Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Gái Người Kỹ Nữ

Kamada là con gái của một kỹ nữ chuyên phục vụ cho các quý ông giàu có ở thành phố Mumbai, Ấn Độ. Kamada thích sống trong thế giới kì diệu của riêng mình, nơi mà trí tưởng tượng đã che chở cho cô khỏi thực tế cuộc sống khắc nghiệt. Cô bé đang thực hiện sứ mệnh thoát khỏi ngôi nhà của mẹ, thoát khỏi những cung đường của thành phố, nơi cô cảm thấy như tù ngục. Chỉ có những người bạn kì diệu của cô, một con vẹt tiên tri, chú vẹt đã nói cho cô biết về tương lai và gia đình của một người bạn hàng xóm, biết được về giấc mơ trốn thoát khỏi nhà và được tiếp tục học tập tại Mĩ. Vì lí do này, cô bé đã chuẩn bị một cách chu toàn cho kế hoạch của mình - học tập miệt mài cho chứng chỉ GRE, thu thập tất cả các giấy tờ cần thiết, và bắt đầu quan tâm tới vấn đề tài chính.Trong khi cô bé đang lên kế hoạch cho cuộc tẩu thoát của mình, thì thế giới của cô bị đảo lộn bởi một bí mật mà mẹ cô đã lột trần, bí mật ấy đã gây chấn động tâm lý cho cô bé tuổi mới lớn. Liệu rằng giấc mơ về tương lai đến với một vùng đất xa xôi mà cô bé đang phải đương đầu với bao gian nan để thực hiện có thể trở thành hiện thực hay không? *** 'Con gái người kỹ nữ' - ước vọng thoát khỏi xã hội đen tối: Tác phẩm văn học của Juliet Philip kể về cô bé Kamada sống trong hoàn cảnh tăm tối nhưng luôn tìm mọi cách để hướng tới tri thức, hạnh phúc và tương lai. Kamada là con của một người làm gái gọi cao cấp, chuyên phục vụ các quý ông giàu có ở Mumbai, Ấn Độ. Cô không biết cha mình là ai. Kamada cảm thấy thế giới mà mẹ cô thuộc về đầy tệ nạn, dơ bẩn và luôn muốn thoát khỏi ngôi nhà của mình. Kamada chuẩn bị kế hoạch chu đáo để rời khỏi chốn mà cô cho là tù ngục. Cô chăm chỉ học tập, thu nhận kiến thức, đạt các chứng chỉ và mong có thể đến Mỹ. Mọi việc tưởng chừng êm xuôi thì Kamada bị chấn động tâm lý bởi một bí mật mà mẹ cô đưa ra.  Vốn là cô bé lạc quan, Kamada không chìm trong tuyệt vọng. Cô bé "trốn" khỏi thực tại tàn khốc bằng trí tưởng tượng. Cô nhìn xung quanh bằng con mắt tươi sáng, thổi hồn cho những loài hoa trái trong cửa hàng ven đường, tạo âm thanh cho những ổ gà trên phố... Thế giới khắc nghiệt được cô bao phủ bởi những điều kỳ diệu. Ứng xử của Kamada thể hiện một khát vọng về cuộc sống mới, tốt đẹp.  Con gái người kỹ nữ được kể bằng lời của nhân vật xưng "tôi". Xen vào những tình tiết kể về cuộc đời là những đoạn độc thoại nội tâm, khiến tác phẩm mang chiều sâu tâm lý. Qua câu chuyện về Kamada, tác giả Juliet Philip phác họa một góc đời sống đương đại. Nơi thị thành Mumbai ấy không chỉ có nét văn hóa truyền thống độc đáo mà luôn ẩn chứa một thế giới với những mặt đen tối. Trong thế giới ấy, những người có cốt cách như Kamada phải đối diện với sự thật đầy bi kịch để rồi tìm mọi cách vượt thoát khỏi nơi mình đang thuộc về.  *** Tôi là Kamada, con gái người kỹ nữ Taras, tôi sẽ là người hùng trong chính câu chuyện kể về cuộc đời mình. Tôi sẽ có những sự lựa chọn thận trọng để viết nên số phận cho riêng mình và thoát khỏi thế giới dơ bẩn mà mẹ tôi đã sống. Hôm nay, tôi sải bước trên con đường đông đúc, ôm khư khư trên tay một đống tài liệu quý giá, người bạn đồng hành của tôi trong suốt buổi tối, tập tài liệu này là một mớ hỗn độn về cuộc sống và cũng là những kế hoạch chạy trốn của tôi. Đống tài liệu màu xanh này còn đóng một vai trò quan trọng nữa: nó là “chiếc khiên” che ngực cho tôi. Nếu tôi không đủ khôn ngoan để bảo vệ mình trong khi sải bước trên những đường phố đông đúc của thành phố Bombay, tôi không thể tiếp tục mơ mộng được nữa. Những sự mơ mộng cho phép tôi thoát khỏi nơi bẩn thỉu này và trôi dạt vào một thế giới khác của sự tưởng tượng và tràn đầy những niềm hi vọng. Tâm trí tôi thường hay lơ đễnh, vì vậy tôi phải luôn nhớ mang theo tập tài liệu của mình đến bất cứ đâu. Tôi đã trải qua những năm đầu của thời niên thiếu để cố luyện cái được gọi là “nghệ thuật tự bảo vệ bản thân”, và mặc dù khả năng này của tôi đã quá đỗi “điêu luyện”, tôi vẫn miệt mài trau dồi thêm. Đôi khi, một gã đàn ông vô tình đâm sầm vào tôi với một sự ngạc nhiên vờ vịt và một câu xin lỗi “Ồ tôi xin lỗi, thưa cô”. Động cơ của lời xin lỗi ấy được thốt lên khi tôi ném vào hắn một ánh nhìn sắc lẹm để xác định xem nó chỉ là một tai nạn hay chủ ý. Chủ yếu, tôi dựa vào trực giác và kinh nghiệm trước đây để đánh giá sự khác biệt này. Những gã đàn ông như vậy gợi cho tôi nhớ về những người đàn ông mà tôi đặt cho họ một cái tên là “Brazilian wandering spiderat”, một loại đàn ông có đặc tính giống như những con nhện Brazil và những con chuột. Họ lẩn trốn trong những khu vực đông đúc và có đôi chút hiểu biết xã hội. Tôi phải cảnh giác vì sự tấn công của họ rất mạnh mẽ và có thể gây ra cho tôi những nỗi đau về thể xác. Một gã thuộc vào một nhóm đàn ông khác, thể hiện ý đồ xấu xa của mình mà không màng tới những hậu quả mà họ mang lại. Khi tim tôi đang đập loạn xạ, tôi tát hắn một cái và dĩ nhiên tôi có nguy cơ bị làm nhục một lần nữa. Một vài trong số những gã đàn ông này cảm thấy phấn khích với cái tát. Một vài gã khác thì nổi điên. Tôi đặt tên cho những gã này là “Chimpigog” - thứ đàn ông có đặc tính của loài tinh tinh kết hợp với lợn và chó - nhóm đàn ông này không có khả năng kiểm soát ham muốn tình dục của mình. Họ có dáng đi khệnh khạng giống như tổ tiên tinh tinh và cũng giậm trống ngực thình thịch để “thu hút bạn tình”. Với những gã này, tất cả chỉ là sự thỏa mãn tình dục. Một nhiễm sắc thể Y khác nữa nằm giữa hai thái cực này. Loại đàn ông này là những kẻ chuyên rình rập hay còn được gọi là “Snakepig”, một sự lai tạo đặc tính giữa những con rắn ghê tởm và những con lợn rừng bẩn thỉu. Họ lởn vởn một cách kín đáo và chờ đợi thời cơ để tấn công. Họ là một trong những loại đàn ông khiến tôi cảm thấy ghê sợ nhất. Tập tài liệu này có nhiệm vụ trông chừng tất cả các “loại” đàn ông này. Và đây quả là một nhiệm vụ khó khăn. Trong khi một người bình thường dành ra khoảng 47% quỹ thời gian trong ngày để mơ mộng, thì với tôi, con số này là 80%. Kinh nghiệm đã dạy tôi cách mơ mộng trong khi vẫn phải cẩn trọng với những gã đàn ông lảng vảng quanh mình, kinh nghiệm còn chỉ cho tôi cách tự bảo vệ bộ ngực chỉ khiêm tốn như hai nốt muỗi đốt trên cơ thể mình bằng tập tài liệu “quyền lực” trên tay mỗi lần tôi mơ màng trên phố đông. Tuy nhiên có vẻ hầu hết đàn ông ở đây đều coi tôi như một con mồi. Tôi tin vào điều này bởi vì thành phố Bombay chỉ có 750 nữ giới / 1000 nam giới. Tôi không biết ai hay cơ quan nào phải chịu trách nhiệm cho việc này, nhưng tôi không thể không đổ lỗi, vì vậy tôi quy trách nhiệm cho chính phủ, cho chế độ phụ hệ, cho những gã đàn ông không sử dụng bao cao su, cho những người phụ nữ mang thai mà không màng tới trách nhiệm của tình mẫu tử. Tôi luôn luôn đổ lỗi cho mẹ tôi, người lựa chọn cách sống của một người kỹ nữ thượng lưu ở cái thành phố nhơ nhuốc này. Mời các bạn đón đọc Con Gái Người Kỹ Nữ của tác giả Juliet Philip & Trịnh Thúy Ngàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Biên Thành - Thẩm Tùng Văn
