng phí công tu luyện ngàn năm, nhà sư trong truyện “Chiếc khăn trùm đầu màu xanh” của “Vũ nguyệt vật ngữ” vì tình yêu với chú tiểu mà biến thành một con yêu quái. Chính Ueda Akinari cũng thừa nhận: “Trên núi ái tình mà bản thân Khổng Tử cũng trượt ngã, người đời dễ quên đi nghĩa vụ của mình và cả bản thân mình nữa”[1]. Còn truyện “Năm người đàn bà si tình” thì kết thúc hầu hết là bi thương, nhân vật chính không chết thì cũng đi tu. Ái tình đã biến thành nghiệp chướng. Cả hai tác phẩm này đều đã có bản dịch tiếng Việt dù không đầy đủ. “Năm người đàn bà si tình” của Ihara Saikaku được Phạm Thị Nguyệt dịch, Nhà xuất bản Tiền Giang ấn hành năm 1988. Còn “Vũ nguyệt vật ngữ” được Nguyễn Trọng Định dịch với tên “Hẹn mùa hoa cúc” do Nhà xuất bản Kim Đồng in năm 2000. Những trích dẫn trong bài của chúng tôi là lấy từ hai bản dịch này. ... Mời các bạn đón đọc Đời Du Nữ của tác giả Ihara Saikaku.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lâu Đài
Frank Kafka (3/7/1883 – 3/6/1924), sinh ra trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Prague, Bohemia (nay thuộc cộng hòa Czech), viết bằng tiếng Đức. Tác phẩm của ông, nhiều tác phẩm chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất – đã trở thành những thành tựu lớn, có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây. Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927) và nhiều truyện ngắn. *** Tiểu thuyết kể về một người làm đạc điền đến lâu đài của bá tước West West để tìm việc là K., anh được thông báo là chuẩn bị nhận việc, và chức sắc trong vùng là Klamm còn viết thư động viên K. làm việc. Tuy có quen một số người như Barnabás , Olga, Frida, nhưng K. cũng không sao gặp được nhà chức trách để xem kết quả tuyển dụng. * K. đành phải chờ và sống mòn mỏi , kiệt sức trong cảnh lo âu chờ đợi. K. sống trong một thế giới có thực mà cứ như là ảo, anh nhìn thấy Lâu đài, nhưng không sao trực tiếp gặp được Klamm cũng như chức sắc cao nhất trong vùng. Tiểu thuyết "Lâu đài" là hình ảnh huyền thoại về một tổ chức quyền lực quan liêu với những sợi dây vô hình đã trói buộc cuộc đời của từng con người. Thế giới của Lâu đài là thế giới của mê cung, mang sức mạnh siêu nhiên. Con đường dẫn K vào Lâu đài là một tiểu mê cung. Ngay từ đầu, K đã muốn đi vào nhưng con đường rất dài và nó không dẫn chàng đến Lâu đài. Khi đến gần, dường như cố ý, nó lại vòng sang lối khác. Nhìn từ xa, K có thể thấy Lâu đài, song chàng không thể và vĩnh viễn không bao giờ đến được Cùng với con đường, hình ảnh Lâu đài thấp thoáng hiện lên trái với logic thông thường. Lâu đài không có vẻ cổ kính, tráng lệ mà chỉ là những quần thể nhà hợp thành, không ai biết đó là Lâu đài. Có một tháp chuông nhưng không thể nhận ra đó là tháp chuông ở nhà thờ hay của nhà ở. Con quạ xuất hiện báo hiệu sự chết chóc. Đó là quan sát từ xa. Còn nhìn gần, "Lâu đài này trong thực tế chỉ là một thị trấn thảm hại". Tiếng chuông nghe ma quái "Đổ từng hồi trầm ấm vang lên một cách vui vẻ, tiếng chuông như đe dọa vì nó cũng vang lên đau đớn". Sau đó là những tiếng chuông yếu ớt vang lên "lay lắt". Bộ máy hành chính của Lâu đài cũng là một thứ mê cung. Lâu