Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mưu Ma Chước Quỷ

Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. *** Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** Bộ sách gồm có Móng Vuốt Quạ Đen:  Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 *** RETVENKO Retvenko tựa người vào quầy bar và thò mũi vào li rượu bẩn. Món whiskey không làm ông ấm nổi. Không gì có thể làm người ta ấm được ở cái thành phố bị thánh thần bỏ rơi này. Và ông cũng không thoát được cái mùi lợm giọng của hầm tàu, đám nghêu và những tảng đá ẩm ướt, thứ dường như đã ngấm vào các lỗ chân lông của ông như thể ông bị ngâm trong một món trà có mùi tệ hại nhất trên đời. Mùi hương thảm hoạ dễ nhận thấy nhất là ở Barrel, đặc biệt tại một cái ổ chuột bần cùng như nơi này: một tửu quán tồi tàn nép mình ở tầng dưới của một trong những toà nhà xập xệ nhất vùng. Trần của nó bị võng xuống do phong hoá và xây dựng kém, các thanh xà đen kịt bồ hóng từ một cái lò sưởi đã lâu không hoạt động với ống khói nghẹt cứng vì rác. Sàn nhà được rải đầy mạt cưa để thấm bia, chất nôn, cùng đủ loại chất thải của đám khách khứa. Retvenko tự hỏi đã bao lâu rồi người ta không lau sàn. Ông ấn mũi sâu hơn vào trong li rượu, hít hà thứ mùi ngòn ngọt của món rượu tồi. Nó làm mắt ông cay cay. “Ê, cái đó là để uống, không phải để ngửi nha,” tay phục vụ quầy lên tiếng và bật cười. Retvenko đặt cái li xuống, uể oải nheo mắt nhìn người đàn ông. Anh ta có cái cổ bè và khuôn ngực vạm vỡ của một võ sĩ thực thụ. Retvenko từng chứng kiến anh ta tống cổ vài vị khách phiền hà ra đường, nhưng thật khó mà tôn trọng một kẻ khoác trên người thứ thời trang được bọn thanh niên Barrel ưa thích: áo sơ mi hồng với phần ống tay bó sát bắp tay đồ sộ, kèm theo chiếc gilet sặc sỡ bằng len sọc hai màu đỏ cam. Nom anh ta giống như một con cua lột diêm dúa. “Nói tôi nghe,” Retvenko bảo anh chàng với một thứ tiếng Kerch không sõi, lại còn lè nhè sau vài li rượu. “Sao cái thành phố này hôi hám thế nhỉ? Cứ như một nồi súp hỏng hoặc một chậu bát đĩa bẩn ấy.” Tay phục vụ bật cười. “Ketterdam là thế. Ông sẽ quen thôi.” Retvenko lắc đầu. Ông không muốn quen với cái chốn này, cũng như mùi hôi của nó. Công việc của ông tại nhà Uỷ viên hội đồng Hoede chán phèo, nhưng ít nhất căn buồng ở đó cũng khô ráo và ấm áp. Là một Grisha giúp việc theo giao kèo đáng giá, Retvenko được ăn ngon mặc ấm. Hồi đó ông nguyền rủa lão Uỷ viên hội đồng Hoede suốt ngày vì chán ngán công việc dẫn dắt các chuyến tàu chở hàng đắt giá trên biển, lại thêm phẫn uất với các điều khoản trong giao kèo bán mình ngu ngốc mà ông đã kí để thoát khỏi Ravka sau cuộc nội chiến. Nhưng giờ thì sao? Giờ thì ông không thể không nhớ tới cái xưởng Grisha ở nhà Hoede, nhớ ngọn lửa vui vẻ cháy trong lò, ổ bánh mì nâu ăn kèm bơ và những lát thịt giăm bông. Sau khi Hoede chết, Hội đồng Thương buôn của Kerch đã cho Retvenko làm việc trên những con tàu chở khách để mua lại tự do. Tiền thù lao đúng thật mạt hạng, nhưng ông còn lựa chọn nào khác kia chứ? Ông là một Tiết Khí Sư sống giữa một nơi thù địch, chẳng có kĩ năng gì ngoài thứ năng lực trời cho. “Nữa nhé?” Người phục vụ hỏi, tay chỉ vào li rượu đã cạn của Retvenko. Retvenko ngần ngừ. Ông không nên phung phí tiền bạc. Nếu khéo thu vén, ông chỉ cần phải bán mình trên một chuyến hải trình nữa, hoặc hai, và ông sẽ có đủ tiền để mua lại tự do, tậu một tấm vé quay về Ravka trên khoang tàu hạng ba. Ông chỉ cần có thế. Chưa đầy một giờ nữa là ông phải có mặt trên bến cảng. Người ta dự đoán sẽ có bão, do vậy thuỷ thủ đoàn phải trông cậy vào khả năng kiểm soát các luồng gió của Retvenko để đưa con tàu cập bến bình yên bất cứ nơi nào nó cần đến. Ông chẳng biết nơi đấy là đâu, và cũng chẳng quan tâm. Thuyền trưởng sẽ ra hiệu lệnh để ông thổi căng buồm hoặc làm gió lặng. Sau đó ông nhận tiền thù lao của mình. Nhưng gió máy có vẻ chưa nổi lên. Biết đâu ông có thể ngủ khò trong suốt đoạn đầu của chuyến đi. Retvenko vỗ tay lên quầy và gật đầu. Một người đàn ông thì phải làm gì đây? Ông xứng đáng được hưởng chút sung sướng trong cái thế giới này. “Mình đâu phải thằng chạy việc,” ông lẩm bẩm. “Sao thế?” Người phục vụ hỏi trong lúc rót cho Retvenko một li rượu khác. Retvenko phẩy tay. Anh chàng cục mịch này làm sao mà hiểu được. Cậu ta thu mình trong bóng tối. Để mong chờ cái gì chứ? Thêm một đồng xu lẻ trong túi quần? Ánh mắt liếc nhìn của một cô gái? Cậu ta chẳng biết thế nào là vinh quang chiến trận, chẳng biết thế nào là danh vọng. “Ông là dân Ravka hả?” Đang trong trạng thái lờ đờ do rượu, Retvenko đột ngột trở nên cảnh giác. “Sao cậu lại hỏi vậy?’ “Đoán vậy thôi. Ông nói giọng Ravka.” Retvenko tự trấn an mình. Có rất nhiều người Ravka đến Ketterdam để tìm việc. Không có gì nơi ông tiết lộ bản chất Grisha cả. Sự hèn nhát khiến ông cảm thấy ghê tởm chính mình, tay phục vụ, lẫn cái thành phố này. Retvenko chỉ muốn ngồi thưởng thức li rượu. Không một người nào trong quán có thể áp đảo ông, và bất chấp khối cơ bắp của tay phục vụ quầy, Retvenko biết mình có thể xử lí anh ta một cách dễ dàng. Tuy vậy, đã là một Grisha thì kể cả có ngồi yên cũng đồng nghĩa với chuốc vạ vào thân. Dạo gần đây người ta đồn râm ran khắp Ketterdam rằng nhiều Grisha đã biến mất trên phố, hoặc thậm chí ngay trong nhà mình, có lẽ là bị bọn buôn nô lệ bắt cóc đem bán đấu giá. Retvenko sẽ không để chuyện đó xảy ra với mình, nhất là khi ông đã sắp tích góp đủ tiền để quay về Ravka. Ông nốc cạn chỗ rượu, dằn một đồng tiền xuống mặt quầy, rồi đứng lên khỏi chiếc ghế đẩu. Ông không để lại tiền boa cho tay phục vụ. Muốn kiếm tiền thì phải xứng đáng với nó. Retvenko cảm thấy hơi loạng choạng trong lúc bước ra ngoài, và bầu không khí ẩm thấp chỉ càng làm tình hình tồi tệ thêm. Ông cúi đầu, hướng về phía Cảng số Bốn, để cho chuyến đi làm đầu óc tỉnh táo. Thêm hai chuyến nữa thôi, ông tự nhủ, vài tuần lễ lênh đênh trên biển, vài tháng trong cái thành này nữa thôi. Ông sẽ tìm được cách để chịu đựng chuyện này. Ông tự hỏi liệu mấy người bạn cũ có chờ mình ở Ravka hay không. Nghe nói vị vua trẻ ban lệnh ân xá như rải kẹo, hăm hở muốn tái thiết Hạ Quân — đội quân Grisha đã tan tác sau chiến tranh. “Thêm hai chuyến nữa thôi,” ông nói thành tiếng và giậm mạnh đôi ủng trên mặt đường ẩm ướt. Sao năm nay đến giờ này mà mọi thứ vẫn lạnh lẽo và ướt sũng đến thế kia chứ? Sống ở đây chẳng khác nào bị kẹp trong cái nách băng giá của một gã người tuyết khổng lồ. Đi dọc theo kênh Graf, Retvenko thoáng rùng mình khi trông thấy đảo Mạng Đen nằm kẹp giữa hai doi đất. Đó là nơi đám nhà giàu người Kerch từng mai táng người chết trong những ngôi nhà mồ bằng đá nằm cao hơn mực nước biển. Khí hậu ẩm ướt làm cho hòn đảo quanh năm bị quấn trong một tấm vải liệm sương mù biến ảo. Nghe đồn nó bị ma ám. Retvenko rảo bước nhanh hơn. Ông không phải là một kẻ mê tín. Khi sở hữu một năng lực như của ông, người ta chẳng việc gì phải sợ những thứ lẩn khuất trong bóng tối. Nhưng ai mà thích đi dạo giữa một nghĩa địa kia chứ? Thu mình trong chiếc áo choàng, ông nhanh chóng đi xuôi con phố Havenstraat, đề phòng mọi động tĩnh từ các con hẻm ngoằn ngoèo. Chẳng bao lâu nữa ông sẽ trở lại Ravka, nơi ông có thể ung dung dạo bước trên đường. Với điều kiện ông được ân xá. Retvenko khó chịu vặn vẹo người trong chiếc áo choàng. Chiến tranh đã làm các Grisha đối đầu nhau, và phe của ông đặc biệt tàn bạo. Ông đã ám sát những người đồng đội cũ, các thường dân, kể cả trẻ con. Nhưng chuyện đã qua rồi. Vua Nikolai cần binh lính, và Retvenko là một chiến binh rất giỏi. Sau khi gật đầu chào người lính gác đang ngồi trong chốt trực phía trước Cảng số Bốn, ông ngoái đầu nhìn lại phía sau để chắc chắn mình không bị theo đuôi. Len lỏi qua những dãy container, Retvenko đi ra bến cảng, tìm nơi tàu neo đậu, rồi đứng vào hàng để đăng kí với viên thuyền phó. Ông ta vẫn y như trong các chuyến đi trước, luôn phiền hà và khó ưa với cái cổ cò hương ló ra khỏi cổ áo choàng. Ông ta đang cầm một xấp tài liệu dày, có dấu triện sáp màu tím của một thành viên Hội đồng Thương buôn. Những dấu triện còn quý hơn vàng ở Ketterdam này, vì chúng bảo đảm những vị trí neo tàu tốt nhất và lối tiếp cận bến cảng thuận lợi. Tại sao những tay Uỷ viên hội đồng lại được nể trọng và biệt đãi như thế? Chung quy cũng vì tiền cả. Bởi các thương vụ của họ mang lại lợi lộc cho Ketterdam. Năng lực có ý nghĩa lớn hơn tại Ravka, nơi các nguyên tố phục tùng sự sai khiến của Grisha, và đất nước được cai trị bởi một vị vua thực thụ, chứ không phải một đám lái buôn mới phất. Thật ra thì Retvenko từng cố gắng phế truất cha của nhà vua hiện tại, nhưng bản chất vấn đề vẫn là như thế. “Thuỷ thủ đoàn chưa sẵn sàng để lên đường,” viên thuyền phó nói với Retvenko khi ông xưng tên. “Ông có thể vào ngồi trong văn phòng