Truyện vừa - hay cũng có thể được coi là một đoản thiên tiểu thuyết xót xa buồn về cảnh vật và những con người Trung Hoa xưa cũ của nhà văn nổi tiếng Thẩm Tùng Văn. Câu chuyện diễn ra tại một bến đò lặng lẽ vùng biên thành miền Tây Hồ Nam - nơi cô bé Thúy Thúy sống với người ông quản đò sau cái chết của mẹ. Mặc dù chỉ mới 14 tuổi nhưng Thúy Thúy đã trở thành một thiếu nữ phổng phao, xinh đẹp, được nhiều chàng trai để ý, trong đó có hai anh em nhà ông chủ bến: cậu cả Thiên Bảo và cậu hai Na Tống. Trước tấm chân tình của hai anh em đối với cô cháu gái, ông ngoại cô bé cảm thấy vô cùng sung sướng nhưng cũng không giấu nổi những lo lắng cho tương lai. Đặc biệt là khi cô bé vẫn thờ ơ với chuyện cưới xin. Sự thực thì trái tim cô bé đã rung động trước tấm lòng và tiếng hát của cậu hai Na Tống nhưng Na Tống đang bị gia đình ép lấy một cô gái con nhà gia thế… Thẩm Tùng Văn được coi là “tiểu thuyết gia trữ tình lớn nhất của Trung Quốc hiện đại”. Biên thành như là một bài thơ mang giọng điệu hoài cổ với âm hưởng buồn man mác. Những cảnh vật đồng nội, những con người nhỏ bé trong tác phẩm của ông như những hình ảnh nhạt nhòa trôi dần đi và cuối cùng mất hút trong dòng chảy thời gian và nhịp điệu gấp gáp của cuộc sống hiện đại. Biên thành khiến người đọc ngậm ngùi bởi tác phẩm “tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch” (Thẩm Tùng Văn). Dưới văn phong của ông, ngôn ngữ Trung Hoa đã tìm được vẻ đẹp của mình và vẻ đẹp ấy cũng đã được chuyển ngữ thành công bằng thứ tiếng Việt giản dị, trong sáng và khúc chiết của dịch giả Phạm Tú Châu. *** Nhận định “Vẻ đẹp tạo hình của Biên thành – thiên tiểu thuyết có nhân vật chính là một ông lão và cô cháu gái này luôn được giới phê bình nhấn mạnh; nó làm ta nghĩ tới một bức tranh Trung Hoa cổ điển, và mời gọi ta trở lại kiếm tìm một thế giới trữ tình đã mất của những ai chài, của đồng nội… Một kiệt tác của một tác giả quan trọng.”  - SDM - “Bị khuất đi nhiều bởi những đồng nghiệp nổi tiếng có lối viết thiên về chính trị như Lỗ Tấn hay Lão Xá… Tác phẩm của Thẩm Tùng Văn đan dệt phức tạp, giàu có tầng lớp và trữ tình. Trung Hoa của quá khứ và hiện tại sống động trong văn ông một cách tự nhiên như vốn thế. Nỗi buồn thấm qua nhưng cảnh đồng quê… có gì đó không chắc chắn và cũng nhiều hy vọng... Trong khi Lỗ Tấn là nhà ký sự của siêu ý thức xã hội thì Thẩm giống như một nhà nhân loại học, và trong ý nghĩa này, dương như ông gần với độc giả hiện đại hơn. Trong khi những người khác hướng đến một xã hội Trung Hoa của tự phê bình, của các thay đổi, thì Thẩm, một cách đẹp đẽ và giản dị, chỉ cho ta cuộc sống vốn dĩ vẫn hiện hữu như thế đó. Tác phẩm của ông là sự hoà quyện giữa nỗi buồn sâu xa cho quá khứ, hy vọng cho tương lai, và hơn tất cả, là vẻ đẹp và sự trong sáng của cõi sống hiện tại”.  - Matthew W.Baker - *** Thẩm Tùng Văn (1902 - 1988) là nhà văn hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan võ đời Thanh; quê huyện Phượng Hoàng tỉnh Hồ Nam, bà nội là người dân tộc Miêu. Bắt đầu sáng tác từ năm 1924, kể từ đó cho tới những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã viết một số lượng lớn đáng kinh ngạc về đủ các thể tài, từ tản văn, thơ, kịch, tùy bút, chính luận, truyện ký, truyện dài, song chủ yếu là truyện vừa và ngắn. Đề tài trong truyện của ông có diện rất rộng, từ nông thôn xa xôi, hẻo lánh tới đô thị phồn hoa, nội dung tư tưởng cũng cực kỳ phong phú. Trong số đó, những truyện viết về cuộc sống và số phận của dân tộc thiểu số vùng biên khu giữa bốn tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu là giàu đặc sắc nghệ thuật nhất. Tiêu biểu trong số đó là truyện vừa Biên thành. Biên thành (Thành trên núi) làm nổi bật bi kịch của cái thiện. Khác hẳn với mẫu hình bi kịch huỷ diệt của cái vĩ đại và cái cao cả ở Phương Tây, xuất hiện trong truyện đều là những con người bình thường hiền lành, chất phác. Số phận của họ đúng như tác giả nói: “Mọi thứ đều tràn trề cái thiện nhưng đều không gặp may. Vì không gặp may nên cái thiện chất phác ấy cuối cùng khó tránh khỏi bi kịch”. Nhà văn Nhật Bản Takashi Shizuka thì nhận xét: “Xem ra dưới giọng văn hết sức bình tĩnh, e rằng đã ẩn giấu sự phê phán và phản kháng sâu sắc - ít nhất cũng là sự chán ghét nền văn minh hiện đại, đó chính là chủ ý của tác phẩm”. Biên thành, cũng như nhiều tác phẩm khác của Thẩm Tùng Văn, từ lâu đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, do đó được biết rộng rãi trong bạn đọc ngoài Trung Quốc. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên Biên thành được dịch. *** Ngày Tết Đoan ngọ, đàn bà con trẻ nơi đây đều mặc áo mới, trên góc trán dùng rượu ngâm hùng Hoàng[15] viết một chữ Vương. Bất kỳ người nào đến ngày này cũng được ăn cá, ăn thịt. Khoảng mười một giờ sáng, toàn thể dân Trà Đồng đều đã ăn cơm trưa; ăn xong, mọi nhà trong thành đều khoá trái cửa, cả nhà ra khỏi thành tới bờ sông xem chèo thuyền. Ai có người quen ở cửa phố bờ sông, có thể đứng bên cửa gác sàn mà xem, nếu không thì đứng ở cửa Cục thuế quan hoặc ra bến đò mà xem. Thuyền rồng trên sông lấy một chỗ nào đó làm điểm xuất phát, trước Cục thuế quan là đích, bởi vì ngày này các sĩ quan, nhân viên thu thuế và những người có địa vị ở địa phương đều đứng xem ở trước Cục thuế quan. Trước đó mấy ngày, mọi người đã chuẩn bị cho cuộc đua thuyền. Chia tổ, chia bang xong, nhóm nào nhóm nấy tự chọn ra những trai tráng lanh lợi và chắc khoẻ nhất, tập tiến thoái ở chỗ nước sâu. Hình thức của thuyền cũng khác với thuyền gỗ thường ngày, hình thể nhất loạt phải dài và hẹp, hai đầu ngỏng cao, thân thuyền vẽ những đường chỉ dài màu hồng và đỏ thắm. Thường ngày, những thuyền này được gác trong hang khô ráo bên sông, khi dùng đến mới kéo xuống nước. Mỗi thuyền có thể ngồi từ mười hai đến mười tám tay chèo, một người dẫn đầu, một tay trống và một người đánh thanh la. Mỗi người chèo cầm trong tay một mái chèo ngắn, theo nhịp trống nhanh hay chậm mà chèo thuyền về phía trước. Người dẫn đầu ngồi ở mũi thuyền, đầu bịt một vuông khăn đỏ, tay cầm hai ngọn cờ lệnh nhỏ vẫy sang trái hoặc phải, chỉ huy thuyền tiến hoặc lùi. Tay trống và tay thanh la phần nhiều ngồi ở giữa thuyền, thuyền vừa khởi động bèn tùng tùng cheng cheng gõ trống và đánh thanh la theo nhịp đơn thuần để điều tiết nhịp chèo của các tay chèo. Thuyền chèo nhanh hay chậm không thể không dựa vào nhịp trống, cho nên khi hai thuyền đua nhau găng nhất thì trống đánh dồn như tiếng sấm, lại thêm người xem đứng hai bên bờ hò reo trợ oai, khiến ai nấy đều nghĩ tới tiếng trống trong trận thuỷ chiến trên sông Lão Hạc của Lương Hồng Ngọc[16]. Hồi Ngưu Cao[17] bắt sống Dương Ma trên sông cũng trong trận thủy chiến có trống đánh cầm trịch. Thuyền nào về trước một chút đều được lĩnh thưởng ở trước Cục thuế quan; một tấm lụa đỏ, một tấm ngân bài, bất kể treo hoặc chít trên đầu một người nào đó trên thuyền đều nói lên vinh dự nhờ cả thuyền biết hợp tác. Mỗi khi có thuyền về trước đều có một anh lính rách việc nào đó đứng bên bờ nước đốt một tràng pháo Ngũ bách hưởng để mừng thắng lợi. Đua thuyền xong, ngài Trưởng doanh lính thú trong thành muốn vui cùng dân chúng, tăng thêm niềm phấn khởi trong ngày Tết bèn cho thả xuống sông loài vịt đực lớn con, cổ dài, lông đầu xanh mướt, cổ buộc dải lụa đỏ, quân dân người nào bơi giỏi thì xuống sông đuổi vịt. Bất kể ai bắt được vịt thì vịt là của người ấy. Thế là một trò vui mới được thay đổi trên sông, trên mặt sông đâu đâu cũng là vịt, đâu đâu cũng có người bơi đuổi theo vịt. Cuộc đua tranh giữa thuyền và thuyền, giữa người và vịt kéo dài đến tối mới kết thúc. Ông quản bến - Long đầu đại ca Thuận Thuận, hồi trẻ là tay bơi lội cực giỏi, đã xuống sông đuổi vịt thì dù có thế nào cũng không chịu trở về tay không. Nhưng khi con trai thứ của ông là Na Tống ngoài mười hai tuổi đã biết xuống sông, lặn một hơi đến bên con vịt rồi bỗng chồm người từ dưới nước nhô lên tóm ngay lấy vịt thì người làm cha bèn nói như chữa thẹn. - Hay lắm, việc này đã có các con làm, cha bất tất phải xuống sông nữa! ... Mời các bạn đón đọc Biên Thành của tác giả Thẩm Tùng Văn.
