Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Khúc Chiều Thu

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao. Năm giờ chiều tan sở, Đồng Chi Quyên vội vã rời khỏi văn phòng làm việc ở cao ốc Giao Tân. Nàng đi thẳng sang cửa hàng thực phẩm tận bên kia đường. Buổi sáng khi đi làm, bước ngang qua đây, Chi Quyên đã thấy nó được đựng trong những chiếc hộp xinh xắn. Vy mà thấy được hẳn vui lắm. Chi Quyên nghĩ điều đó chợt thấy lâng lâng niềm vui. Cách đây không lâu, Vy còn nói với nàng. - Chị Ơi, hôm nào mình đi đào củ năng nhé? Hôm nào? Chi Quyên không thể nói cho Vy biết là không bao giờ có cái ngày đó nữa. đào củ năng? đó là chuyện xảy ra đã lâu... Lâu lắm rồi. đến độ Chi Quyên cũng quên bẵng đi. Vậy mà Vy vẫn nhớ. Lúc đó, gia đình của Chi Quyên ở ngoại ô thành phố Đài Bắc. Chung quanh nhà toàn là những cánh đồng cỏ lau. Mỗi sáng, cha mẹ, Chi Quyên và Vy đều ra ngoài, chạy nhảy trên đồng cỏ, hái hoa, đào củ năng... Lúc đó Chi Quyên và Vy thường đua nhau xem ai đào được củ to.  Bấy giờ Chi Quyên 17 và Vy mới 16 tuổi, cha mẹ còn đầy đủ. Thế còn bây giờ, cha mẹ Ở đâu? Lúc đó ngoại ô Đài Bắc chỉ có cỏ dại, ruộng vườn. Còn bây giờ, ở những nơi đấy đã mọc đầy những ngôi nhà cao tầng. Thời gian trôi nhanh, mọi vật dời đổi... Vy có biết những điều đó không? Có cần cho nó biết không? Đến trước cửa hàng thực phẩm, Chi Quyên thấy rõ ràng hàng củ năng mới dược chào hàng. Từng hộp từng hộp xinh xắn bọc trong giấy nhựa, có cả băng vải cột bên ngoài trông thật dễ thương.  Chi Quyên cầm một hộp lên rồi xem giá tiền, 40 đồng! Chi Quyên giật mình. Số tiền to quá, phải 40 đồng mới mua được hộp củ năng nhỏ. Với 40 đồng đó. Chi Quyên có thể làm được biết bao việc. Có thể mua áo mới cho Vỵ à, đôi giày cũng đã thủng đế... Mà Chi Quyên cũng không biết tại sao Vy lại mặc áo hao như vậy, giày cũng mau mòn như vậy? Nhưng mà... Chi Quyên lại phân vân với hộp củ năng trên taỵ 40 đồng, mắc quá. Lương tháng cả tháng của Chi Quyên lại chỉ có 4000 đồng... Thế này... Chi Quyên lại lưỡng lự. Ông Chủ tiệm bước ra.  - Cô muốn mua mấy hộp hở cô? Mấy hộp à? Chi Quyên mở to mắt. một hộp còn không có tiền mua ở đó mà mấy hộp. Chi Quyên lắc đầu vừa định rời khỏi tiệm, thì sau lưng có tiếng kèn xe. Chi Quyên quay người lại chiếc Datsun quen thuộc đang ngừng trước cửa tiệm. Một người đàn ông trung niên bước xuống xe.  - Mua trái cây hở Chi Quyên? Chi Quyên giật mình, đó là ông Phùng Tính Lân và là ông chủ của nàng. Không hiểu sao mỗi lần đứng trước ông Lân là Chi Quyên bối rối. Cái thái độ từ tốn, chậm rãi mà chỉ có những người đàn ông từng trải mới có, dễ làm cho người đối diện lúng túng. Mỗi lần ông Lân nhìn Chi Quyên như vậy là nàng bối rối. Ngay trong tiềm thức, nàng đã thấy sợ Ông Lân. Tại sao lại sợ? Dư luận ư? Không biết. Chỉ biết một điều là... Công việc làm đối với nàng rất quan trọng. Sự quan trọng đó làm nàng rụt rè. Vâng, Chi Quyên sợ những lời đàm tiếu không đâu, có thể khiến nàng bị mất việc.. Nàng sợ cấp trên không hài lòng... Mà cũng sợ cấp trên "quá hài lòng" nữa. Tóm lại nàng sợ đủ thứ. Làm người quả khó khăn.  - Dạ, không... Tôi chỉ mua một hộp củ năng thôi.  Chi Quyên trả lời lí nhí rồi vội vã móc 40 đồng ra trả. Ông Lân hỏi. - Mua có một hộp thôi à? Thế có đủ ăn không? Chi Quyên lúng túng. nàng không biết phải giải thích làm sao, chỉ cúi đầu nói. - Dạ, không phải để ăn! Tại tôi thích củ năng.  ông Tính Lân nhìn Chi Quyên cười, không hỏi tiếp. con gái thường hay vậy. Mua một hộp củ năng, không phải để ăn, để làm gì? Thích thôi à? ông nhìn xuống những hộp năng đang trưng bầy. Những chiếc hộp nhỏ thắt nơ xinh xắn trông thật mộng mợ Ông Lân chăm chú nhìn Chi Quyên. Hàng lông mi dài cong vút, cái khuôn mặt sáng sủa, cái miệng nhỏ xinh xinh và cái cằm nhọn. Nhưng mà không hiểu sao tuổi thanh xuân kia lại như lúc nào cũng có nét buồn u uẩn nào đó... Ông Lân lắc đầu. Nguyên tắc làm việc bấy lâu nay của ông là không dính dáng gì đến chuyện riêng tư của nữ nhân viên. Duy chỉ có Chi Quyên là ngoại lệ cái cô bé mới vào làm có một năm, với thái độ rụt rè cố hữu, lúc nào cũng chăm chỉ với công việc. Không có nụ cười. Khoảng cách chủ tớ khá rõ ràng... Chi Quyên là một cái dấu hỏi. Nhưng dấu hỏi kia lại làm cho ông tò mò để ý. Cái đó ông Lân cũng không biết tại sao, ông chỉ cảm thấy nhiều lúc mình hay thắc mắc một cách kỳ cục. Tại sao vậy?  - Nhà cô ở đâu Chi Quyên? Tôi lái xe đưa cô về nhé?  Chi Quyên vội vã đáp với một chút ngại ngùng.  - Dạ khỏi tôi thích đáp xe buýt hơn.  Nói xong, nàng ôm hộp củ năng bỏ đi như chạy trốn. Mãi đến lúc tiếng xe của ông Lân xa dần, nàng mới thở phào, nàng đi chậm lại. Hướng về phía trạm xe buýt. Ôm chiếc hộp giấy trước ngực, Chi Quyên chợt bâng khuâng. Không biết ban nãy mình có làm gì cho ông Lân buồn không? chuyện đó có ảnh hưởng gì đến công việc làm của mình không? Tất cả những bứt rứt đó chỉ ngừng lại khi chiếc xe buýt trờ tói. Người sao đông thế? giành giật chen lấn lên xe, Chi Quyên bước lên mà lo lắng. Không biết hộp củ năng rồi có bị bẹp đi không? Nàng căng thẳng. 40 đồng đấy! mà chỉ có 20 củ. Bị đè nhẹp là đau vô cùng. Chi Quyên ôm cứng chiếc hộp trước ngực, cẩn thận bước lên xe.  Xe chạy chậm quá. Thật lâu mới đến được trạm gần nhà, Chi Quyên xuống xe, mình đẫm ướt mồ hôi. Nhìn chiếc hộp đựng củ năng còn nguyên vẹn, nàng thở phào nhẹ nhõm. Hoàng hôn của mùa hè. Mặt trời đỏ chói. Một buổi hoàng hôn đẹp. Có niềm vui thoảng nhẹ khi nàng nghĩ đến chuyện Vy sẽ mừng ra sao khi trông thấy chiếc hộp củ năng này. Chi Quyên bước nhanh hơn, đi về phía con hẻm dẫn vào nhà. Nhưng vừa đến đầu hẻm, nàng đã chựng lại nhìn chiếc hộp củ năng trên tay suy nghĩ. Thế này không được, ta không thể đưa cho Vy thế này. Những củ năng nhặt ở ngoài đồng không nằm trong hộp đẹp, Chi Quyên nhớ lại ngày trước, khi cùng gia đình đi đào xới. Nhiều khi còn có cả rễ... Nàng ngẫm nghĩ, rồi cắn răng xé bọc giấy kiếng bên ngoài ra, tháo cả băng vải và hộp carton ném vào sọt rác. Nàng dùng tay bụm lấy 20 củ năng, bước nhanh về hướng nhà. Chưa lách qua cái ngõ hẻm hẹp hơn, Chi Quyên đã nghe thấy tiếng ồn ào. Không cần nghĩ, nàng đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nàng buồn bực bước nhanh hơn. Trước mắt nàng là Vỵ Dáng dấp cao lớn của Vy đứng giữa lòng hẻm. Mặt mày lem luốc. áo tả tơi với cây chổi trên taỵ Vy đứng chống nạnh như một vị thần giữ cửa, đám trẻ con thì vây quanh vừa cười vừa hét. Chi Quyên thấy cảnh đó, vừa giận vừa buồn. Nàng gọi lớn. - Vy! Vy nghe tiếng chị kêu. Nhưng vẫn đứng bất động, nhìn nàng cười. - Ồ, chị! Chị xem này, em là Trương Phi, em bận giữ thành, không thể đi đâu được hết. Chi Quyên giận dữ. - Vy! Em đã hứa với chị là không ra ngoài. em lại để rách hết áo thế này? Em đã làm sai, em biết không.  Vy tròn mắt nói. - Đâu có chị? Em là Trương Phi mà? Em mới đánh thắng một trận. Chị biết em đánh với ai không? Tào... Tào...  Thằng nhỏ đứng bên cạnh lên tiếng.  - Tào Tháo! Vy kiêu hãnh nói.  - Đúng rồi, Tào Tháo! Em đã đánh thắng trận.  Chi Quyên đau khổ nói.  - Túy Vy Em về nhà ngay cho chị.  Vy lắc dầu.  - Không được. Em là Trương Phi mà.  Chi Quyên nói và bước tới.  - Em tầm bậy quá, em nào phải là Trương Phi, em là Đồng Túy Vy! Túy Vy thấy chị định ngăn nên quay lưng bỏ chạy, vừa chạy vừa nói.  - Chị bắt không được em đâu, chị sẽ không bắt được em đâu.  Chi Quyên giậm chân.  - Túy Vy.  Nàng biết là sẽ gặp rắc rối. Nhưng nhớ sực lại những củ năng, nàng đưa lên: - Túy vy, em lại đây. Chị vừa mới hái củ năng về cho em nè. Quả nhiên vừa nghe nàng nói, Túy Vy đã dừng chân lại, nhưng nó có vẻ nghi ngờ. - Củ năng à? - Ờ. Đây nè. Túy Vy nghiêng nghiêng đầu.  - Chị không gạt em chứ? - Em nhìn thử xem cái này là cái gì? Chi Quyên xoè tay ra. Mắt Túy Vy chợt sáng. Đúng rồi củ năng. Vy hét lên mừng rỡ. Rồi chạy vù về phía Chi Quyên.  - Củ năng, ồ củ năng. Chị mới đi đào đấy à? Chúng ta cùng đi đi.  Ngay lúc đó một chiếc xe gắn máy chạy vụt đến, Chi Quyên sợ quá hét lên.  - Túy Vy, cẩn thận! Nhưng không còn kịp. Diễn biến xảy ra quá nhanh. đầu tiên cây chổi trên tay của Vy đã quơ về phía xe. Làm chiếc xe lách nhanh, đâm sầm vào người Túy Vỵ Chi Quyên sợ hãi, buông hết những củ năng trên taỵ Bổ nhào về phía Túy Vỵ Chiếc xe cũng vừa kịp thắng gấp, đầu xe bị quay đi. Túy Vy và Chi Quyên thì không sao, nhưng chiếc xe đã đổ kềnh. Người lái xe bị té văng mấy vòng. Hình như đã bị thương. Chi Quyên vội chạy đến, tái mặt hỏi: - Trời ơi, anh có sao không? Có bị thương chỗ nào không? Người lái xe nằm dài trên đường. Chiếc nón an toàn ụp xuống mặt. Anh ta chậm rãi ngồi dậy kéo chiếc mũ ra. Một khuôn mặt rất trẻ, rám nắng. Một đôi mắt đầy nghị lực đang trừng trừng nhìn Chi Quyên.  - Mấy người làm gì thế? đang diễn kịch "đánh cướp" ngoài đường ư? Còn nói chuyện được! Thế này hẳn vết thương không nặng lắm. Chi Quyên thở ra nhưng vẫn lo lắng.  - Anh bị thương ở đâu vậy? Gã Thanh niên đứng dậy dựng xe lên, lấy tay gõ gõ lên đầu gối nói. - Chưa biết. Chân và người còn dính liền nhau, tay chưa gãy vậy chắc không sao đâu.  Chi Quyên bứt rứt.  - Nhưng mà... Tay anh đang chảy máu kìa.  Đúng rồi, tay bị lát một miếng da khá lớn, đang chảy máu. Ngoài vết thương đó hình như không còn vết thương nào khác. Chi Quyên còn đang phân vân chợt thấy đám đông bu lại. Túy Vy lại chen vào, nắm lấy tay anh chàng thanh niên khóc.  - Không biết đâu, anh làm vỡ hết những củ năng của tôi, anh phải đền đi. Đền đi! Chi Quyên vừa giật mình vừa tức. Nàng chụp lấy em tức giận la lên...  - Túy Vy... Em đã gây chuyện thế này còn quậy gì nữa chứ? Em muốn chị phải làm sao đây? Túy Vy buông tay thanh niên ra, quay lại nhìn thấy chị khóc, nó có vẻ sợ hãi, lúng túng.  - Chị Quyên, chị đừng khóc, em biết em sai rồi, em sẽ không dám nữa đâu.  Chi Quyên ra lệnh.  - Vậy thì em về nhà tắm rửa cho sạch sẽ đi.  Túy Vy vội bỏ đi, vừa đi vừa nói. - Vâng em đi, em đi ngay đây.  Chi Quyên nhìn theo bóng Túy Vy đi khuất mới quay lại. Anh chàng lái xe mục kích sự việc xảy ra, anh có vẻ ngạc nhiên nhìn đám đông, rồi nhìn Chi Quyên đang khóc, anh ta có vẻ thương hại.  - Không sao đâu, tôi không sao đâu. Nhưng mà sao cô lại khóc? Chi Quyên không đáp chỉ nói.  - Anh đến nhà tôi nhé? Nhà tôi có thuốc, tôi sẽ giúp anh rửa vết thương.  Chợt có một thằng bé nói.  - Đừng có đi, em của chị ấy là thằng điên đấy. Gã thanh niên nghe nói hơi do dự, nhưng Chi Quyên lắc dầu.  - Anh đừng nghe lời chúng nó, em tôi không có điên đâu.  ánh mắt của nàng đen nháy, đôi mắt hơi buồn nhưng thành thật. Gã thanh niên nhìn Chi Quyên rồi quyết định: mặc, điên hay không thì chẳng phải vấn đề. Không lẽ chỉ nghe dọa là rút lui? Thế là vừa đẩy xe anh vừa nói với Chi Quyên.  - Được rồi, tôi sẽ theo cô.  Đám đông đứng qua một bên. Chi Quyên dẫn đường về nhà. Gọi là "nhà" chứ đấy giống như một chòi nhỏ không sân, mặt hướng ra hẻm, đa số những ngôi nhà ở khu này đều như nhau, những ngôi nhà gỗ cũ kỹ không lầu, chật hẹp. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, một hoặc hai năm. Rồi tất cả sẽ bị thay bằng những nhà cao tầng. Lúc đó số người sống ở đây sẽ dọn đi đâu? Anh thanh niên trẻ nghĩ ngợi và nhìn quanh một cách hiếu kỳ. Dựng xe ngoài cửa, anh theo chân Chi Quyên bước vào nhà, vừa vào trong đã thấy Vy ngồi đàng hoàng trên ghế. Người đã được lau chùi sạch sẽ. Anh ta đang cắn móng tay, thái độ của kẻ phạm tội đang hối lỗi. Thấy chị và khách bước vào, Vy có vẻ sợ sệt. Quyên nhìn thấy em như vậy, không nỡ giận nữa, nàng thở ra bảo. - Đi tắm rồi thay áo quần đi, xong hãy vào phòng, bao giờ tới giờ cơm chị kêu thì mới được ra nhé. Chi Quyên nói với cậu ta như nói với một đứa bé mới lớn. Túy Vy cũng ngoan ngoãn đứng dậy làm theo, đến cửa, Vy quay lại nhìn chị với ánh mắt rụt rè. - Nhưng mà... Chị không giận em chứ? - Nếu em nghe lời chị, thì chị không giận.  Túy Vy cười rạng rỡ.  - Vâng, em sẽ vâng lời. mai chị sẽ đưa em đi nhặt củ năng nhé? Củ năng? Thàng bé không quên chuyện củ năng. Chi Quyên bứt rứt nhìn em gịuc.  - Ờ, chuyện ngày mai để mai tính. Bây giờ em vào đi.  Túy Vy vẫn rạng rỡ nụ cười, bước nhanh vào trong. Đợi Vy đi khuất, Quyên mới quay lại. Gã thanh niên xa lạ vẫn nhìn Quyên với ánh mắt tò mò. Anh chàng có vẻ không hiểu. Quyên thấy tức cười và nhìn kỹ. Anh ta cao lớn. Chiếc nón an toàn đã được cởi xuống cho thấy mái tóc đen dài. Một khuôn mặt có góc cạnh. Trán cao, mũi cao, mắt to đen, cằm nhọn. Cái "đẹp" của đàn ông hình như có nhiều loại. Chi Quyên thấy Túy Vy đẹp trai, nhưng cái đẹp của Vy là cái đẹp "sữa". Còn anh chàng này đây đẹp trai như một thanh niên thực thụ.  Chi Quyên chỉ chiếc ghế mây rồi do dự hỏi. - Mời anh ngồi. Anh có thể cho biết quý danh không? Gã thanh niên trẻ nói. Tôi họ âu. Tên Dương Phẩm. Còn cô? - Dạ. Tôi là Đồng Chi Quyên! Chi Quyên nói rồi bước tới xem xét vết thương trên tay Phẩm. Nàng giật mình, vết thương nặng hơn nàng tưởng. Ngoài một mảng da bị mất, còn có một vết toét dài và sâu. Vậy mà không hiểu sao anh chàng lại có vẻ bình thản, không trách móc, cự nự gì cả. Có lẽ chưa kịp chăng? Chi Quyên nói nhanh: - Anh ngồi đây nhé, để tôi đi lấy thuốc.  Bước vào phòng ngủ, Chi Quyên mang thùng thuốc ra. Ở nhà này, thuốc men gần như không thể thiếu vắng. bởi vì cứ cách mấy hôm là Vy bị thương... Băng bó vết thương là một việc làm thường xuyên của Chi Quyên.  