cảng vụ cho ấm. Chúng tôi đang đợi tín hiệu của Hội đồng Thuỷ triều.” “Tốt thôi,” Retvenko thờ ơ đáp. Ông ngước mắt nhìn một trong những ngọn tháp đá đen vươn cao trên hải cảng. Nếu Hội đồng Thuỷ triều tình cờ trông thấy Retvenko từ trên đó, ông sẽ cho họ biết chính xác mình đang nghĩ gì qua một vài cử chỉ chọn lọc. Cũng là Grisha, nhưng họ có nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để giúp đỡ các Grisha khác trong thành không? Những người thiếu may mắn đang cần một chút lòng tốt ấy? “Không, họ không hề giúp đỡ,” Retvenko nói thành tiếng. Viên thuyền phó nheo mắt. “Lạy Ghezen, ông say rượu à, Retvenko?” “Làm gì có.” “Ông nồng nặc mùi rượu.” Retvenko hít hà. “Có chút whiskey thôi mà.” “Làm gì cho giã rượu đi. Uống cà phê, hoặc dùng jurda liều mạnh vào. Lô bông vải này phải đến được Djerholm trong vòng hai tuần lễ, và chúng tôi không trả tiền để ông ngật ngưỡng dưới hầm tàu. Rõ chưa?” “Rõ, rõ rồi.” Retvenko phẩy tay đáp trong lúc đi về phía văn phòng cảng vụ. Nhưng ngay khi đi được vài bước, ông khẽ lắc cổ tay. Một luồng gió thổi thốc vào xấp giấy tờ trên tay thuyền phó, làm chúng bay lung tung trên bến cảng. “Chết tiệt!” Ông ta buột miệng trong lúc lập cập chạy qua cầu ván, cố gắng chộp lấy chỗ tài liệu trước khi chúng rơi xuống nước. Retvenko mỉm cười ranh mãnh, nhưng một nỗi buồn vô hạn bỗng dâng lên trong lòng ông. Là một người lực lưỡng, một Tiết Khí Sư thiện nghệ, một chiến binh xuất sắc, nhưng ở đây, ông chỉ là một kẻ làm công, một lão già Ravka nói tiếng Kerch bồi và say xỉn tối ngày. Nhà, ông tự nhủ. Không lâu nữa mình sẽ được về nhà. Ông sẽ được ân xá và lại chứng tỏ bản thân. Ông sẽ chiến đấu cho tổ quốc mình. Ông sẽ nằm ngủ dưới một mái nhà không bị dột và mặc kefta len xanh với diềm lông cáo xám bạc. Ông sẽ lại là Emil Retvenko, chứ không phải một cái bóng dật dờ như thế này. “Có cà phê đấy,” một nhân viên nói với Retvenko khi ông bước vào văn phòng cảng vụ và chỉ cho ông bình cà phê nằm trong góc phòng. “Có trà không?” “Chỉ có cà phê thôi.” Cái xứ gì đâu. Retvenko rót đầy một ca thứ chất lỏng sánh đặc màu nâu đen, chủ yếu để làm ấm đôi tay. Ông không thể chịu nổi mùi vị của nó, nhất là nếu không có một suất đường thật đậm, thứ mà tay trưởng cảng từ chối cung cấp. “Gió nổi lên rồi kìa,” người thư kí nói khi nghe thấy tiếng chuông gió kêu lanh canh bên ngoài. Mời các bạn đón đọc Mưu Ma Chước Quỷ của tác giả Leigh Bardugo & Hoàng Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vòm Rừng
Vòm Rừng – tiểu thuyết giành giải thưởng danh giá Pulitzer 2019 của Richard Powers là một câu chuyện phi thường, đáng kinh ngạc, đưa người đọc từ một New York xa xưa, đi khắp Bắc Mỹ, qua bán đảo Đông Dương đến thung lũng Silicon giữa thế kỷ 21, để kể về mối quan hệ gắn kết kì diệu giữa con người và thiên nhiên hùng vĩ.   Từ ký ức ngàn xưa, con người và cây cối đã có những mối liên kết hết sức đặc biệt. Song song với thế giới loài người, có một thế giới vô hình nhưng rất sống động của cây cối đang tồn tại, và chỉ những ai thực sự lắng nghe mới có thể chạm tay vào thế giới ấy. Bắt đầu khi gốc rễ sâu trong lòng đất, đến thân, ngọn và trở lại hạt giống, cây cối như một triết gia ẩn thân, chứa đầy điều kỳ diệu, những bài học mà con người qua bao thế hệ chưa chắc đã hiểu hết được. Nhưng con người đã làm gì với ngôi nhà của tổ tiên? Những cây xanh bị đốn ngã theo nhiều thập kỷ, những thảm xanh lục bát ngát đang dần biến mất. 9 người Mỹ với những trải nghiệm đời sống độc đáo khác nhau, đã có mối gắn kết từ tận sâu bên trong với từng loại cây riêng. Như gia đình Hoels với nhiều đời thế hệ sống cùng cây hạt dẻ, một trong vài cây hiếm hoi trên khắp nước Mỹ chống chọi được bệnh đốm cam, căn bệnh đã khiến hơn bốn tỷ cây hạt dẻ diệt vọng. Hay bi kịch của người cha Mimi Ma, người trồng cây dâu tằm để vinh danh gia tộc sau khi ông trốn thoát khỏi Trung Quốc, cuối cùng đã tử tự khi cây dâu tằm mục ruỗng… Bằng tình yêu với thiên nhiên, cây cối, những con người đó với những cách khác nhau, gắn kết lại cùng nhau trong một sứ mệnh lớn lao, bảo vệ thiên nhiên, chống nạn phá rừng, cứu lấy sự sống còn của cây, trước khi những cây cổ thụ hàng triệu năm cuối cùng ngã xuống. Vòm rừng là “một bản trường ca cuồng nộ, hùng tráng dành cho sự kỳ vĩ của Mẹ Thiên Nhiên” (Dan Cryer), “cuốn tiểu thuyết hay nhất viết về cây cối, và thực sự, là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt đỉnh nhất” (Ann Patchett). Một cuốn sách sẽ khiến bạn ngỡ ngàng, xúc động, đau nhói, gào thét, tuyệt vọng và cũng hy vọng. Vòm rừng cũng đã lọt vào danh sách chung khảo rút gọn của giải thưởng Man Booker, được bình chọn là một trong những cuốn sách hay nhất năm 2018 của các báo lớn ở Mỹ như New York Times, Washington Post và nhiều báo khác. *** RICHARD POWERS (sinh năm 1957) Là nhà văn người Mỹ và là giáo sư tiếng Anh tại Đại học Stanford. Sự nghiệp viết văn của ông bắt đầu từ năm 1985. Tính đến năm 2018, ông đã có 12 tiểu thuyết với nhiều giải thưởng đặc sắc cho các tác phẩm của mình. VÒM RỪNG là tiểu thuyết thứ 12 của Richard Powers, xuất bản năm 2018. Là tác phẩm đoạt giải Pulitzer 2019 cho tiểu thuyết. Là tác phẩm vào chung kết Giải thưởng Sách PEN/Jean Stein 2019, chung kết Giải thưởng PEN/Faulkner 2019 Là tác phẩm lọt danh sách rút gọn của Giải thưởng Man Booker 2018 Nhận Huy chương William Dean Howells 2020, dành cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Mỹ. *** Điều đầu tiên người ta muốn làm sau khi đọc Walden của Henry David Thoreau đó là đi vào rừng và sống. Đó cũng là điều đầu tiên người ta sẽ nghĩ đến sau khi đọc gần 700 trang tiểu thuyết Overstory của Richard Powers (hay Vòm rừng, theo bản dịch tiếng Việt của Hà Uy Linh). Nhưng, một nhà phê bình từng nói: “có lẽ điều lạ nhất, buồn nhất về Walden là, nó là một cuốn sách về cách sống, song lại không nói gì về cách sống với những người khác”. Không có gì hay trong người khác, “người khác là địa ngục” (theo Sartre). Vòm rừng thì không như vậy, nó không né tránh người khác, cũng không tránh được, bởi dù dấn mình vào nơi sâu nhất trong rừng thẳm ta cũng sẽ nhận ra nơi đây đã hằn vết tay người. Và tuy người khác vẫn là địa ngục, nhưng địa ngục, rồi ta thấy, nhốt cả thiên thần. Đồ sộ như bản thân nó đã là một cánh rừng nguyên thủy, cuốn truyện của Richard Powers vươn dài với ngàn ngàn cành nhánh trổ ra từ mầm đất, đâm túa vào nhau, xào xạc. Một kiểu tiểu thuyết với rất nhiều mạch truyện riêng trùng trùng điệp điệp, song song, đan cắt, mở ra, khép lại, nhưng luôn bất tận. Như câu cuối cùng của nó: “Thứ này sẽ không bao giờ kết thúc”. Có tất cả mọi loại người trong đó: một nhà thực vật học dành cả đời mình để nghe cây, một ông chủ tại thung lũng Silicon chưa từng đứng lên khỏi xe lăn từ khi bị một cây sồi hất xuống, một gia đình nhập cư từ Đông Á, những người đã sống cả cuộc đời mình ở làng, một cặp vợ chồng mà thoạt nhiên cây cối không có nghĩa lí gì với họ,... Các nhân vật này, họ đến từ mọi ngả đường trên thế gian, để đều nhận ra rằng mọi ngả đường đều ứa tràn thực vật, và con người chúng ta chỉ đang tranh đoạt một thế giới vốn dĩ không thuộc về mình. Dù sự so sánh này nghe có vẻ trái khoáy, nhưng có lẽ cuốn đại tiểu thuyết của Powers giống như những mụ phù thủy trong vở Macbeth của Shakespeare. Nó tuyên ra những lời sấm với thế hệ này - thế hệ của những Macbeth với quá nhiều kiêu hãnh và tự huyễn, đắc thắng khi tin rằng lời tiên tri “ngươi sẽ chẳng bao giờ chiến bại trừ phi khu rừng Birham đi về phía đồi để chống lại ngươi” đồng nghĩa với sự vô địch, thống trị và bá chủ, bởi rừng làm sao có thể đi?, rừng chỉ vô tri và cam chịu. Ảo tưởng ấy là cái hố ta tự đào lên rồi nhốt mình trong đó. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên Vòm rừng xoáy tròn như thân gỗ, và ở mỗi thớ truyện, dường như các nhân vật không chủ động “một mình sống trong rừng” hay “vào trong hoang dã”. Ngược lại, tự nhiên luôn sừng sững ở đó, hoang dã luôn tràn trề ở đó, trong công viên, trên đường, trong vườn, trong kịch, trong tranh vẽ, con người mới là kẻ tình cờ lọt vào dòng chảy vĩnh hằng của hành tinh, văn minh chỉ là lớp ngụy trang mỏng có thể bị cào rách bất cứ lúc nào. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên. Có hai phân cảnh trong cuốn tiểu thuyết này mà tôi nghĩ, phi thường nhất. Một phân cảnh, một gia đình nông dân từ đời cụ kỵ tổ tông đã giao ước sẽ chụp tấm ảnh của cây dẻ trước nhà, mỗi tháng một lần, để rồi sau cả trăm năm, khi những thế hệ cứ lần lượt tan vào thinh không, tập ảnh vẫn cứ còn đó, ngày một dày lên, như một thước phim hằng viễn. Phân cảnh thứ hai, trên tán một cây cổ thụ gỗ đỏ khổng lồ mang tên Mimas, cái cây linh thiêng của rừng già, có hai con người kia, sống trên đó trong hơn một năm trời, và nhận ra dưới vòm xanh ấy, bão tố của trời đất không làm gì được họ. Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người là ẩn ức tự ti về kích thước tí hon của mình, luôn phải cố gào lên khua khoắng chứng minh mình có những chiều kích dồi dào hơn thế, phô phang như thể mình vượt trội và chìm đắm trong cảm giác tự tôn giả tạo. Còn ở đây, các nhân vật hạnh phúc vì thấy mình bé nhỏ, từ chối gồng mình để đấu trí và chống lại tự nhiên. Khiến ta nhớ đến Thoreau đã viết: “Đừng gắn trái tim bạn với cái gì nhất thời; vì con sông Dijlah, hay Tigris, sẽ tiếp tục chảy qua Baghdad sau khi nòi giống các vua Hồi đã tuyệt diệt…” Chắc chắn không phải trùng hợp khi người ta trao cho Vòm rừng giải Pulitzer hạng mục văn chương hư cấu vào năm 2019, cái năm mà bỗng nhiên, một cô bé 16 tuổi bỏ học xuất hiện, chỉ thẳng mặt vào những nhà lãnh đạo khả kính mà rằng “Các ông khiến chúng tôi thất vọng” trong bài phát biểu về biến đổi khí hậu tại Liên Hợp Quốc. Có những động cơ chính trị trong cuốn tiểu thuyết, nhưng ngay cả sự chính trị hóa đúng thời điểm cũng không khiến cho nó mất đi vẻ đẹp cừ khôi của văn chương. Đó không phải một thứ tiểu thuyết tuyên truyền thông thường với những nhân vật hai chiều phẳng lì di động như Pavel Korchagin, tiêu biến trong lý tưởng và hoàn toàn triệt tiêu những thăng giáng bí ẩn của một con người. Con đường đến phẩm hạnh không có đường tắt hay đường thẳng, nó là những đường vòng cung đầy khúc ngoặt mà đôi khi, người ta nhận ra những điều tưởng là lẽ phải lại là sự hư trá. Các nhân vật của Richard Powers là những thiên thần, nhưng là những thiên thần mắc đọa, họ phập phồng sự sống, họ chống lại cái ác bên ngoài và chống lại cả cái bất-thiện ở bên trong, mà cái thứ hai mới là cái vô phương chống đỡ. Không phải sự đàn áp phi nhân đã gián đoạn những sứ mệnh lớn lao của họ, sứ mệnh ấy chỉ bị nhiễu loạn bởi đam mê thể xác, bởi tội lỗi không ai dám nhận, bởi ngay cả khi họ biết điều mình làm là vì một cái gì thực sự vĩ đại, họ vẫn không ngừng hổ thẹn vì điều đó. Bởi chúng ta là người nên sau rốt chúng ta chỉ có thể suy nghĩ như một con người, với tất cả giới hạn của trí tuệ và đạo đức. Trớ trêu làm sao, những nhân vật của Richard Powers đã lẳng lặng kết thúc công cuộc bảo vệ rừng sau khi ngộ sát một người cộng sự. Đạo đức của con người quá chật chội so với đạo đức của cây, giống loài luôn luôn hào phóng, cao thượng, không biết đến tội lỗi, không bao giờ tự phụ nhưng cũng không bao giờ mặc cảm, chúng có thể đổ xuống, chết đi, nhưng ngay cả khi chết vẫn sẵn sàng bao dung sự sống của vạn triệu sinh thể khác. Đạo đức của con người quá chật chội so với đạo đức của cây, giống loài luôn luôn hào phóng, cao thượng, không biết đến tội lỗi, không bao giờ tự phụ nhưng cũng không bao giờ mặc cảm, chúng có thể đổ xuống, chết đi, nhưng ngay cả khi chết vẫn sẵn sàng bao dung sự sống của vạn triệu sinh thể khác Trong một tập truyện ngắn của nhà văn Primo Levi chỉ được xuất bản sau khi ông đã qua đời, Vizio di forma and Storie naturali (hay Một ngôi sao tĩnh lặng, theo bản dịch của Nguyễn Huy Hoàng), ông đã nói về sự thất bại của ngôn ngữ con người khi đem ra mô tả những ngôi sao xa xôi nơi đầu kia vũ trụ. Bởi ngôn ngữ chỉ nảy sinh trong đời sống nghèo nàn, tủn mủn, ngô nghê của những sinh vật còi cọc, hữu hạn như ta. Còn những vì sao thì khổng lồ, vĩ đại và vô hạn. Nhưng ngay cả những tính từ như khổng lồ và vĩ đại và vô hạn cũng chỉ khởi phát từ đầu óc u mê và hiểu biết mơ hồ của ta về thế giới. Hay nói cách khác, không ngôn từ gì xứng hợp để mô tả vũ trụ. Và tôi đã nghĩ đến Vòm rừng khi đọc câu chuyện đó. Một tập tiểu thuyết đồ sộ như thế, nhưng sự đồ sộ ấy cũng vẫn chỉ là trẻ con, là trò cười đối với sự đồ sộ của tự nhiên. Sự uyên áo của Richard Powers cũng chỉ là những mảnh sò vất vưởng trên bờ cát của đại dương khôn cùng. Nhưng được bé nhỏ cũng là một niềm hạnh phúc đáng để hàm ơn. Theo Hiền Trang/Tạp chí Tia Sáng *** "Vòm rừng xoáy tròn như thân gỗ, và ở mỗi thớ truyện, dường như các nhân vật không chủ động “một mình sống trong rừng” hay “vào trong hoang dã”. Ngược lại, tự nhiên luôn sừng sững ở đó, hoang dã luôn tràn trề ở đó, trong công viên, trên đường, trong vườn, trong kịch, trong tranh vẽ, con người mới là kẻ tình cờ lọt vào dòng chảy vĩnh hằng của hành tinh, văn minh chỉ là lớp ngụy trang mỏng có thể bị cào rách bất cứ lúc nào. Thật khờ dại khi ta nghĩ mình có thể “phá hủy” hay “bảo