Bản Đàn Thôn Dã - André Gide
La Symphonie Pastorale của tác giả André Gide có nhiều bản dịch tiếng Việt, trong đó bản dịch của Mai Kim Ngọc lấy tên Bản Đàn Thôn Dã, bản dịch của Ðoàn Văn Khanh lấy tên Khúc Nhạc Đồng Quê, còn một bản dịch nữa của Bùi Giáng thì có tên là Hòa Âm Điền Dã. Cuốn sách nào của Gide cũng mang chất hàm hỗn dị thường, là khởi từ duyên cớ đó. Dịch Gide thật là một điều đáng ngại. Ông trích dẫn lơ thơ một câu trong Kinh Thánh, một câu của Saint Paul - nhưng ông "rút một dây" mà chấn động cả một rừng... *** Đã ba hôm nay tuyết rơi không ngớt cơn, đường sá hoàn toàn bế tắc. Tôi không đi tỉnh R. làm lễ như thông lệ một tháng hai lần đã mười lăm năm qua. Sáng nay tại nhà thờ Breville chỉ có ba chục tín đồ tới. Nhân dịp rảnh rỗi bất đắc dĩ vì không ra được khỏi nhà, tôi ngồi ôn lại từ đầu sự việc đã xui khiến tôi đón Gertrude về nuôi. Tôi đã dự định viết ra đây từng bước nhỏ sự phát triển của tâm hồn ngoan đạo này mà tôi đã mang từ bóng đêm u tối ra như với mục đích duy nhất để tôn quý và yêu thương. Cám ơn Thượng Đế đã giao phó cho tôi nhiệm vụ. Câu chuyện khởi đầu đã đúng hai năm sáu tháng. Hôm đó tôi đi Chaux-de-Fonds về, có con bé lạ mặt vội vã tới tìm tôi để dẫn đi thăm một bà cụ sắp chết cách đấy bẩy cây số. Xe còn thắng ngựa, tôi bảo con bé lên ngồi sau khi với cây đèn bão mang theo, e rằng chắc phải đến đêm mới xong việc. Tôi vẫn tự cho là mình thông thạo vùng này, vậy mà vừa quá khúc rẽ sau sơn trại Saudraie, con bé chỉ cho tôi một con đường ngang tôi chưa từng phiêu lưu rẽ vào. Tuy nhiên quá đó hai cây số, phía tay trái, tôi nhận ra một cái hồ có phong cảnh huyền bí mà hồi nhỏ tôi đã đôi lần tới trượt băng. Khoảng mười lăm năm nay đã không trở lại vì không có mục vụ nào ở đây. Có ai hỏi có lẽ tôi cũng không còn biết hồ ở đâu, lại cũng không nghĩ đến nữa nên chi khi bất thần thấy hồ sáng chói trong ráng chiều huy hoàng tôi tưởng như thấy lại cảnh cũ từ một giấc mơ. Con đường chạy dọc theo con sông nhỏ một quãng, để cắt ngang cuối rừng và men theo một bãi đầm lầy. Chỗ này thì chắc chắn là tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Mặt trời từ từ lặn và tôi chạy xe trong bóng hoàng hôn đã một lúc khá lâu, sau cùng con bé chỉ cho tôi bên đồi một căn nhà tranh tưởng như bỏ hoang nếu không có làn khói mảnh bốc lên, màu xanh trong bóng râm chuyển thành màu vàng óng của nắng chiều. Tôi buộc ngựa vào cây táo gần nhà rồi theo chân con bé bước vào một căn phòng tối, nơi bà cụ vừa mãn phần. Tôi sững người vì quang cảnh trang trọng, cũng như sự tĩnh lặng, và vẻ trang nghiêm của giây phút. Có người đàn bà dáng còn trẻ đang quỳ bên giường. Con bé người làm mà tôi đã tưởng là cháu bà cụ bước tới cuối phòng châm ngọn đèn khói um, rồi lặng lẽ tới đứng bên giường. Trên đường tới đây, tôi đã gợi con bé mà chỉ được trả lời vài câu vắn tắt. Người đàn bà quỳ bây giờ đứng dậy. Bà không phải người nhà như tôi đoán, mà chỉ là chỗ hàng xóm tốt bụng, bạn vớì bà cụ, khi được báo tin là bà cụ sắp đi đã sốt sắng sang giúp đỡ và tình nguyện ở lại canh thi hài. Bà bảo bà cụ đi nhẹ nhàng không đau đớn gì. Chúng tôi bàn tính về tang lễ cho người mãn phần. Trong miền đất hẻo lánh này, nhiều lần tôi đã phải tự tay cắt đặt mọi chuyện cho tang gia. Tôi thoáng thấy không yên tâm vì phải giao phó căn nhà dù nghèo hèn này cho người hàng xóm và con bé người làm. Đây chỉ là mái tranh xơ xác, nhưng biết đâu lại chẳng có bảo vật cất giấu trong xó xỉnh nào. Lo vậy, nhưng thật ra tôi cũng không làm gì hơn được. Tôi hỏi xem ai là người thừa kế. Bà hàng xóm bấy giờ cầm cây nến bước tới góc nhà, và tôi nhận ra lờ mờ có người ngồi xổm bên bếp lửa, mớ tóc dày che hết khuôn mặt. Bà giải thích: “Tôi nghe đứa ở kể thì con bé mù này là cháu bà cụ; hình như gia đình chỉ có vậy, vỏn vẹn hai bà cháu. Chắc rồi phải đưa nó đi cô nhi viện thôi. Nếu không, biết ai trông nó bây giờ.” Tôi lúng túng thấy bà lớn tiếng bàn bạc về số phận con bé ngay trước mặt nó, sợ những lời sống sượng làm nó buồn lòng. Tôi nhỏ nhẹ nhắc khéo bà nên có chút tế nhị: ... Mời các bạn đón đọc Bản Đàn Thôn Dã của tác giả André Gide.