đài thông qua những mắt xích vô tận các viên chức, thư ký, liên lạc đều nhằm đích là chống lại K. Ngẫu nhiên, Lâu đài viết thư nhận K làm đạc điền, rồi có thư khen thưởng K về công việc tuy thật ra K chưa hề biết công việc đạc điền. Qua những cuộc tiếp xúc của K với nhân viên Lâu đài, ta thấy K bị lừa. Viên trưởng thôn đã nói trắng ra: "Những cuộc tiếp xúc ấy chỉ là giả tạo, nhưng vì thiếu hiểu biết ông lại tưởng thật". K chỉ còn biết tìm đến chánh thanh tra Klamm để tìm hiểu thực hư. Song, Klamm là một chánh thanh tra quan liêu, không thèm nói chuyện với bất cứ ai trong làng, chưa một ai thật sự biết mặt y, bởi Klamm luôn thay đổi hình dạng, bí hiểm. Vì vậy, K cố biết sự thật về Lâu đài, nhưng càng theo đuổi mục đích này, anh lại càng xa nó hơn. Lâu đài là một mê cung của thế giới hành chính quyền lực vô hình. Nó cũng giống như mê cung luật pháp trong Vụ án: không thể tiếp cận, không thể tìm gặp, nó tồn tại trong cụ thể; khắp mọi nơi đều có nó mà vẫn như không có nó. *** Khi K. đến nơi thì đêm đã khuya. Ngôi làng yên nghỉ dưới lớp tuyết dày. Sương mù và bóng tối bao phủ, không thể nhìn thấy ngọn đồi có thành lũy và tòa Lâu đài lớn, dù chỉ là một ít ánh sáng mờ nhạt nhất. K. đứng hồi lâu trên chiếc cầu gỗ dẫn từ đường quốc lộ vào làng và nhìn vào khoảng không. Sau đó chàng đi tìm nơi nghỉ. Trong quán trọ người ta vẫn còn thức. Không có phòng cho thuê, nhưng ông khách đến muộn này đã làm cho người chủ quán bị bất ngờ và bối rối, anh ta đề nghị K. ngủ trên đệm rơm trong quầy uống. K. đã đồng ý. Một vài người nông dân vẫn còn ngồi lom khom bên cốc bia, nhưng chàng không muốn bắt chuyện với ai cả. Chàng mang đệm rơm xuống nằm cạnh lò sưởi. Quán trọ ấm áp, những người nông dân ngồi im lặng. K. quan sát họ một lúc bằng đôi mắt mệt mỏi rồi chàng ngủ thiếp đi. Nhưng chẳng mấy chốc người ta đã đánh thức chàng dậy. Một gã trẻ tuổi mặc quần áo như người thành phố, có khuôn mặt nghệ sĩ, - mắt ti hí, lông mày rậm, - đang đứng bên chàng cùng với chủ quán. Những người nông dân vẫn chưa về, một số quay ghế lại để nhìn và nghe cho rõ hơn. Gã trẻ tuổi xin lỗi K. một cách lịch sự vì đã đánh thức chàng dậy rồi tự giới thiệu mình là con trai quan phòng thành. Gã nói: - Cái làng này là của Lâu đài, ai sống hoặc nghỉ đêm ở đây cũng đều như là sông hoặc nghỉ đêm trong Lâu đài. phải được phép của bá tước. Ngài không có giấy tờ gì, chí ít thì ngài đã không cho chúng tôi xem. K. chống hai tay ngồi dậy, vuốt lại tóc, nhìn mọi người, hỏi: - Tôi lạc vào làng nào thế này? Chẳng lẽ ở đây có Lâu đài à? - Có chớ! - gã trẻ tuổi kiên nhẫn trả lời, và K. thấy một vài người lắc đầu. - Lâu đài của bá tước West West. - Phải có giấy phép thì mới được nghỉ đêm tại đây à? - K. hỏi như thể muốn tin chắc điều mình vừa nghe là không phải ở trong mơ. - Phải có giấy phép. - có tiếng đáp, và như để cợt nhạo K., gã trẻ tuổi dang cánh tay về phía chủ quán và những người khách: - Hay là không cần giấy phép nhỉ? - Vậy thì tôi đi xin phép. - K. vừa ngáp vừa nói, rồi hất chiếc chăn khỏi người như thể chàng muốn ngồi dậy. ... Mời các bạn đón đọc Lâu Đài của tác giả Franz Kafka & Trương Đăng Dung (dịch).