Mở thùng thuốc, Chi Quyên lấy bông băng, nước oxy già. Đỡ lấy cánh tay của Phẩm lên, nàng tỉ mỉ chùi lấy vết thương.  - Có đau một chút thì... ráng chịu nhé.  Dương Phẩm có vẻ lạ lùng, chàng nhìn thùng thuốc, trong đó có đủ tất cả. Bông băng, kéo, thuốc rửa, thuốc sát trùng...  Phẩm buộc miệng.  - Thì ra cô là một y tá? Chi Quyên thành thật nói.  - Không phải, tôi tốt nghiệp ở cao đẳng thương nghiệp. Biết đánh máy và kế toán. Hiện đang làm việc ở một công ty trong thành phố. Còn cái thùng thuốc này đây... được chuẩn bị là vì cậu. em của tôi... nó cứ bị thương thường xuyên.  Lợi dụng lúc Phẩm phân tâm, Chi Quyên lấy bông nhúng vào oxy già, quét mạnh lên vết thương. Phẩm rát quá nhảy nhỏm lên. Chi Quyên ngưng lại một chút, rồi tiếp tục xức thuốc, vừa xức vừa nói để Phẩm quên đau, Giọng Chi Quyên như nghẹn lại.  - Anh biết không, đám trẻ con ở đây chúng cứ ức hiếp em trai tôi. Có một lần chúng đốt lửa, suýt tí đã thiêu sống thằng bé... Thật là tàn nhẫn... Cái số của mỗi người hình như đều có sướng có khổ, nhưng người ta chỉ biết cái khổ của mình, lại bình thản với cái khổ của người khác. Chi Quyên nói và bắt đầu băng lại vết thương cho Phẩm. Phẩm ngập ngừng rồi nói. - Nêú cô không cho là tò mò... Thì cô có thể cho tôi biết...  Chi Quyên nhìn lên, chớp chớp mắt. ánh mắt của nàng buồn buồn. Quyên nói. - Không có gì đâu. Anh cũng xui thật, anh đi ngang qua, rồi tay bay họa gởi. à anh thấy đấy Vy nó đâu có điên đâu? Có điều... trí óc của nó hơi kém phát triển một chút. bác sĩ nói chỉ số thông minh của nó chỉ ngang với một đứa bé năm tuổi. Và anh biết không, khi ba mẹ tôi còn... Có bao nhiêu tiền người đổ hết tìm thuốc men chữa chạy. Nhưng tất cả đều vô nghĩa. Dương Phẩm nhìn ánh mắt trước mặt.  - Cậu ấy bị thế sau một con kích động hay một bệnh nặng? - Không phải. Bác sĩ nói nó bị bẩm sinh... Mà cái chứng này thì như anh biết, có thể có nhiều nguyên dọ Chẳng hạn như lúc mang thai, mẹ tôi đã uống lầm một thứ thuốc nào đó làm ảnh hưởng đến bộ não nó... Hoặc cũng có thể do di truyền... Tóm lại dù bất cứ nguyên nhân gì, bịnh của nó cũng thuộc loại bất trị.  Chi Quyên vẫn tiếp tục công việc.  - Anh biết không, đám trẻ ở đây cứ ức hiếp, cứ mang nó ra làm trò cười. chế giễu, nhưng mà anh thấy đấy... Vy nó chỉ hơi khờ khạo, chứ tính nó khá lành. Nó không hề có ác ý với một ai. Thỉnh thoảng sự khờ khạo của nó gây ra chuyện không hay như hôm nay... thì cũng không phải là một sự cố ý. Chúng ta làm sao đòi hỏi một đứa có trí khôn 4, 5 tuổi làm như người lớn được phải không anh? - Năm nay cậu ấy bao nhiêu tuổi? Chi Quyên thu xếp cồn lọ bông băng vào thùng thuốc, rồi đứng dậy nói.  - 18 tuổi. Anh Phẩm này, tôi thấy để cẩn thận hơn, anh nên đến bệnh viện xem lại... cái vết thương này hơi sâu, tôi chỉ có khả năng tẩy trùng nhẹ thôi... sợ thế này... có thể gây biến chứng.  Dương Phẩm không quan tâm lắm đến cái vết thương. Chàng ngắm cô gái trước mặt, cái nét mặt hiền hòa, chịu đựng kia như thu hút lấy chàng. - Thế bây giờ cha mẹ cô đâu rồi? Chi Quyên lặng lẽ nói.  - Đều qua đời, định mệnh dường như lúc nào cũng cay nghiệt với những kẻ bất hạnh. Mẹ tôi qua đời khi tôi lên 12, Còn cha tôi thì mới cách đây ba năm. Người đã vì Túy Vy mà khá mệt mỏi.  Nàng nói tới đó, chợt như nhớ ra nên ngưng lại, nàng đẩy mái tóc ra sau, rồi cười nói.  - Xin lỗi nhé, anh Phẩm. Khi không rồi đem những chuyện đâu đâu ra kể cho anh nghe... Ồ mà áo quần anh cũng lấm lem rồi kià. Chiếc áo màu xanh, quần jean trắng của Phẩm gìơ lấm lem cả. Bùn có, mà máu cũng có. Nơi lại bị rách. Chi Quyên xuýt xoa.  - Thật là có lỗi với anh.  Phẩm không quan tâm lắm đến quần áo. Chàng mải bận quan sát ngôi nhà. Những dụng cụ gia đình thật đơn giản. Mấy chiếc ghế, một bàn học, một bàn dùng cơm, một bóng đèn tròn. Trên vách một bức tranh thủy mạc cho thấy chủ nhân cũng thuộc hạng người biết chữ nghĩa. Ngôi nhà khá nhỏ có lẽ chỉ có hai phòng sinh họat và một nhà vệ sinh. Một ngôi nhà với hai chị em nương tựa. Chợt nhiên Phẩm thấy có cảm tình. Xưa đến giờ Phẩm chưa hề tưởng tượng ra có một gia đình như thế...  Bóng tối từ bên ngoài đang lùa vào. trời sắp tối, Phẩm yên lặng và Chi Quyên cũng yên lặng.  Cửa phòng trong chợt mở. Túy Vy Y thò đầu ra.  - Chi ơi chị, em đói rồi.  Đói à? Chi Quyên chợt nhớ ra, chưa nấu cơm, nàng lúng túng nhìn Phẩm.  - Xin lỗi anh Phẩm. Tôi phải vào trong nấu cơm. Tôi xin phép và mong là vết thương của anh mau lành, cũng như xe anh không hư nhiều lắm.  Dương Phẩm chợt đưa tay ngăn lại, chàng cũng không hiểu tại sao mới quen mà chàng lại tự nhiên thế.  - Khoan đã nào? Ban nãy cô đã giúp tôi băng bó vết thương, tôi không biết lấy gì cảm ơn... Hay là thế này... Tôi xin phép được mời chị em cô đi ăn ngoài một bữa, được chứ?  Chi Quyên tròn mắt nhìn Phẩm.  - Ồ không được, không được. Chính chị em tôi làm anh ngã xe. Chuyện đó đã làm tôi áy náy lắm rồi... Làm sao, làm sao lại có thể... bắt anh mời cơm nữa chứ? Dương Phẩm cắt ngang.  - Có gì phải quan trọng vậy? Cũng bởi vì... Tôi cũng thấy đói... Tôi cũng định đi ăn cơm. Mà tánh tôi lại không thích ăn cơm một mình. Nếu mời được hai chị em cô là... tôi vui lắm. Từ xưa đến giờ chàng chưa hề bị ai từ chối, nên chàng nói mà hơi phân vân. Ngay lúc đó Phẩm quay lại bắt gặp ánh mắt trẻ thơ của Vy, chàng nói ngay.  - Túy Vy, đói rồi phải không? Thích ăn gì nào? Bánh xép nước? Há cảo, mì bò khỏ hay là thức ăn ngọt? Túy Vy nghe sáng hẳn mắt, quay sang chị.  - Mình có bánh xép nước ăn nữa hả chị? Dương Phẩm chợt nhớ đến những củ năng, bồi thêm.  - Còn có củ năng nữa.  - Củ năng nữa à?  Vy reo lên, Chi Quyên thở dài. - Anh thắng rồi đấy. Chúng tôi thật phiền anh.  Thế là cả ba ra khỏi nhà. Đèn đường đã bật sáng. Bầu trời chỉ có vài ánh sao. Chi Quyên quay sang Phẩm. Chợt thấy ngày tháng như không còn đơn điệu nữa. Gió đem mát lạnh mùa thu đã đến. Mời các bạn mượn đọc sách Tình Khúc Chiều Thu của tác giả Quỳnh Dao.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bộ Lục Phạm Pháp Bất Đắc Dĩ
Bộ sách Những Cuộc Phiêu Lưu Mới Của Sáu Người Bạn gồm có: Lớp CE2 Chạm Trán Siêu Nhân Bộ Lục Phạm Pháp Bất Đắc Dĩ Bộ Lục & Chiếc Găng Tay Bí Ẩn Bộ Lục Nhắm Mắt Đưa Chân Paul-Jacques Bonzon (31/8/1908 - 24/9/1978) là nhà văn Pháp, Nổi tiếng với tác phẩm Sáu người bạn đồng hành Les Six Comganons. Ông sinh ra ở Sainte-Marie-du-Mont, Manche. Ông từng theo học tại Saint-Lô. Năm 1935 Ông kết hôn với một giáo viên ở Drôme nơi ông chuyển tới sinh sống và giảng dạy kiêm hiệu trưởng trong vòng hơn hai mươi năm. Ông mất tại Valence năm 1978. Mời các bạn đón đọc Bộ Lục Phạm Pháp Bất Đắc Dĩ của tác giả Paul Jacques Bonzon & Nguyễn Minh Hoàng (dịch).