Bác Sĩ Zhivago
Văn học Nga thế kỷ 20 luôn cuốn hút người đọc bởi những câu chuyện giàu ý nghĩa nhân văn và “Bác sĩ Zhivago” của Boris Pasternak là một tác phẩm như thế. Cuốn sách tái hiện lại lịch sử nước Nga những năm đầu thế kỷ 20 cho đến sau đại chiến thứ hai. Thông qua hình ảnh nhân vật Yury Zhivago cùng Lara Guishar, tác phẩm đã khắc họa số phận bi thảm của những con người trong giai đoạn lịch sử đau thương này. Họ là nạn nhân của chiến tranh nhưng vượt lên trên tất cả khắc nghiệt của cuộc sống, là câu chuyện tình yêu của họ - một mối tình lãng mạn, đẹp đẽ nhưng đầy nước mắt và khổ đau. Bác sĩ Zhivago được Pasternak viết xong vào năm 1956, nhưng do nội dung không thích hợp với đời sống văn học, chính trị Liên Xô lúc bấy giờ, nên cuốn sách đã bị Viện Văn học Moskva và Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt phản đối, các nhà xuất bản ở Liên Xô từ chối xuất bản, còn bản thân Pasternak bị Hội Nhà văn Liên Xô lên án, đả kích. *** Boris Pasternak sinh ngày 10 tháng 2 năm 1890 ở Moskva, cha ông là hoạ sĩ và viện sĩ Leonid Pasternak. Mẹ ông là một nghệ sĩ dương cầm. Năm 1913, ông tốt nghiệp khoa lịch sử và ngôn ngữ trường Đại học Tổng hợp Matcơva, Trước đó, năm 1912, ông nghiên cứu triết học tại Đại học Marburg (Đức). Có một thời gian khoảng 6 năm, ông chú tâm nghiên cứu và sáng tác âm nhạc. Nhưng cuối cùng ông đã đi vào sự nghiệp thơ văn. Nhưng bài thơ đầu tiên của Boris Pasternak xuất bản vào năm 1913. Năm 1917, ông viết một loạt những bài thơ tuyệt diệu được in trong tập "Chị tôi - Cuộc sống", chúng đưa ông lên hàng những nhà thơ lớn nhất nước Nga thời ấy, sau cách mạng tháng Mười, nhà thơ làm việc tại Thư viện Dân uỷ Giáo dục. Trong những năm hai mươi, Pasemak gia nhập nhóm văn học LEP do nhà thơ lớn Maiakovski sáng lập. Đó là thời gian ông viết trường ca "Năm 1905" và "Trung uý Smith" về cuộc cách mạng năm 1905. Năm 1932, Pasternak in tập "Sinh lại" lần thứ hai phản ánh sự biến đổi diễn ra trên nước Nga xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại 1941- 1945, ông làm thông tin viên mặt trận. Ngoài ra, ông còn là một dịch giả lỗi lạc. Ông đã dịch sang tiếng Nga những vở kịch tiêu biểu nhất của Shakespeare; Goethe và thơ của các nhà thơ Gruzia. Tuy nhiên, Boris Pasternak không chỉ là một nhà thơ lớn, trong lĩnh vực văn xuôi, ông cũng có những truyện ngắn được xếp vào loại hay nhất thế giới. Đặc biệt, sau ngày chiến thắng phát xít Đức, ông đã bắt tay viết tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago và hoàn thành vào năm 1955. Năm 1956, Nhà xuất bản Văn học quốc gia Liên Xô ký hợp đồng in tác phẩm này, nhưng việc thực hiện hợp đồng ấy bị nhiều người có thế lực trong giới văn học lúc bấy giờ phản đối. Giữa lúc đó, cuốn tiểu thuyết bỗng được xuất bản tại Ý. Sau đó, ngày 28- 10- 1958, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển tuyên bố tặng giải thưởng Nobel về văn chương cho Boris Pasternak. Nội dung giải thưởng có ghi: "Vì sự đóng góp lớn lao vào nền thi ca trữ tình hiện đại của thế giới cũng như vào lĩnh vực các truyền thống vĩ đại của của các nhà văn xuôi Nga". Nhân việc này bọn phản động đã lợi dụng tên tưổi và tiểu thuyết "Bác sĩ Zhivago" của ông để chống Liên Xô khiến ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn Liên Xô, mặc dù lúc đó có những người chân chính không tán thành quyết định sai trái này của Hội. *** Người ta vẫn bước đi, vừa đi vừa hát bài "Cầu hồn", và mỗi khi dừng lại, tựa hồ tiếng bước chân, tiếng vó ngựa, tiếng gió thổi nghe như còn vang vọng nhịp điệu của bài ca. Khách qua đường nhường lối cho đám tang đi qua, họ đếm số vòng hoa, làm dấu thánh. Những kẻ tò mò nhập vào đám tang, họ hỏi: "Đưa ma ai thế?". Họ được nghe trả lời: "Zhivago". "À ra thế. Thảo nào". "Không phải ông ta. Mà là bà vợ". "Cũng vậy cả thôi. Cầu Chúa nhận lấy linh hồn bà ta. Đám ma nhà giàu có khác". Những giây phút cuối cùng, ngắn ngủi, một đi không trở lại đã thoắt qua. "Đất của Chúa, đất thừa hành mọi sự, cả vũ trụ và hết thảy sinh vật sống trên đất". Vị linh mục rắc một nắm đất hình thánh giá trên xác bà Maria Nicôlaepna. Người ta xướng kinh "Cùng với những linh hồn công chính". Bắt đầu cái cảnh vội vã đáng sợ. Người ta đậy nắp quan tài, đóng đinh, hạ huyệt. Rồi từ bốn phía, đất được ném xuống như mưa, rơi lịch bịch, những cái xẻng lấp mộ vội vàng. Nấm mộ đã thành hình. Một cậu bé mưởi tuổi bước lên mộ. Người ta có cảm tưởng cậu bé muốn nói mấy lời trên nấm mộ bà mẹ. Cảm tưởng ấy chỉ có trong trạng thái đờ đẫn ngây dại thường nảy sinh vào giây phút cuối của một đám tang lớn. Đứng trên nấm mộ, cậu bé ngẩng đầu, thờ thẫn nhìn cảnh thu hoang vắng và các vòm mái tròn của tư viện. Khuôn mặt với cái mũi hếch của cậu bé nhăn lại, cổ nghển lên. Ví thử một chú sói con có cử chỉ ngẩng đầu như vậy, hẳn là nó sắp bú. Cậu bé đưa hai tay ôm mặt, khóc nức nở. Một đám mây bay tới mưa nặng hạt quất vào mặt và tay cậu bé như những cây rót ướt lạnh. Một người bận đồ đen, cánh tay áo bó chật và có nhiều nếp, tiến đến bên cậu bé. Đó là Nicolai Vêđeniapin, một linh mục đã tự xin hoàn tục, em của người quá cố và cậu của cậu bé đang khóc. Ông bước tới, dẫn cậu bé ra khỏi nghĩa địa. Đêm ấy hai cậu cháu ngủ trong một tĩnh phòng của tu viện, nơi Nicolai quen biết từ lâu. Mai là ngày vọng lễ Đức Mẹ 1. Hôm sau, hai cậu cháu sẽ phải đi xa xuống phía Nam, đến một tỉnh lỵ ven sông Vônga nơi cha Nicolai làm việc cho một nhà xuất bản ấn hành một tờ báo cấp tiến trong vùng. Vé xe lửa đã mua, đồ đạc đã được chuẩn bị xong xuôi và để sẵn trong phòng. Nhà ga cách tư viện không xa và chốc chốc gió lại mang đến những hồi còi rền rĩ của các đầu máy đang dồn toa ở phía đó. Càng về tối, trời càng rét dữ. Hai cửa sổ thấp sát mặt đất trông ra một góc vườn xấu xí được rào bằng các bụi cây keo vàng, trông ra con đường cái với những vũng nước đọng giá lạnh và cuối cùng là cái góc nghĩa địa, nơi hôm đó người ta vừa mai táng bà Maria Nicôlaepna. Mảnh vườn trơ trụi, ngoài mấy luống bắp cải tím bầm vì lạnh. Mỗi lần gió tạt qua, các bụi keo vàng trụi lá lại chao đảo như điên và nằm rạp xuống mặt đường. Đang đêm cậu bé Yuri thức giấc bởi có tiếng gõ mạnh vào cửa sổ. Một thứ ánh sáng trắng huyền ảo chập chờn rọi vào gian phòng tối, Yuri chỉ mặc áo ngủ, chạy ra cửa sổ, áp mặt vào cửa kính lạnh toát. Bên ngoài không còn thấy cả đường cái, khu nghĩa địa lẫn mảnh vườn nhỏ đâu nữa. Bão tuyết đang hoành hành. Tưởng chừng bão tuyết đã để ý đến Yuri và thấy cậu sợ nó, bão lại càng thích thú về cái ấn tượng nó gây ra nơi cậu. Nó cứ rú rít liên hồi và tìm mọi cách buộc Yuri phải chú tâm đến nó. Từ trên trời tuyết cứ rơi không ngừng hết bông này tiếp bông kia, phủ trắng cả mặt đất như một tấm khăn liệm. Thế gian chỉ có một ưùnh bão tuyết, chẳng có đối thủ nào ganh đua với nó. ... Mời các bạn đón đọc Bác Sĩ Zhivago của tác giả Boris Pasternak.