Hiệu Hạnh Phúc Các Bà - Emile Zola
Tác giả được xem như sáng lập và nhà lý luận của chủ nghĩa tự nhiên trong văn học Pháp, nhưng ông đã trờ thành nhà văn lớn chính lại nhờ ông đã vượt lên trên những nguyên lý của chủ nghĩa tự nhiên để tiến gần đến chủ nghĩa hiện thực. Với một số điểm cách tân so với chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển của Banzắc và Xtăngđan và mở ra thời kỳ của chủ nghĩa hiện thực phê phán. Thường được biết đến với tên Émile Zola, là một nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp trong thế kỉ 19, người được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên (naturalism). Bên cạnh những tiểu thuyết nổi tiếng, Zola còn được biết tới như là một trong những nhân vật quan trọng dẫn tới việc xét xử lại Vụ Dreyfus. Sách của ông đa phần đều thuộc loại ăn khách. “Hiệu Hạnh phúc các bà" không trở thành cái gì nặng nề quá quắt như ở một số tác phẩm khác của Émile Zola, nó là nền tảng cho hai cuộc đấu tranh gay gắt và căng thẳng - Cuộc đấu tranh giữa buôn bán nhỏ và buôn bán lớn; cuộc đấu tranh nội bộ giữa các nhân viên bán hàng thể hiện cái học thuyết đấu tranh sinh tồn của của Charles Darwin. *** Denise cùng hai em trai xuống tàu Cherbourg ở ga Saint Lazare, đi bộ sau một đêm ngồi ghế cứng trên một toa xe hạng ba. Nàng dắt tay Pépé, Jean đi theo sau, cả ba mỏi nhừ vì chuyến đi, kinh hoàng và lạc lõng giữa Paris mênh mông, hếch mũi lên như các nhà, ở mỗi ngã tư lại hỏi thăm về phố La Michodière, nơi có nhà ông chú Baudu. Nhưng cuối cùng, khi tới quảng trường Gaillon, cô gái đột ngột dừng lại ngỡ ngàng. - Ôi! - Cô nói - Jean ơi, trông kìa! Và họ đứng sững, siết chặt lấy nhau cả ba đều mặc đồ đen đã cũ vì sắp mãn tang bố. Cô gái, mảnh khảnh với tuổi hai mươi, vẻ con nhà nghèo, tay xách một gói nhẹ; còn phía bên kia thì đứa em nhỏ lên năm, níu lấy tay, sau lưng là thằng anh lớn, mười sáu tuổi, vênh vênh, phơi phới, đứng thõng hai tay. - Chà, tuyệt, - Sau một phút im lặng cô nói - một cửa hàng như thế chứ! Đó là, ở góc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, một cửa hiệu tân phẩm, hàng bày nổi bật lên những màu rực rỡ trong ánh ngày tháng mười dịu nhạt. Chuông nhà thờ Saint Roch điểm tám giờ, trên bờ hè chỉ có dân Paris dậy sớm, những nhân viên tới sở và những bà nội trợ chạy các cửa hàng. Trước cửa hiệu, hai viên thư ký bán hàng len trên một chiếc thang đôi, sắp treo xong những hàng len, còn trong một tủ kính phố Neuve Saint Augustin thì một viên thư ký khác, ngồi xổm và quay lưng đang thận trọng xếp nếp một tấm lụa xanh da trời. Trong cửa hiệu còn vắng khách mà nhân viên, thì mới đến lác đác, râm ran như một tổ ong thức dậy. - Ui chao! - Jean nói - Nó đánh bạt Valognes... Hiệu của chị chẳng đẹp đến thế. Denise lắc đầu. Cô đã