Tử Thần Sống Mãi
“Tiểu thuyết của Lưu Từ Hân cho thấy trình độ thâm hậu và sự chuẩn bị chu đáo. Ông dùng kiến thức khoa học vững chắc làm nền tảng cho trí tưởng tượng, dung hợp cuộc sống chốn nhân gian và cuộc sống trong tưởng tượng với nhau, tạo ra nét thú vị riêng biệt.” - MẠC NGÔN GIỚI THIỆU SÁCH: Đe dọa khu rừng đen tối giúp nhân loại duy trì thế cân bằng chiến lược với thế giới Tam Thể suốt sáu mươi năm. Song rốt cuộc, một đòn tấn công bất ngờ đã làm thay đổi cục diện. Loài người cận kề bờ vực diệt vong, buộc phải phát đi thông tin tọa độ của hệ sao Tam Thể. Nhưng rồi, họ đối mặt với một vấn đề sinh tồn mới: vị trí của Hệ Mặt trời sớm muộn gì cũng bị lộ trước những tay “thợ săn” vũ trụ. Mọi hy vọng đều gửi gắm vào việc giải mã ba câu chuyện cổ tích được truyền về từ một cá thể nhân loại giấu mình trong nội bộ hạm đội người ngoài hành tinh… Tử Thần sống mãi là kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc của Lưu Từ Hân, như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh, “chập chững bước ra ngoài, bay lên, bay càng lúc càng nhanh, bay càng lúc càng xa, cuối cùng thì hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ.” TÁC GIẢ: Lưu Từ Hân, sinh năm 1963, người Dương Tuyền, Sơn Tây, là công trình sư cấp cao, một trong những tác giả đại biểu cho dòng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Tác phẩm tiêu biểu: Kỷ nguyên sao băng Sét hòn Tam thể *** "Tam thể 3: Tử Thần sống mãi" là một trong những tiểu thuyết sci-fi ăn khách nhất Trung Quốc nay đã trở lại với một kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc "Tam thể", như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh tới khi "hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ". Đây cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Châu Á từng đoạt giải Hugo cho Tiểu thuyết hay nhất, từng được đề cử Giải Nebula cho Tiểu thuyết hay nhất, có thể nói "Tam thể" là bộ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đáng đọc với tất cả những độc giả khao khát được đọc một cuốn tiểu thuyết sci-fi có tầm vóc lớn lao. Tờ New York Times từng nhận xét tiểu thuyết Tam thể đã giúp phổ biến khoa học viễn tưởng của Trung Quốc ra ngoài biên giới và lan rộng khắp toàn cầu. Cuốn sách cũng được rất nhiều người nổi tiếng yêu thích, trong đó phải kể tới nhà sáng lập Facebook Mark Zuckerberg và cựu tổng thống Mỹ Barack Obama. “Tiểu thuyết của Lưu Từ Hân cho thấy trình độ thâm hậu và sự chuẩn bị chu đáo. Ông dùng kiến thức khoa học vững chắc làm nền tảng cho trí tưởng tượng, dung hợp cuộc sống chốn nhân gian và cuộc sống trong tưởng tượng với nhau, tạo ra nét thú vị riêng biệt.” - Mạc Ngôn Đe dọa khu rừng đen tối giúp nhân loại duy trì thế cân bằng chiến lược với thế giới Tam Thể suốt sáu mươi năm. Song rốt cuộc, một đòn tấn công bất ngờ đã làm thay đổi cục diện. Loài người cận kề bờ vực diệt vong, buộc phải phát đi thông tin tọa độ của hệ sao Tam Thể. Nhưng rồi, họ đối mặt với một vấn đề sinh tồn mới: vị trí của Hệ Mặt trời sớm muộn gì cũng bị lộ trước những tay “thợ săn” vũ trụ. Mọi hy vọng đều gửi gắm vào việc giải mã ba câu chuyện cổ tích được truyền về từ một cá thể nhân loại giấu mình trong nội bộ hạm đội người ngoài hành tinh… "Tử Thần sống mãi" là kết thúc hoành tráng và hoàn hảo cho tam bộ khúc của Lưu Từ Hân, như một thiên sử thi về hành trình của mỗi nền văn minh, từ khi thức tỉnh, “chập chững bước ra ngoài, bay lên, bay càng lúc càng nhanh, bay càng lúc càng xa, cuối cùng thì hòa làm một với vận mệnh của vũ trụ. *** Những chuyện xưa nằm ngoài dòng thời gian (trích) LỜI TỰA Những câu chữ này vốn dĩ nên gọi là lịch sử, song những điều mà người viết dựa vào chỉ có ký ức của chỉnh bản thân mình mà thôi, nên viết ra thiếu đi tính nghiêm cẩn của lịch sử. Kỳ thực, gọi là chuyện xưa cũng không chính xác, vì tất thảy không phải xảy ra trong quá khứ, không phải xảy ra trong hiện tại, mà cũng không phải xảy ra trong tương lai. Người viết không muốn đi vào chi tiết, chỉ muốn đưa ra một cái khung cho lịch sử hoặc chuyện xưa mà thôi. Vì những chi tiết được bảo tồn chắc chắn đã phong phú vô cùng rồi, hầu hết những thông tin này đều được lưu trữ trong các chai thông điệp, mong rằng có thể đến được vũ trụ mới và được giữ gìn lâu dài. Bởi vậy, người viết chỉ vạch ra phần khung chính, để một ngày nào đó có thể đem tất cả thông tin và các chi tiết trám vào đó - tất nhiên, đấy không phải việc của chúng ta. Mong rằng ngày đó sẽ đến. Điều khiến người viết lấy làm tiếc nuối là, ngày đó không ở trong quá khứ, không ở trong hiện tại, mà cũng không ở trong tương lai. Tôi dời Mặt trời về phía Tây, khi ánh nắng thay đổi góc chiếu, những giọt nước trên lá mạ non ngoài cánh đồng bỗng chốc sáng lên lấp lánh, tựa hồ vô số con mắt đột nhiên mở bừng ra. Tôi cho ánh nắng tối đi một chút, mang hoàng hôn đến sớm hơn, sau đó dõi mắt nhìn bóng lưng chính mình trên đường chân trời. Tôi huơ tay, cái bóng trước vầng tịch dương kia cũng huơ tay. Ngắm nhìn bóng hình ấy, tôi có cảm giác mình vẫn còn rất trẻ. Đây là một thời điểm tốt, rất thích hợp để hồi tưởng. *** Tháng Năm năm 1453: Cái chết của mụ phù thủy Hoàng đế Constantines XI tạm ngưng dòng suy tư, đẩy đống bản đồ hệ thống phòng ngự thành phố trước mặt ra xa, quấn chặt áo choàng tím, lặng lẽ chờ đợi. Ước tính thời gian của ông ta rất chuẩn xác, chấn động quả nhiên ùa đến đúng giờ, tưởng chừng như đến từ một nơi sâu thẳm trong lòng đất, nặng nề mà dữ dội. Đế chân nến bằng bạc rung lên phát ra tiếng ong ong, một ít bụi trên trần nhà rơi xuống, những hạt bụi này có lẽ đã lặng lẽ ở trên nóc Đại Cung cả nghìn năm. Chúng rơi xuống ngọn lửa nến, làm tóe lên một đám hoa lửa. Chấn động này là do một quả đạn pháo bằng đá hoa cương nặng một nghìn hai trăm pound bắn trúng tường thành gây ra, mỗi lần cách nhau ba tiếng đồng hồ, đây là thời gian mà đại pháo Orbán của Đế quốc Ottoman cần để nạp đạn. Đạn pháo khổng lồ bắn vào tường thành kiên cố nhất thế giới do Hoàng đế Theodosius II xây dựng hồi thế kỷ thứ 5 Công nguyên, sau đó lại không ngừng được mở rộng và gia cố, nó chính là chỗ dựa chủ yếu của triều đình Byzantium trước những kẻ thù hùng mạnh. Nhưng lúc này, mỗi viên đạn pháo khổng lồ đều bắn thủng một lỗ lớn trên tường thành, giống như một miếng cắn của gã khổng lồ vô hình. Hoàng đế có thể hình dung ra cảnh tượng ấy: đá vụn trên không trung vẫn còn lơ lửng, binh lính và thường dân trong thành tràn về lỗ hổng như một đàn kiến anh dũng giữa bụi cát mù trời. Họ dùng đủ thứ lấp kín lỗ hổng, có gạch ngói, gỗ khối dỡ ra từ các tòa nhà trong thành, có những bao tải nhét