vệ” tự nhiên. Có hai phân cảnh trong cuốn tiểu thuyết này mà tôi nghĩ, phi thường nhất. Một phân cảnh, một gia đình nông dân từ đời cụ kỵ tổ tông đã giao ước sẽ chụp tấm ảnh của cây dẻ trước nhà, mỗi tháng một lần, để rồi sau cả trăm năm, khi những thế hệ cứ lần lượt tan vào thinh không, tập ảnh vẫn cứ còn đó, ngày một dày lên, như một thước phim hằng viễn. Phân cảnh thứ hai, trên tán một cây cổ thụ gỗ đỏ khổng lồ mang tên Mimas, cái cây linh thiêng của rừng già, có hai con người kia, sống trên đó trong hơn một năm trời, và nhận ra dưới vòm xanh ấy, bão tố của trời đất không làm gì được họ. Nỗi khốn khổ lớn nhất của con người là ẩn ức tự ti về kích thước tí hon của mình, luôn phải cố gào lên khua khoắng chứng minh mình có những chiều kích dồi dào hơn thế, phô phang như thể mình vượt trội và chìm đắm trong cảm giác tự tôn giả tạo. Còn ở đây, các nhân vật hạnh phúc vì thấy mình bé nhỏ, từ chối gồng mình để đấu trí và chống lại tự nhiên. Khiến ta nhớ đến Thoreau đã viết: “Đừng gắn trái tim bạn với cái gì nhất thời; vì con sông Dijlah, hay Tigris, sẽ tiếp tục chảy qua Baghdad sau khi nòi giống các vua Hồi đã tuyệt diệt…”. (Hiền Trang) Hiền Trang là nhà văn 9X đời đầu mang trong mình ngọn lửa văn chương hừng hực và ở cô có sự mài dũa tri thức chỉn chu trong từng nghiên cứu cho sách của mình, nhà văn từng cho ra cuốn "Tuổi trẻ lạc lối và những cuốn sách của tôi", mà những tựa được nhắc đến trong đó không hề xa lạ với thế hệ 8x, 9x, đọc cuốn sách ấy còn như để "hiểu về chính người cảm nhận tác phẩm, một người trẻ đang đến với văn chương, đắm vào văn chương ra sao". Đối với VÒM RỪNG Hiền Trang cũng lấy làm quan tâm, cá nhân tôi thì đã đón chờ Tác phẩm dịch này từ rất lâu sau khi nhận được tin công bố giải thưởng Pulitzer năm 2019 ở hạng mục tiểu thuyết hư cấu gọi tên "The Overstory và tác giả Richard Power". VÒM RỪNG như là lời cầu ước được đáp lại của tôi về chủ đề: giá trị sống của con người trong mối tương quan với tự nhiên, và thứ hai nhưng không kém phần quan trọng đó là VÒM RỪNG được một tác giả ở thời đại gần với nhận thức của tôi viết ra. Nhà văn Richard Power sinh năm 1957, từng có không dưới 10 tiểu thuyết đã xuất bản trước VÒM RỪNG và đến lượt đứa con tinh thần này ông đã dâng hiến toàn lực trong 5 năm, khi phát biểu với tờ The New York Times, nhà văn đầy nghi ngại mình khó có thể viết tiếp. Thật may cho chúng ta, những người vốn ham thích văn chương và đặc biệt là sự uyên áo cừ khôi của Richard Power, tác giả sẽ tiếp tục đưa người đọc đến với "Bewilderment", là tựa đề cuốn sách tiếp theo của ông, hy vọng chúng ta sẽ được trên tay một ngày không xa.   Mời các bạn đón đọc Vòm Rừng của tác giả Richard Powers & Hà Uy Linh (dịch).
Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo - C. S. Lewis
HỌ MỞ MỘT CÁNH CỬA BƯỚC VÀO CẢ MỘT THẾ GIỚI Narnia…một vùng đất bị đóng băng bởi mùa đông vĩnh cửu…một vùng đất đang chờ đợi để được giải phóng. Bốn nhà thám hiểm bước qua cánh cửa của chiếc tủ áo và rơi vào vùng đất của Narnia - một vùng đất đang chịu sự thống trị bởi quyền năng của mụ Phù thuỷ Trắng. Nhưng khi mọi hy vọng gần như đã bị dập tắt thì Sư tử vĩ đại Aslan trở về, được xem là bắt đầu của những thay đổi lớn lao… *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ã từng có bốn đứa trẻ tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Câu chuyện này kể về một chuyện đã xảy ra với chúng trong thời gian chúng bị đưa đi khỏi London để tránh những trận công kích. Chúng sơ tán đến nhà một giáo sư già sống ở trung tâm đất nước, cách ga xe lửa gần nhất 10 dặm và cách bưu điện 2 dặm. Ông không có vợ con và sống trong một tòa nhà rộng mênh mông với một bà quản gia tên là Macready và ba người giúp việc. (Tên họ là Iry, Margaret và Betty nhưng họ không xuất hiện trong chuyện này nhiều). Giáo sư tuổi đã già, rất già, tóc râu bờm xờm, bạc trắng cả trên mặt lẫn trên đầu và bọn trẻ đem lòng quý mến ông ngay lập tức. Nhưng vào cái buổi tối đầu tiên, khi ông đứng chờ đón chúng ở cửa trước, trông ông lạ đến nỗi Lucy (cô em út) cảm thấy hơi sờ sợ, còn Edmund (đứa áp út) thì lại buồn cười và nó phải giả tảng là đang hỉ mũi để che giấu điều này. Ngay sau khi chúc giáo sư ngủ ngon, bọn trẻ lên lầu ngủ đêm đầu tiên và bọn con trai đã kéo sang phòng con gái để tán chuyện. - Chúng ta đã đi đến nơi đến chốn. – Peter nói.