hai năm làm việc ở đó, nhà Comai, tay bán tân phẩm số một thành phố; thế mà cửa hiệu này, cô bắt gặp đột ngột, nó thật là đổ sộ đối với cô, khiến cô hào hứng, xúc động, chăm chú, quên hết mọi sự. Trên vạt tường cách ngang nhìn ra quảng trường Gaillon, chiếc cửa ra vào, toàn bằng gương, cao tới tầng một, giữa những trang trí phức tạp, mạ vàng khắp lượt. Hai nhân vật biểu tượng, hai người đàn bà tươi cười, hở vú và ưỡn ra, trương lên tấm biển: Hiệu hạnh phúc các bà. Rồi những tủ kính chạy dài, suốt dọc phố La Michodière và phố Neuve Saint Augustin, ngoài ngôi nhà ở góc, chúng choán bốn ngôi nhà khác, hai bên phải, hai bên trái, gần đây mới mua và được tu sửa. Cả một cuộc triển khai dường như vô tận, mất hút theo đường viễn thị, với những hàng bầy ở tầng dưới và những tấm gương không tráng ở tầng trên, qua đó người ta nhìn thấy cả cuộc sống bên trong của các quầy hàng. Ở phía trên, một cô gái, mặc đồ lụa, gọt một chiếc bút chì trong khi hai cô khác, gần đấy, mở ra những chiếc măng-tô nhung. ... Mời các bạn đón đọc Hiệu Hạnh Phúc Các Bà của tác giả Emile Zola.
Đợi Chờ Ký Ức... - Born
Born –tác giả của "Sẽ để em yêu anh lần nữa" đã trở lại cùng cuốn tiểu thuyết mới nhất mang tên "Đợi chờ ký ức". Là tác giả từng gây nên cơn sốt trong văn học mạng, Born tiếp tục tung ra cuốn tiểu thuyết tiếp theo cũng gây nên làn sóng chấn động không kém với độc giả trẻ Việt Nam. Tiểu thuyết Đợi chờ ký ức lần này tiếp tục khai thác đề tài tình yêu, tuy nhiên là một câu chuyện éo le, đẹp nhưng cũng mang một nỗi buồn phảng phất. "Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó quên lãng nhất chính là ký ức. Dù là ký ức hạnh phúc hay đau thương, nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa, rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt, rơi vào miệng, anh mới hay, thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau…" Với mạch cảm xúc ấy, câu chuyện là một nỗi đau rất thật, nỗi đau khi tình yêu bị lãng quên, và người còn lại trở thành những ký ức mơ hồ. Viết bằng con mắt thấu hiểu tâm lý người trẻ, Born đã thổi vào cả câu chuyện một nỗi buồn kỳ dị. Tình yêu giữa hai con người vốn lung linh đầy màu sắc, bỗng chốc trở thành những cơn gió mong manh chỉ vụt mất tan. Nhưng cũng vì thế, người đọc mới có thể thấy được sự kỳ diệu của tình yêu, sự mạnh mẽ của trái tim khi yêu và những điều không ai có thể ngờ tới mà nó mang lại. *** Người ta nói, trên đời này thứ bền vững nhất, khó bị quên lãng nhất chính là ký ức. Dù ký ức hạnh phúc hay là những ký ức đau thương nhất. Nó đều ghi khắc vào trong tâm trí ta, mãi mãi không rời. Vậy mà ký ức của em lại như một sợi dây mong manh, dễ dàng bị đứt lìa. Rồi chìm vào quên lãng. Em thường hỏi tại sao? Nhưng trả lời em chỉ là bóng tối của sự tìm