đầy đất cát, còn có cả những tấm thảm Ả Rập đắt tiền... Ông ta thậm chí có thể hình dung ra cảnh tượng đám mây bụi mù mịt ngấm đẫm ánh vàng trong cảnh tà dương chầm chậm bay vào, trông như tấm vải liệm màu vàng nhẹ nhàng phủ lên thành Constantinopolis. Trong năm tuần thành phố bị vây đánh, mỗi ngày tường thành chịu chấn động này bảy lượt, giãn cách rất đều đặn, như tiếng báo giờ của một cái đồng hồ khổng lồ sừng sững giữa đất trời... Đó là thời gian của một thế giới khác, là thời gian của những kẻ dị giáo; so với nó, tiếng chuông từ chiếc đồng hồ bằng đồng hình chim ưng hai đầu đánh dấu thời gian của thế giới Cơ Đốc nơi góc tường kia nghe thật yếu ớt, bất lực. Chấn động đã lắng xuống được một lúc, Hoàng đế Constantinos XI mới khó nhọc bắt suy nghĩ của mình trở về với hiện thực, ra hiệu cho gã thị vệ trước cửa cho người đang đợi bên ngoài vào. Viên đại thần Phrantzes dẫn một cô gái gầy gò lặng lẽ đi vào. “Thưa bệ hạ, đây chính là Helena.” Viên đại thần chỉ vào cô gái phía sau mình, sau đó ra hiệu cho cô gái đang nấp sau lưng bước lên phía trước mặt. Hoàng đế vừa liếc nhìn qua đã nhận ra thân phận của cô gái. Phong cách ăn mặc của tầng lớp quý tộc thượng lưu và bình dân Byzantium có sự khác biệt rất lớn, thông thường trang phục của phụ nữ quý tộc được gắn đầy các món trang sức hoa lệ, còn phụ nữ bình dân thì chỉ mặc áo dài rộng thùng thình màu trắng, cùng với áo khoác có tay trùm kín cả người, nhưng trang phục của Helena lại là sự kết hợp giữa xa hoa của giới thượng lưu lẫn bảo thủ của bình dân: bên trong cô ta mặc áo trắng liền tay, bên ngoài lại khoác một chiếc áo choàng có mũ đắt tiền, loại áo choàng này lẽ ra phải được khoác bên ngoài chiếc tunica thêu kim tuyến mới đúng. Đồng thời, cô ta không dám dùng màu tím và màu đỏ tượng trưng cho tầng lớp quý tộc, chiếc áo choàng có màu vàng. Gương mặt cô gái toát lên một vẻ đẹp đẽ dâm đãng, khiến người ta nghĩ đến một đóa hoa thà rằng xinh đẹp rồi thôi nát còn hơn ủ rũ héo khô - một ả kỹ nữ, lại còn là loại cao cấp. Hai mắt cô gái cụp xuống, toàn thân run rẩy, nhưng Hoàng đế Constantinos XI để ý thấy đôi mắt cô ta đang sáng lên như thể phát sốt, lộ ra vẻ hưng phấn và kỳ vọng hiếm khi thấy được ở lớp người đó. “Ngươi có phép thuật?” Hoàng đế hỏi Helena, ông ta chỉ muốn nhanh chóng kết thúc chuyện này. Phrantzes làm việc luôn chắc chắn và ổn thỏa, trong hơn tám nghìn quân sĩ giữ thành hiện nay, ngoài đội quân thường trực không lấy gì làm đông đảo và hai nghìn lính đánh thuê Genoa, phần lớn đều do vị đại thần giỏi giang này trưng tập khẩn cấp từng tốp từng tốp một từ hơn trăm nghìn dân cư trong thành. Hoàng đế không có nhiều hứng thú với cô gái này, chỉ nề mặt vị đại thần mà thôi. “Đúng vậy, thưa bệ hạ, tôi có thể giết chết Sultan.” Helena khom gối run rẩy trả lời, giọng nghe mỏng mảnh như một sợi tơ. Năm ngày trước, Helena đến trước cổng cung điện xin gặp Hoàng đế, bị đám vệ binh ngăn cản, cô ta đột nhiên lấy từ trong ngực ra một vật giơ lên, đám vệ binh sững sờ, bọn chúng không biết đó là thứ gì, từ đâu mà có, nhưng đều biết chắc đó không phải vật tầm thường. Helena không gặp được Hoàng đế, cô bị bắt lại giao cho viên quan phụ trách trị an, và bị tra khảo xem cô ta trộm vật đó ở đâu. Helena đã khai nhận, họ cũng đã chứng thực, sau đó cô ta được đưa đến chỗ đại thần Phrantzes. Phrantzes mở túi vải đay cầm trên tay ra, cẩn thận đặt vật bọc bên trong lên bàn đọc sách của Hoàng đế, ánh mắt Hoàng đế Constantinos XI chợt sững sờ giống hệt đám vệ binh khi trông thấy vật đó năm ngày trước - khác với bọn chúng, ông ta biết đây là thứ gì. Đây là một chiếc Chén Thánh bằng vàng ròng, bên trên khảm nạm đầy đá quý, sắc vàng óng ánh khiến tâm hồn người ta phải run rẩy. Chén Thánh này được đúc ra vào thời Justinian Đại Đế hồi chín trăm mười sáu năm trước, tổng cộng có một đôi, ngoài hình dạng và bố trí các viên đá quý trên đó thì hoàn toàn giống nhau. Một trong hai chiếc Chén Thánh được các đời hoàng đế gìn giữ đến ngày nay, chiếc còn lại được cất vào một gian mật thất nhỏ bị niêm phong tuyệt đối ở sâu dưới nền móng đại giáo đường Hagia Sophia cùng với các thánh vật khác, khi giáo đường này được xây xong vào năm 537 Công nguyên. Chiếc Chén Thánh đang ở trước mắt ông ta hiển nhiên là chiếc thứ hai, vì chiếc còn lại đã hằn lên dấu vết của thời gian, ảm đạm lu mờ - đương nhiên, phải so sánh với chiếc đó thì mới nhận ra được chiếc Chén Thánh này trông mới tinh khôi như thể vừa được đúc ngày hôm qua vậy. Vốn dĩ không ai tin lời Helena, mọi người đều cho rằng đây là đồ cô ta trộm được của một khách làng chơi giàu có, vì tuy có rất nhiều người biết chuyện bên dưới đại giáo đường có phòng bí mật, nhưng biết được vị trí chính xác của căn phòng ấy lại rất ít; vả lại, giữa những khối đá khổng lồ bên dưới nền móng giáo đường không có cánh cửa nào, thậm chí cả đường hầm dẫn đến căn phòng bí mật ấy cũng không có, không hao tốn nhân lực và thời gian thì hoàn toàn không thể nào vào đó được. Bốn ngày trước, xét đến cục thế nguy nan của thành phố, Hoàng đế ra lệnh đem hết mọi văn kiện và thánh vật quý hiếm đóng gói lại để khi khẩn cấp có thể nhanh chóng chuyển đi, mặc dầu trong lòng ông ta biết rõ đường bộ, đường biển đều đã bị cắt đứt, tường thành mà bị phá thì không còn nơi nào có thể đi được nữa. Ba mươi người phu mất trọn ba ngày mới vào được mật thất, họ thấy các khối đá quây lại thành căn phòng này cơ hồ lớn ngang với đá xây kim tự tháp Kheops. Các thánh vật đều được đặt trong một quan tài đá nặng nề bên trong mật thất, chằng ngang dọc mười hai đai sắt to tướng, phải mất hồi lâu mới mở ra được. Khi tất cả các đai sắt đều đã bị cưa đứt, năm người phu bị đám lính vũ trang xung quanh giám sát chặt chẽ, dốc hết sức lực đẩy nắp quan tài nặng nề ra, thứ đầu tiên thu hút ánh mắt của mọi người không phải các thánh vật và châu báu đã bị niêm phong nghìn năm kia, mà là một chùm nho vẫn còn tươi đặt trên cùng! Helena nói, chùm nho là do cô ta để vào năm ngày trước, hơn nữa đúng như cô ta nói, chùm nho đang ăn dở, chỉ còn lại bảy quả. Sau khi vệ binh kiểm tra hết thánh vật, đối chiếu với danh sách khắc trên một tấm bảng đồng gắn dưới nắp quan tài, họ xác định quả có thiếu một chiếc Chén Thánh. Nếu không phải đã tìm được Chén Thánh ở chỗ Helena đồng thời có lời khai của cô ta, dù tất cả những người có mặt tại hiện trường đều chứng nhận trước đó mật thất và quan tài đá hoàn toàn lành lặn, e rằng cũng có người khó mà thoát chết. “Sao ngươi lấy nó ra được?” Hoàng đế chỉ vào chén Thánh hỏi. Mời các bạn đón đọc Tử Thần Sống Mãi của tác giả Lưu Từ Hân & Lục Hương (dịch).