- Mọi chuyện rồi sẽ tuyệt lắm đấy! Chà chà, ông già này sẽ để cho chúng ta muốn làm gì tùy thích. - Em nghĩ đấy là một ông già đáng mến!- Susan nói. - Ồ, đừng giở cái giọng ấy ra đi!- Edmund nói, nó đang mệt mà lại phải giả vờ là không mệt, điều này bao giờ cũng khiến nó trở nên cáu bẳn, khó chịu.- Đừng có tiếp tục cái kiểu ăn nói như thế. - Như thế là thế nào? – Susan hỏi.- Dù sao thì cũng đến giờ em đi ngủ rồi đấy. - Cứ làm như mẹ người ta ấy, Edmund dấm dẳn. – Chị là cái thớ gì mà bảo tôi đi ngủ? Chị đi ngủ đi! - Cả mấy anh em mình cùng đi ngủ không hơn sao?- Lucy hỏi.- Chắc chắn là lại cãi vã nếu chúng ta tiếp tục nói chuyện theo kiểu này. - Không, khoan hãy đi ngủ.- Peter nói.- Để anh bảo cho các em biết, đây là một kiểu gia đình không có ai để ý đến việc chúng ta làm đâu. Dù sao họ cũng không nghe thấy chúng ta đâu. Từ đây đi xuống phòng ăn cũng mất đến mười phút cùng với đủ loại cầu thang và hành lang. - Có tiếng động gì vậy?- Lucy giật mình lên tiếng. Đó là ngôi nhà lớn hơn bất cứ căn nhà nào mà nó đã thấy và ý nghĩ về tất cả những hành lang dài dằng dặc cùng một dãy các cánh cửa dẫn vào những căn phòng trống trải khiến nó cảm thấy hơn rờn rợn. - Chỉ là một con chim thôi, đồ ngốc,- Edmund nói. - Đó là một con cú, - Peter nói. – Đấy là một nơi tuyệt vời dành cho chim chóc. Anh đi ngủ đây. Anh nói thế đấy, hãy mở một cuộc thám hiểm nơi này vào sáng ngày mai. Các em có thể tìm thấy bất cứ cái gì ở một nơi như thế này. Có nhìn thấy những dãy núi trên đường chúng ta đi đến không? Còn những cánh rừng nữa? Có thể có đại bàng. Có thể có hươu đực. Sẽ có cả chim ưng nữa. - Và con lửng! – Lucy reo lên. - Cáo!- Edmund đế thêm. - Và thỏ nữa!- Susan nói. Nhưng sáng hôm sau chỉ có một cơn mưa dai dẳng, xám xịt làm thành một bức màn dày và khi nhìn qua cửa sổ bạn chẳng nhìn thấy núi, cũng chẳng nhìn thấy rừng cây thậm chí cả dòng suối chảy qua vườn cũng không. Mời các bạn đón đọc Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo của tác giả C. S. Lewis.
Cháu Trai Pháp Sư - C. S. Lewis
Narnia… một vùng đất có những con thú biết trò chuyện…một mụ phù thuỷ ẩn nấp… và là nơi mà một thế giới mới sắp được tạo ra. Trong một chuyến đi táo bạo để cứu lấy sự sống, hai người bạn bị cuốn vào một thế giới xa lạ, và bị mụ phù thuỷ độc ác bắt làm nô lệ. Nhưng rồi chính bài hát của sư tử Aslan đã dệt nên một tấm vải về một vùng đất mới, một vùng đất mà sau này chính là Narnia. Và ở Narnia, mọi chuyện đều có thể xảy ra… ***     Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta.     Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter.      Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn.      Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng      Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963.     Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn.     Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ây là câu chuyện kể về một sự kiện đã xảy ra lâu lắm rồi. Ngày ấy, ông nội bạn vẫn còn là một đứa trẻ. Đây cũng là một câu chuyện hết sức quan trọng bởi vì nó cho biết chuyện gì đã xảy ra giữa thế giới của chúng ta với mảnh đất Narnia từ buổi khai thiên lập địa. Vào thời điểm ấy, thám tử tài ba Sherlock Holme vẫn sống ở đường Baker còn Bastables thì đang tìm kho báu ở đường Lewisham. Thời ấy, nếu bạn là một cậu bé, bạn sẽ phải mặc áo cổ cồn kiểu Eton thít chặt lấy cổ còn bọn học sinh ấy mà, đúng là được xếp thứ ba trong việc quậy – chỉ sau ai thì bạn biết rồi đấy. Nhưng các món ăn thì ngon hết biết, còn kẹo bánh thì… Thôi, tôi chả nói nó rẻ và ngon đến mức nào đâu, e sẽ làm bạn chảy nước miếng vì thèm mất thôi. Phải vào thời ấy, có cô bé tên là Polly Plummer. Cô bé sống trong một căn hộ nằm trong một dãy nhà liên kế dài. Một sáng nọ trong lúc ra vườn sau chơi cô thấy một thằng nhóc đang trèo lên bức tường nhà bên cạnh. Polly lấy làm thắc mắc bởi vì cho đến lúc ấy nó chưa hề trông thấy một nhóc nào ở nhà bên ngoài ông già Ketterley và cô Ketterley, vốn là hai anh em ruột – một ông già độc thân và một bà cô không chồng. Vì thế khi ngóng cổ nhìn sang, trên mặt con bé mang một dấu hỏi to đùng. Mặt cậu bé kia thì nhem nhuốc như hề. Khó có thể làm cho mặt nó bẩn hơn, kể cả khi nó nghịch đất nghịch cát rồi vì một lí do gì đó khóc nức nở và đưa hai tay lên lau mặt. Nhưng thật ra thì đó gần như là điều mà nó vừa làm. Mời các bạn đón đọc Cháu Trai Pháp Sư của tác giả C. S. Lewis.
Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr
Cặp djinn sinh đôi John và Philippa Gaunt, một lần nữa lần theo dấu vết của một bí ẩn mang đầy dấu vết ma thuật. Chu du trên lốc gió từ New York đến London, rồi lại từ Nepal đến Ấn Độ, cặp sinh đôi mang trên vai nhiệm vụ trợ giúp cậu bạn djinn của họ, Dybbuk, tìm ra kẻ đã ám sát người bạn thân của Dybbuck bằng nọc một con rắn hổ mang chúa. Và, khi xâm nhập vào thế giới nguy hiểm của Giáo phái Chín Hổ Mang, John và Philippa bất ngờ nhận ra chúng chính là mục tiêu của giáo phái thờ rắn kỳ dị này. Giờ đây, cặp sinh đôi phải tìm được bùa thế thân Hổ Mang Chúa vô giá, và ngăn chặn kế hoạch hiểm độc của giáo chủ giáo phái Chín Hổ Mang! *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** Lời của Tác Giả Cho những độc giả “lỡ” quên mất chuyện đã xảy ra trong hai tập đầu tiên John và Philippa Gaunt là hai bạn nhỏ sống ở New York. Sau khi nhổ răng khôn, cả hai bất ngờ phát hiện ra mình là djinn. Răng khôn, cũng giống như sự thông minh, xuất hiện sớm hơn đối với những đứa trẻ djinn. Cậu Nimrod của John và Philippa, một djinn cực kỳ mạnh sống ở London, là người đã hướng dẫn hai bạn “nhập môn” djinn ở Ai Cập, một đất nước với khí hậu nóng bức phù hợp cho quá trình phát triển sức mạnh djinn. Được tạo ra từ lửa, djinn vốn không ưa gì cái lạnh, và những djinn trẻ chưa trưởng thành như John và Philippa gần như không thể “vận” được sức mạnh djinn khi ở trong vùng khí hậu lạnh. John và Philippa vẫn còn rất nhiều điều phải học hỏi về djinn, và sức mạnh của chúng vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, đừng xem thường hai bạn trẻ này. Là một cặp djinn sinh đôi - không phải dạng giống nhau như đúc đâu nhé - khi hợp sức lại với nhau, chúng có được một sức mạnh to lớn như bất kỳ djinn trưởng thành nào. Điều này giải thích tại sao hai bạn có thể giúp cậu Nimrod ngăn chặn kế hoạch lợi dụng 70 djinn thất lạc của Akhenaten để thay đổi sự cân bằng sức mạnh giữa ba tộc djinn Tốt và ba tộc djinn Xấu - còn gọi là Sự Điều Bình - của Iblis, gã djinn độc ác nhất thế giới. Trong khi tất cả những chuyện đó xảy ra, người mẹ djinn của chúng, bà Layla, ở nhà và cố không liên hệ gì với thế giới djinn, để giữ an toàn cho chồng, ông Edward Gaunt, một người bình thường và là một giám đốc ngân hàng. Mọi việc đều ổn thỏa, ít nhất là khi sức mạnh đặc biệt của cặp sinh đôi vẫn chưa bị phát hiện. Nhưng khi Philippa bị bắt cóc bởi Ayesha, vị djinn tối cao của thế giới djinn, người có vẻ đã quyết định lựa chọn cô bé làm người kế vị vị trí Djinn Xanh Babylon của mình, Layla nhận ra bà không thể bỏ mặc tương lai của con gái. Để có thể có được sự tôn trọng của tất cả djinn - cả phe Tốt và phe Xấu - Djinn Xanh buộc phải cỏ một sự độc lập hoàn toàn về lý trí. Nó còn là một vị trí đòi hỏi sự hy sinh cá nhân đáng kể, vì Djinn Xanh buộc phải từ bỏ gia đình để sống một mình, đứng bên ngoài phạm trù Tốt và Xấu. Và vì thế, Layla đã quyết định can thiệp và âm thầm hỗ trợ John trong nhiệm vụ giải cửu em gái tại Iravotum - quốc gia ngầm dưới lòng đất của Djinn Xanh ở Babylon. Nhưng rồi, Layla phát hiện ra người mà Djinn Xanh thật sự nhắm tới không phải là Philippa mà chính là bà. Và, để tuổi thơ của con gái không bị đánh cắp, Layla đã chấp nhận điều kiện của Ayesha: khi Ayesha qua đời, chính bà, chứ không phải Philippa, sẽ trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo. Philippa và John dĩ nhiên rất sốc khi phát hiện ra Ayesha là bà ngoại của mình. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không biết rằng chẳng bao lâu nữa, người mẹ yêu dấu của chúng sẽ rời khỏi nhà vĩnh viễn. Trong khi Iblis tiếp tục là kẻ thù lớn nhất của cặp sinh đôi, Philippa và John đã có được một vài người bạn tốt. Đầu tiên là ông Rakshasas, vốn là một người bạn thân của cậu Nimrod, một djinn lớn tuổi có sức mạnh đang hao mòn dần, nói tiếng Anh với chất giọng của người Ai-len dù sinh ra ở Ấn Độ. Tiếp theo là ông Groanin, quản gia kiêm tài xế trung thành của cậu Nimrod đến từ Manchester, người chỉ còn một cánh tay do tích tắc bất cẩn trước một con hổ đói tại Bảo tàng Anh quốc. Cũng phải kể đến Dybbuk, một cậu bé djinn sống ở Palm Springs, California, cùng mẹ là bác sĩ Jenny Sachertorte. Ông bà Gaunt còn có một bà quản gia trung thành tên Trump, người vẫn tiếp tục làm việc cho nhà Gaunt sau khi Philippa đã bí mật biến điều ước được trúng giải độc đắc xổ số New York của bà thành hiện thực. P.B. Kerr, tháng Hai năm 2006 Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu của tác giả Philip Ballantyne Kerr.