kiếm. Có phải bởi vì những ký ức bị quên lãng kia tràn ngập tình yêu của em dành cho anh, tràn ngập sự nhớ nhung và đau khổ. Cho nên em chọn cách quên lãng. Nếu ký ức của em là sợi dây mong manh, vậy thì ký ức của anh là một sợi tơ dài và dai. Nó không phai tàn theo năm tháng, cũng không dễ dàng bị đứt lìa. Bởi vì không lúc nào anh không nhớ đến em. Nỗi nhớ em chiếm trọn tâm trí anh, tình yêu dành cho em chứa đầy trong tim anh, khiến anh đau nhức từng đêm từng đêm. Nước mắt lăn dài trên mặt rơi vào miệng, anh mới hay thì ra tình yêu không chỉ có vị ngọt của hạnh phúc mà còn có sự mặn đắng của khổ đau. ------------------------------------------------------ Nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời Anh bỗng thấy tim mình đau nhói Bởi vì anh nhớ em Nhớ người đã làm lòng anh tan nát Nhưng sao anh vẫn yêu em Người con gái đã từng làm anh hạnh phúc Đã tạo cho anh sự ấm áp. Nhưng rồi em lại nhẫn tâm đem nó đi. Yêu em, nhớ em, muốn gặp em Nhưng anh lại sợ mình không chịu nổi đau đớn này. Đành chôn chặt em vào trong trái tim Anh chưa từng quên phút giây bên em Giọng nói, ánh mắt, nụ cười của em Anh chưa bao giờ quên Bây giờ em đã lựa chọn bên người khác Anh chỉ có thể một mình gặm nhắm nỗi đau này. Chỉ muốn hét lên với em rằng. Anh yêu em, mãi mãi yêu em. Anh sẽ chờ em Chờ em quay về bên anh. Trong quán bar, nữ ca sĩ có chất giọng trầm buồn, cất lên những điệu nhạc sâu lắng khiến cho tất cả mọi người trong quán bar đều im lặng thưởng thức. Một vài cô gái mẫn cảm đã bật khóc sau khi nghe bài hát. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ Ký Ức... của tác giả Born.
Yêu Em Cuồng Si - Rachel Gibson
Đã đến lúc nên điên một tí… và yêu một ai đó… Một cuốn sách giúp các bà mẹ trẻ đơn thân tự tin làm lại cuộc đời Lily Darlington từng bị gọi là đồ hâm – và, đúng thế thật, việc cô lái xe đâm sầm vào phòng khách nhà chồng cũ chắc chắc không phải là hành động thông minh – nhưng tên khốn đó đáng nhận được điều đó. Giờ Lily là một bà mẹ trẻ đơn thân, và cô biến nó thành điều nổi bật. Cô biết cô là một người mẹ tốt, cô có nhà, là nữ doanh nhân, tất cả đều được gói trọn trong một gói hàng xinh đẹp. Một gói hàng mà chàng cảnh sát Tucker Matthews khát khao được bóc ra. Người cựu quân nhân này không cần thêm một người đàn bà nào khác trong cuộc đời. Cô bạn gái cuối cùng đã bỏ anh ra đi, không để lại thứ gì ngoài ký ức và con mèo Pinky! Việc sống bên cạnh nhà Lily khiến anh trở nên điên rồ. Anh mơ về mái tóc dài màu vàng, và cả đôi chân dài của cô. Có lẽ giờ đã đến lúc nên điên một tí… và yêu một ai đó… *** Rachel Gibson sinh ở Boise, Idaho, USA. Cha cô làm việc cho một công ty điện thoại, mẹ cô làm nội trợ. Hiện sống cùng chồng và 3 con tại Boise Sáng tác văn do ảnh hưởng từ tiểu thuyết lãng