Phù Sinh Lục Ký
Nhà văn hàng đầu Trung Quốc – Phùng Ký Tài khi được hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?”, Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau”. Sách giáo khoa của Trung Quốc còn trích một số đoạn trong Phù sinh lục ký để làm chuẩn mực về cổ văn cho học sinh trung học. Nhiều tác giả Trung Quốc xem Phù sinh lục ký như một điển phạm khi viết văn. Phù sinh lục ký là tác phẩm kinh điển của Trung Quốc được in đi in lại cả trăm lần ở Đại Lục, được dịch ra mấy chục thứ tiếng trên toàn thế giới, riêng tiếng Anh có đến vài bản dịch, nhưng đây là lần đầu tiên được dịch giả Châu Hải Đường dịch ra tiếng Việt. *** Người ta ngày nay có bao nỗi lo toan bủa vây, thế nên nhiều khi mình chẳng còn nhớ lần cuối cùng tri kỉ đàm đạo nhân tình thế thái là khi nào, cũng quên luôn cả lạc thú tiêu dao tự tại của tao nhân mặc khách đời xưa. Trong số các văn nhân Trung Hoa kinh điển, Thẩm Phục là một cái tên lạ lẫm đối với độc giả Việt Nam, nhưng những tác phẩm của ông được coi là mẫu mực cho cổ văn Trung Hoa cũng như được giảng dạy phổ biến trong các trường học. Phù sinh lục kí là tác phẩm giá trị nhất của Thẩm Phục, gồm những bài ký giàu chất thơ, trong những lời văn uyển chuyển đầy tình ý, ta nghe nhịp nhàng như có phách nhạc phụ họa. Ông đã ghi chép lại những chuyện đời thường một cách đầy say mê, hào sảng nhưng cũng không kém phần nho nhã. Trong từng trang sách, hình ảnh vợ cắm một bình cúc, chồng pha một ấm trà, thưởng ngoạn cảnh đẹp nhân gian với nhau rõ mồn một và rất sinh động. Duyên cầm sắt đâu chỉ là sống bên nhau, còn là sự hòa hợp đồng điệu về tâm hồn, phu thê ăn ý tấu lên khúc nhạc thú vui khuê phòng. Một trích đoạn trong Phù sinh lục kí để thấy rõ tình cảm vợ chồng: Tôi từng nói: “Tiếc rằng nàng là phận gái, chứ nếu có thể hoá nữ thành nam, rồi chúng ta cùng đi thăm danh sơn, tìm thắng tích, ngao du thiên hạ, chẳng cũng thích lắm ư?” Vân nói: “Việc ấy có gì khó, đợi đến khi thiếp bạc mái đầu rồi, tuy chẳng thể xa chơi Ngũ Nhạc, nhưng những chỗ gần đây như Hổ Phụ, Linh Nham, nam đến Tây Hồ, bắc đến Bình Sơn, thảy đều có thể cùng chàng tới chơi được.” Tôi nói: “E là khi nàng đầu bạc thì một bước đi cũng khó.” Vân nói: “Kiếp này chẳng thể, thì hẹn kiếp sau.” Tôi nói: “Kiếp sau nàng nên là con trai, còn ta là gái theo nàng.” Đọc Phù sinh lục kí, độc giả sẽ bắt gặp nhiều điển tích, điển cố cổ của văn học Trung Hoa. Nó vừa thể hiện vốn kiến thức uyên thâm của tác giả, vừa thể hiện được sự uyên bác cùng tình cảm trân quý với những giá trị tinh hoa từ ngàn đời của tác giả. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ tròn khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy nên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. – Ngân Nga Hoàng Nhân, “Phù sinh lục ký” – Một tác phẩm đặc sắc của văn học Trung Quốc vừa được Châu Hải Đường dịch xong, và sắp được xuất bản – song vẫn có nhiều bạn băn khoăn về nội dung và nhầm lẫn với cuốn “Phù sinh lục ký” (Có lẽ lấy lại từ cảm hứng của tác phẩm cổ điển nói trên) của một tác giả trẻ đương đại, vì vậy dịch giả xin có đôi lời thưa thêm về tác phẩm này để các bạn có thêm thông tin. Xin trân trọng cám ơn. “Phù sinh lục ký” là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh – Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất (Theo các nghiên cứu, có thuyết cho ông mất vào năm 1832) . Đáng tiếc rằng, do tác giả của nó không có danh vị cao trong xã hội, kinh tế lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay khi ông sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Cho đến năm Quang Tự thứ 3 (1877), tức là gần 50 năm sau khi ông qua đời, Độc Ngộ am chủ nhân – Dương Dẫn Truyền, người Ngô Huyện, Giang Tô, tìm thấy một cuốn sách viết tay nhan đề “Phù Sinh Lục Ký” ở một tiệm sách nhỏ trong thành Tô Châu, tuy sách đã nát, nhưng có thể đọc thấy tài tình rất mực của tác giả. Sau khi được nhà thơ, học giả nổi tiếng Vương Thao gửi thêm cho xem sáu bài thơ tuyệt cú, ghi là “Đề Phù Sinh Lục Ký” của Quản Thụ Thuyên (Di Ngạc) người Dương Hồ, Dương Dẫn Truyền đã đem cuốn sách in chung vào bộ “Độc Ngộ am tùng sao” của tòa soạn “Thân Báo”, và một bộ kỳ thư ấy đã lần đầu tiên được xuất hiện ở đời. Năm Quang Tự thứ 32 (1906), Hoàng Nhân tiên sinh khi dạy ở đại học Đông Ngô – Tô Châu đã cho đăng “Phù Sinh Lục Ký” trên tạp chí “Nhạn Lai Hồng”. Cuối đời Quang Tự, Vương Văn Nhu lại cho in trong “Thuyết khố”. Năm 1923, Du Bình Bá căn cứ vào văn bản trên “Độc Ngộ am tùng sao”, Tạp chí “Nhạn Lai Hồng”, hiệu điểm in lại tác phẩm, do Khai Minh Thư Cục phát hành. Năm 1935, Lâm Ngữ Đường tiên sinh đã dịch tác phẩm ra tiếng Anh, đăng nhiều kỳ trên nguyệt san “Thiên hạ” và “Tây phong”. Từ đó “Phù Sinh Lục Ký” bèn nổi danh khắp thiên hạ. Nội dung “Phù sinh lục ký” gồm có sáu “ký”, trong đó Thẩm Phục đã viết lại tự truyện của cuộc đời mình, nhưng không theo dòng thời gian biên niên như những cuốn tự truyện thường thấy, mà theo một cách khác: Theo mạch cảm xúc của cuộc sống. Sáu thiên ký ấy là: “Vui Khuê phòng”, “Thú nhàn tình”, “Sầu Trắc trở”, “Thú lãng du”, “Trải Trung Sơn”, và “Nhàn dưỡng sinh”. Trong đó, nổi bật lên là những ghi chép về tình cảm và cuộc sống của ông và người vợ – Trần Vân, với đầy đủ mọi sắc thái hỉ – nộ – ai – lạc, qua đó, có thể thấy tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gầy lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một trình độ nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, “Phù sinh lục ký” đã được xuất bản hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – “Thú nhàn tình” của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai … và xuất bản ở nhiều nước. Ở Việt Nam, thực ra cái tên “Phù Sinh Lục Ký” đã xuất hiện trong tác phẩm “Sống Đẹp” của Lâm Ngữ Đường – do Nguyễn Hiến Lê dịch. Tuy nhiên, có thể nói đây là lần đầu tiên tác phẩm được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Có thể nói, “Phù sinh lục ký” là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Từ sau khi tác phẩm được phát hiện đến nay, đã giành được sự chú ý của vô số những nhà văn hóa nổi tiếng trong và ngoài Trung Quốc. Đã có rất nhiều những lời nhận xét khen ngợi tác phẩm của nhiều danh nhân văn hóa cổ kim, như Lỗ Tấn, Du Bình Bá, Lâm Ngữ Đường, Phùng Ký Tài … nhưng có lẽ, tốt hơn hết là chúng ta hãy tự mình đọc, thưởng thức, và cảm nhận bằng chính cảm xúc của mình, qua ấn bản Phù Sinh Lục Ký lần đầu tại Việt Nam này. – Châu Hải Đường *** Lời giới thiệu Cách đây ít năm, tôi tình cờ đọc một bài trả lời phỏng vấn trên báo của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Phùng Ký Tài về công việc sáng tác tản văn, trong đó có một đoạn hỏi đáp khiến tôi chú ý; khi phóng viên hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?” Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau.” Câu trả lời ấy của Phùng Ký Tài khiến tôi rất tò mò về cuốn Phù sinh lục ký mà ông nhắc đến, đồng thời, cũng thấy một cảm giác rất quen thuộc, tựa hồ mình đã được nghe về cuốn sách đó ở đâu rồi. Sau khi lục soát lại trí nhớ của mình, tôi mới à lên một tiếng: Hóa ra tôi đã từng được nghe đến tên cuốn sách, và được đọc một vài phiến đoạn của nó qua cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, được Nguyễn Hiến Lê dịch. Trong tôi chợt dấy lên một mong muốn tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm mà Lâm Ngữ Đường Phùng Ký Tài đều đánh giá cao, thậm chí dẫn dụng trong tác phẩm của mình này, cũng như về tác giả của nó. Phù sinh lục ký là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh - Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân. Tiếc rằng, do tác giả của cuốn sách không có danh vị cao trong xã hội, gia cảnh lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay thời ông còn sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản Phù sinh lục ký truyền thế giống như bức tượng thần Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của Phù sinh lục ký đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là Túc bản Phù sinh lục ký (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyền kỷ thứ 5: Trải Trung Sơn, và thứ 6: Nhàn dưỡng sinh. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm nguy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần được ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt. Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn Phù sinh lục ký năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tầng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là Ký sự châu của Tiền Vịnh - học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về Phù sinh lục ký, đặc biệt là thiên: Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược,((1) Lưu Cầu: tức quần đảo Ryukyu, thuộc tỉnh Okinawa, cực nam của Nhật Bản ngày nay.) đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 - Trải Trung Sơn (hay còn gọi Hải quốc ký) của Thẩm Tam Bạch. Tuy những phần Tiền Vịnh sao lục chưa đầy đủ quyển kỷ thứ 5 - Trải Trung Sơn - đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông. Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, Phù sinh lục ký đã được xuất hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – Thú nhàn tình của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai... và ở nhiều nước khác. Tuy nhiên cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chúng tôi lựa chọn cách giới thiệu tác phẩm tới các bạn độc giả như là một “Túc bản” với phần chính đầy đủ sáu quyển ký, để độc giả có thể hình dung được diện mạo chung của tác phẩm, dẫu rằng hai quyển sau được cho là ngụy tác. Ngoài ra, chúng tôi có dịch bổ sung thiên Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược từ Ký sự châu của Tiền Vịnh, cùng một số lời tựa, lời đề bạt của sách trong phần Phụ lục để độc giả tiện tham khảo. Văn chương Phù sinh lục ký cô đọng, súc tích, giàu chất thơ, dịch giả tuy đã cố gắng, nhưng cũng chưa thể truyền đạt hết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh bác nhà lượng tình cảm thông (chỉ giáo giúp thêm ý kiến để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn nữa. Tháng đầu thu, Mậu Tuất, 2018 Dịch giả *** Về tác giả Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.     Mời các bạn đón đọc Phù Sinh Lục Ký của tác giả Thẩm Phục.
Cơn Lốc Núi
Xuân Nguyên (1931-2006) là một cái tên quen thuộc đối với người dân Yên Bái. Ông là một trong số những hội viên đầu tiên tham gia sáng lập Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Yên Bái. Cuộc đời Xuân Nguyên gắn bó với sự hình thành, phát triển của báo chí và văn nghệ Cách mạng ở tỉnh miền núi, biên giới Lao Cai qua hai chặng đường chống Pháp và chống Mỹ gian khổ, ác liệt, sau đó là tỉnh Hoàng Liên Sơn – Yên Bái. Ông đã sớm có tác phẩm được đăng trên báo Văn nghệ - một tờ báo có uy tín lúc bấy giờ với hai truyện ngắn viết về đồng bào các dân tộc năm 1968 – 1969 là: Hai ông già chăn dê và Mùa hoa Đi-O-Khang. Hầu hết các tác phẩm của Xuân Nguyên đều viết về đồng bào các dân tộc ở miền núi Lào Cai – Yên Bái như tập truyện ngắn Hoa đào tháng chín (1975), Người mẹ suối Lũng Pô (1980), Đêm mưa giông (1983), tiểu thuyết Cơn mưa giông (1995), Hạnh phúc chẳng ngọt ngào (2007). Ông là người từng trải, giàu vốn sống, am hiểu phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, ông luôn có ý thức học hỏi ngôn ngữ các dân tộc, nhất là dân tộc Mông. Vì vậy, văn phong của ông gần gũi, giản dị, có sự kết hợp hài hòa giữa lối nói của người Kinh và lời ăn tiếng nói của các dân tộc vùng cao một cách nhuần nhuyễn. Điều này thể hiện ở trong các truyện ngắn như Giàng Tủa, Chiếc vòng bạc... Nhiều truyện của Xuân Nguyên thường là sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại làm nổi lên hình ảnh cuộc sống tối tăm, cơ cực của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới chế độ cũ, quá trình vùng lên chiến đấu của đồng bào dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh gian khổ không kém phần quyết liệt để từ bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu do chế độ cũ để lại, trong các tác phẩm Rừng ma, Hoa đào tháng chín... Đặc biệt, tiểu thuyết Cơn lốc núi đề cập đến nội dung tiễu phỉ, một vấn đề nhạy cảm, hấp dẫn nhưng cũng không hề dễ viết. ***  Lại đến phiên chợ. Hồ Thầu rộn rịch tiếng vó ngựa từ lúc gà gáy. Còn tối đất, tiếng nhạc ngựa đã rung loong coong trên đường mòn.          Sau một đêm thao thức chờ trời sáng, lúc này Vàng Khúa Ly đã trở dậy. Cô ra máng nước ở đầu bếp vã nước rửa mặt. Nước lạnh làm tan hẳn cơn ngái ngủ. Cô rút chiếc khăn chàm còn mới treo trên cái móc bằng mắt tre vấn lên đầu. Sau đó Khua Ly lấy chiếc áo xáo-khỏa và cái quần mới đã gói từ đêm trước để sẵn ở đầu giường bỏ vào mã làn cùng với những thứ hàng mang đi chợ bán.          - Bắt con gà mái vàng béo nhất mang đi mà đổi muối. - Tiếng mẹ cô từ trong buồng nói vọng ra.          - Vâng. - Vàng Khúa Ly đáp.          - Nhớ mà về sớm. Dạo này lính Phăng Ky[1]hay ra chợ cướp gà và trêu con gái đấy ! Bọn con trai các bản cũng hay đi “cướp vợ”, nhớ rủ bạn đi cho đông... Đừng nhẹ dạ tin người buôn ở chợ.          Khúa Ly sửa soạn đi chợ trong tiếng dặn ân cần của mẹ.          Con ngựa buộc ở hiên nhà nghe tiếng hí của những con ngựa đi qua cửa cũng gõ móng cong cóc lên các tảng đá lát chuồng. Ngựa vẫn nhai ngô rau ráu, thỉnh thoảng lại thở phì phì trước cơn gió lạnh.          Vàng Khúa Ly vác cái thồ đã buộc mã làn kềnh càng đặt lên lưng ngựa. Có tiếng gọi :          - Khúa Ly, đi chợ thôi !          - Chị Seo Mỷ đấy à, em đi đây.          Khúa Ly chào mẹ rồi cởi sợi dây thừng bằng móc dắt ngựa ra sân. Cô nhẹ nhàng nhảy lên ngồi giữa hai cái mã làn, hai chân vắt về một bên, rồi giật cương cho ngựa chạy xuống đường.          Con ngựa đã chồn vó suốt đêm, giờ đây mặc sức nện vó trên nền đường đá. Chùm nhạc rung reng theo tiếng vó ngựa.          