mạn The Spanish Rose (tác giả Shirlee Busbee). Độc giả yêu thích văn chương của cô bởi khám phá được hơi thở mới của dòng văn học lãng mạn hiện đại. Bốn cuốn sách của cô đều trong danh sách Top 10 cuốn sách văn học lãng mạn được yêu thích nhất trong năm của Mỹ (Ten Favorite Books of Year của Romance Writer of America). Tiểu thuyết đầu tay Simply Irresistible trong top Sách bán chạy do tờ New York Times và USA Today bình chọn. *** Các giải thưởng: The Golden Heart Award, 1994; National Reader’s Choice Award for Best Single Title Contemporary; Amazon Editor’s Top Pick; ứng viên của giải Quill của Publisher Weekly và tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất của Borders vào năm 2006. Cuốn True Confessions — Rita Award for Best Contemporary Single Title, 2002. Cuốn Not another bad date (Không phải tình hờ) đoạt giải Rita 2009 (giải thưởng danh giá cao quý nhất của Romance Writers of America. *** Bộ sách Lovett Texas, gồm có:  Daisy's Back in Town - Tình Yêu Trở Lại Crazy on you - Yêu Em Cuồng Si Rescue Me - Hãy Cứu Em I Do! *** Tily Darlington ghét bị nói là hâm. Thà người ta bảo cô là một ả khốn còn hơn - kể cả là một ả khốn ngu ngốc cũng được - vì cô biết mình không khốn nạn, chẳng ngu ngốc và cũng sẽ không bao giờ như thế. Dẫu sao cũng không phải do cố tình. Nhưng chỉ cần đặt từ hâm sau chữ ả khốn thôi là Lily sẽ biến thành một ả khốn bị hâm ngay cho người đó xem. Ít nhất thì cô cũng đã từng như vậy trong quá khứ, khi cô còn bốc đồng, để mọi cảm xúc và tình cảm chi phối mình. Khi cô chuyển từ bình thường sang điên loạn trong chưa đầy năm giây. Khi cô đổ sữa lên đầu Jimmy Joe Jenkin năm lớp ba và xì lốp xe đạp của Sarah năm lớp sáu. Khi mà cô còn nghĩ là mọi hành động đều phải có phản ứng đáp trả. Khi cô còn liều lĩnh và thỉnh thoảng lại phản ứng quá khích - như khi cô đâm chiếc Ford Taurus vào phòng khách của gã chồng cũ. Nhưng gần đây cô không còn làm gì quá khích nữa. Dạo này cô có khả năng kiểm soát cảm xúc và tình cảm của mình. Dạo này cô là một bà chủ đứng đắn và là mẹ của một cậu bé mười tuổi. Cô ba mươi tám tuổi, và cô cố gắng hết sức để gạt chữ hâm ra khỏi cuộc sống cũng như khỏi tên mình. Lily cầm lấy túi xách và vội vã ra khỏi cửa sau của cửa tiệm Lily Belle’s Salon Day Spa. Cuộc hẹn cắt và nhuộm cuối cùng trong ngày của cô đã kéo dài hơn dự kiến, và bây giờ đã bảy giờ hơn. Cô phải lái xe sáu mươi lăm dặm, nấu cơm tối cho con trai, giúp cậu làm bài tập về nhà và ép cậu đi tắm. Khi cậu đã đi ngủ, cô phải xếp đủ tất cả các túi quà cho sự kiện chăm sóc sắc đẹp vào tối thứ Bảy tới. Một ngọn đèn đơn độc chiếu sáng trên đầu cô khi cô khóa cửa. Không khí đêm lạnh giá phả vào hai má và một cơn gió nhẹ thổi qua đuôi áo len Lily. Bây giờ ở vùng cán xoong Texas đang là