Trời còn tối mò nhưng Khúa Ly đã nhận ra Seo Mỷ đúng đợi ở giữa đường qua tiếng thở phì phì của con ngựa. Hai con ngựa hí dài chào nhau.          - Đi có sớm quá không ?          - Không sớm đâu. Đến chợ thì ông mặt trời cũng lên quá đỉnh Ngũ Chỉ Sơn rồi. - Seo Mỷ trả lời Khúa Ly.          - Em mới đi chợ lần đầu nên sợ lắm.          - Khúa Ly nói dối chị rồi, có lần chị đã gặp Khúa Ly ở chợ đấy.          - Lần ấy em đi theo bố mẹ. Lần này bố mẹ bảo con gái lớn rồi phải đi chợ một mình cho biết mua bán, cho con trai các bản xem mặt. - Khúa Ly bỗng thấy mặt nóng bừng, may mà trời còn tối nên Seo Mỷ không thấy.         Tiếng vó ngựa nện trên đường núi đá giòn tan xen vào trong câu chuyện của hai cô. Họ say sưa ngắm cảnh bình minh đang đến.         Thoạt đầu bầu trời đằng đông chuyển từ màu đen sang màu xanh nhạt. Rồi trên cái nền xanh cẩm thạch ấy lấp lánh những vẩy mây màu sáng bạc. Phút chốc các vẩy mây màu sáng bạc được ánh bình minh dát vàng rực rỡ. Sau cùng là màu hồng phơn phớt rồi đỏ hồng như mặt người say rượu. Gió núi lành lạnh đưa những tảng mây trắng xốp trôi bồng bềnh trên các đỉnh núi nhọn hoắt.         Con đường xuyên qua những đám nương, ruộng bậc thang trồng toàn anh túc. Anh túc đang độ trổ hoa trông như một tấm vải trắng mênh mông trùm khắp các sườn núi. Những bông hoa anh túc ở ven bờ quệt vào cái mã làn đung đưa, nghiêng ngả.         - Năm nay anh túc lại được mùa. Từ nay đến hết tháng không gặp mưa đá thì nhựa anh túc mùa này để đâu cho hết. - Seo Mỷ nói với Khúa Ly.         Khúa Ly bổng buông tiếng thở dài :         - Cứ nghĩ đến nhựa anh túc em lại lo đến héo cả ruột.         - Sao thế ?         - Lý trưởng Giàng Páo bắt bố em năm nay nộp hai mươi nén nhựa anh túc đủ mười tuổi[2].         - Sao nhiều thế ?         - Nó bảo “Phăng Ky” năm nay lấy nhiều để đưa sang Tầu. Chẳng biết ông trời có cho thu không ?         - Ông trời có cho thu thì đám ruộng ấy cũng không đủ hai mươi nén nhựa kể cả tốt lẫn xấu, chứ đừng nói đến hai mươi nén nhựa toàn loại mười tuổi. Nó cũng là người Mông sao nó không thương người Mông ta nhỉ ?         - Bố em nói, con hổ ở đâu cũng muốn ăn thịt lợn, quan ở đâu cũng muốn ăn của dân. Nó còn muốn cướp cả ruộng trồng anh túc của nhà em đấy.         - Ruộng nương nhà Giàng Páo thiếu gì. Năm nào cũng bắt dân đi làm ruộng nương không công cho nhà nó còn chưa đủ hay sao ?         - Nó bảo ruộng nhà em ở giữa ruộng nhà nó. Bao nhiêu phân bón của nó trôi cả vào ruộng nhà em. Vì thế nó đang bắt bố em đổi đám ruộng ấy lấy đám ruộng ven rừng đá của nó.         - Bố Khúa Ly trả lời ra sao ?         - Bố em không chịu. Giàng Páo cho Giàng Seo Tính đến nói xa nói gần rằng : Là tôi muốn lợi cho ông nên nói mãi quan mới bằng lòng. Ông còn tiếc gì cái cảnh “chung ngựa với nhà quan”, phần thiệt bao giờ chẳng đến mình.            - Giàng Seo Tính là người “nhà trong” của Giàng Páo, nó là em họ của Giàng Páo. Nó vừa là con chó săn vừa là cái đầu của Giàng Páo đấy !            - Bố em cũng biết vậy, nhưng đổi lấy đám ruộng ven rừng đá thì sống làm sao được. Ruộng ấy không trồng được anh túc.            - Cả hai con đường đều cụt cả - Seo Mỷ cất tiếng thở dài thông cảm với Khúa Ly.            Hai người đã đến khu rừng già. Những thân cây cao lớn vươn những cành sần sùi đủ các loài tầm gửi và phong lan buông rủ. Hương phong lan phảng phất ngầy ngậy. Các loài chim rừng ríu rít chào ánh sáng ban mai. Píu ! Píu ! Píu !... tiếng hót của bày họa mi bỗng vút lên lảnh lót, vượt lên hàng trăm thứ âm thanh của thế giới động vật có cánh. Một bầy chim “hoàng tử” dáng thanh mảnh, mang bộ lông đủ năm màu lướt nhẹ nhàng như những con thoi chuyền từ cây này sang cây khác.            - Khúa Ly xem kìa, các “hoàng tử” cũng bắt đầu đi dự hội rồi đấy. - Seo Mỷ chỉ vào bầy chim “hoàng tử” nói đùa với Khúa Ly - Không biết con chim nào sẽ được chọn là “công chúa” nhỉ ?            - Em chịu.            - Nếu chị là những con chim “hoàng tử” thì chị sẽ chọn Khúa Ly làm chim “công chúa” đấy. - Seo Mỷ nói rồi cất tiếng cười giòn.          - Chị Seo Mỷ lại trêu em rồi ! - Khúa Ly thấy mặt nóng ran.          Vượt qua rừng già họ đi vào khu rùng sa mu xanh thắm. Những cây sa mu già trên trăm tuổi thẳng vút, trầm tĩnh tấu bản nhạc đều đều vô tận. Lẫn trong tiếng vi vút của ngàn sa mu là tiếng khèn của những chàng trai Mông đi chợ.        ... Vườn có hoa, ong mới về đậu,[3]            Vì có em, anh mới đến đây.            Nơi có hoa, ong mới về kêu            Thấy bóng em, anh mới về hát            ……             Núi cao sinh cây gì ?             Núi cao sinh cây sa mu.             Đồi thấp sinh cây trúc             Anh với em như sa mu với trúc             Em đi khởi lòng anh nhớ khôn nguôi...          Tiếng khèn lúc trầm trầm thủ thỉ, lúc vút lên như tiếng họa mi trong rặng sa mu. Tiếng khèn cứ như quấn quít lấy vó ngựa của Khúa Ly và Seo Mỷ :          ... Cô em hỡi,             Hoa gì nở thắm tươi ?             Hoa đào mùa xuân nỏ thắm tươi             Em có lòng yêu anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một buổi.             Hoa gì nở chi chít ?             Hoa đào mùa xuân nở chi chít             Em có lòng mến anh,             Xin hẹn chợ này ta gặp nhau một ngày...         Không bảo nhau nhưng cả Khúa Ly và Seo Mỷ cùng sửa lại hai vạt áo xáo-khoả che kín bộ ngực. Khúa Ly cất tiếng hỏi Seo Mỷ :         - Anh Sùng Sử có đi chợ không ?         - Có, nhưng đi sau. Còn bắt con lợn mang đi chợ.         - Tưởng mùa này anh chị cưới nhau.         Seo Mỷ buông tiếng thở dài :         - Ông chú không chịu.         - Ông Hảng A Dềnh ấy à ? Sao ông ấy lại không chịu ?         - Ông ấy bảo con ngựa đắt tiền mới là con ngựa quý. Vì thế ông khăng khăng đòi lấy đủ một trăm đồng bạc trắng. Lợn, rượu thì Sùng Sử còn lo được, chứ bạc trắng thì lấy đâu ra. Mấy lần chị nói xin giảm cho Sùng Sử đều bị ông mắng lấn đi : “Mày đừng như con ngựa động đực, vừa thấy hơi ngựa đực đã cong đuôi chạy theo. Thằng Sùng Sử không đủ bạc trắng thì khối đứa có đủ. Chừng nào tao còn sống thì tao còn làm đúng lời bố mày dặn trước khi nhắm mắt”. Có lúc thương Sùng Sử quá chị đã bảo Sùng Sử rủ bạn “cướp”[4] chị chạy đi thật xa, nhưng Sùng Sử không chịu : “Làm thế còn mặt mũi nào nhìn dân bản, thà chịu phận nghèo, cô đơn còn hơn là mang tiếng xấu”.           - Ôi, cuộc đời sao lắm nỗi éo le ? - Khúa Ly chép miệng thở dài.           Câu chuyện của họ đến đây ngắt quãng. Trước mắt hai cô cái đồn “Phăng Ky” đã hiện ra rõ mồn một với những bức tường đá xám xịt bao quanh. Ngay dưới chân đồn, trên con đường dẫn vào chợ một đám vợ lính đứng đón đường mua hàng của những người đi chợ.           - Tả cố mải lá dảng ?[5]           - Mày bán cho tao đi.           - Kỷ tố sền ?[6]           - Tao có tiền trắng, mày bán đi, hay muốn đổi muối, diêm, thuốc lào ? Thứ nào tao cũng có tất, cứ mang vào đây. Mời các bạn đón đọc Cơn Lốc Núi của tác giả Xuân Nguyên.