cuối tháng Ba và buổi tối vẫn lạnh đến mức hơi thở của cô bay lơ lửng trước mặt. Theo cô nhớ thì từ lâu lắm rồi, người ta đã bảo là cô hâm. Lily Brooks hâm. Rồi cô cưới gã khốn nạn Ronny Darlington và họ gọi cô là Lily Darlington hâm. Khi đi về phía chiếc Jeep Cherokee, tiếng gót đôi bốt của Lily vang vọng vào thùng rác Dumpster. Ấn tay vào bộ điều khiển, cô mở cửa và cửa sau xe bật lên. Cô đặt chiếc túi nặng trịch của mình vào cạnh các hộp đựng đầy sản phẩm chăm sóc da và tóc, rồi với tay lên trên và sập cửa lại. Được rồi, có thể là trong thời kỳ hôn nhân Lily có hơi hâm chút xíu, nhưng chính gã chồng cũ đã khiến cô như thế. Hắn đã lăng nhăng với nửa số phụ nữ của Lovett, Texas. Hắn đã nói dối và bảo là cô chỉ tưởng tượng ra mọi chuyện. Hắn giỏi lén lút chui lủi đến mức cô suýt nữa đã tin rằng đúng là mình chỉ tưởng tượng thật. Rồi hắn bỏ cô vì Kelly Kinh Tởm. Cô thậm chí còn chẳng nhớ họ cô ả Kelly đó là gì, nhưng hắn đã chuyển ra ngoài và bỏ lại Lily mà chẳng thèm liếc mắt lấy một cái. Hắn cũng bỏ lại cô với một đống hóa đơn, cái tủ lạnh rỗng không và một cậu bé hai tuổi. Hắn đã nghĩ mình có thể thoải mái sống tiếp. Hắn nghĩ hắn có thể bỏ đi và biến cô thành ả ngốc. Hắn nghĩ cô sẽ cam chịu, và điều đó, hơn tất thảy mọi thứ, đã khiến cô đâm xe vào phòng khách nhà hắn. Cô không hề có ý định giết hắn hay ai khác. Lúc ấy hắn thậm chí còn không có nhà. Cô chỉ muốn cho hắn biết rằng mình không phải đồ vứt đi. Rằng hắn không thể cứ thế bỏ đi mà không phải nhận lấy đớn đau như cô đang phải chịu đựng. Nhưng rồi hắn vẫn chẳng hề hấn gì hết. Kết cục Lily phải vào viện với chấn động não và một cái chân gãy, và hắn cóc thèm quan tâm đến bất kỳ thứ gì ngoài cái ti-vi đã tan tành. Cô vào chiếc SUV của mình và khởi động xe. Chiếc Cherokee màu đỏ này là cỗ xe mới đầu tiên mà cô từng mua. Cho tới một năm trước, cô chỉ mua xe đã qua sử dụng. Nhưng với việc salon làm đẹp làm ăn phát đạt, Lily có thể phung phí tiền để mua một thứ mà lúc trước vẫn luôn chỉ là một giấc mơ - một giấc mơ mà cô chưa từng nghĩ là sẽ thành sự thật. Đèn pha ô-tô rọi lên tường cửa tiệm khi cô lái xe rời khỏi bãi đỗ hướng về nhà - về ngôi nhà ba phòng ngủ nho nhỏ ngay cạnh nhà mẹ cô ở Lovett, trong thị trấn nhỏ phía bắc Amarillo nơi cô sinh ra và lớn lên. Sống cạnh mẹ cô vừa đáng ghét vừa dễ chịu. Đáng ghét vì bà Louella Brooks đã nghỉ hưu và chẳng có gì để làm trừ tọc mạch chuyện của người khác, dễ chịu vì bà Louella đã nghỉ hưu và có thể trông Pippen khi cậu nghỉ học. Và mặc dù khiến cô phát rồ lên được với bộ môn nghệ thuật “sân vườn” và những câu chuyện liên tu bất tận, bà vẫn là một người bà tuyệt vời và cũng thật tuyệt khi không phải lo lắng cho con trai. ... Mời các bạn đón đọc Yêu Em Cuồng Si của tác giả Rachel Gibson.