5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình - Gary Chapman
Hơn 15 năm trước, tôi đã viết quyển sách Năm ngôn ngữ tình yêu: cách thể hiện lời cam kết chân thành của bạn với người bạn đời. Sự đón nhận của độc giả đã vượt quá mong đợi của tôi: Tổng cộng 5 triệu bản đã được bán sạch. Mỗi năm, cuốn sách này lại bán được nhiều bản hơn năm trước đó. Đến nay, Năm ngôn ngữ tình yêu đã được dịch sang 42 thứ tiếng khác nhau. Nhiều người đã hỏi tôi về lý do thành công của cuốn sách đó. Câu trả lời duy nhất của tôi là: Nội dung của nó tập trung vào nhu cầu tình cảm sâu sắc nhất của con người - nhu cầu được yêu thương. Đối với những người đã kết hôn, nó mang lại cảm giác thấu hiểu và những công cụ thực tiễn để nuôi sống tình yêu trong gia đình. Hàng ngàn cặp vợ chồng đã nói với tôi rằng ý tưởng của Năm ngôn ngữ tình yêu đã mang lại “một cuộc sống mới” cho hôn nhân của họ. Điều tôi không ngờ đến chính là có rất nhiều người độc thân cũng tìm đọc cuốn sách mà tôi đã viết riêng cho những cặp vợ chồng. Một người đã nói với tôi: “Dù cuốn sách Năm ngôn ngữ tình yêu được viết dành riêng cho các cặp vợ chồng nhưng nó cũng đã giúp tôi rất nhiều trong việc cải thiện những mối quan hệ của mình”. Hay một người độc thân khác đã nói với tôi: “Tôi chưa bao giờ hiểu được người bạn cùng phòng của mình cho đến khi tôi đọc cuốn sách của ông. Ông phải viết một cuốn Năm ngôn ngữ yêu thương dành cho những người độc thân mới được”. Và thế là tôi quyết định hoàn tất cuốn sách này trong sự mong chờ của nhiều người độc thân. Dù đã kết hôn hay còn độc thân, trẻ hay đã già thì tất cả chúng ta đều có nhu cầu quan trọng về tình cảm là được yêu thương. Khi nhu cầu này được đáp ứng, chúng ta sẽ thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp nhất của mình và đạt được nhiều thành quả lớn lao trong cuộc sống. Ngược lại, ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tôi tin tưởng rằng những chân lý trong cuốn sách này sẽ giúp những người độc thân học được các kỹ năng cần thiết trong việc cho và nhận tình yêu. Một điều quan trọng mà bạn cần phải hiểu là cuốn sách bạn đang cầm trên tay không phải là một cuốn Năm ngôn ngữ tình yêu cũ được in lại với bìa mới. Năm ngôn ngữ yêu thương dĩ nhiên là không thay đổi, nhưng trong cuốn sách này chúng ta sẽ tập trung vào đối tượng những người độc thân. Trong hai chương đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về những người độc thân và tại sao yêu thương lại là yếu tố quan trọng nhất trong các mối quan hệ. Từ chương 3 đến chương 7, chúng ta sẽ tìm hiểu về từng ngôn ngữ tình yêu. Trong chương 8, chúng ta sẽ học cách khám phá ra ngôn ngữ tình yêu của bản thân cũng như cách phát hiện ra ngôn ngữ tình yêu của người khác. Những chương còn lại sẽ giúp bạn biết cách yêu thương và được yêu thương bằng cách sử dụng “năm ngôn ngữ tình yêu”. Trong chương 9, bạn sẽ biết cách áp dụng những nguyên tắc của “năm ngôn ngữ tình yêu” để thấu hiểu cha mẹ, anh chị em cũng như các thành viên còn lại trong gia đình. Chương 10 – 11, chúng ta sẽ khám phá các mối quan hệ hẹn hò, nền tảng của hôn nhân cũng như tầm quan trọng của ngôn ngữ tình yêu đối với việc xây dựng một mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp. Chương 12 sẽ tập trung nói về cách thức truyền đạt tình yêu thương đến bạn chung phòng, bạn học, bạn đồng nghiệp. Chương 13 sẽ mang lại những hướng dẫn thiết thực giúp các bậc cha mẹ đơn thân bộc lộ tình yêu thương của mình với con cái. Cuối cùng, trong chương 14, chúng ta sẽ tập trung nói về tình yêu như một chiếc chìa khóa dẫn đến thành công. Hãy cùng tôi thực hiện cuộc hành trình khám phá cuộc sống của người độc thân - những người đã hiểu ra rằng điều tuyệt vời nhất của cuộc sống chính là cho đi và nhận lại tình yêu một cách đúng đắn. -Gary Chapman *** Nếu bạn chọn đọc cuốn sách này, rất có thể bạn vẫn đang độc thân hoặc quen biết với một người độc thân nào đó. Theo thống kê, hơn bốn trong số mười người Mỹ trưởng thành vẫn còn độc thân – tức là có tới 92 triệu người độc thân trên toàn nước Mỹ* Dĩ nhiên, sẽ không chính xác nếu xếp tất cả người độc thân vào một nhóm. Có ít nhất 5 nhóm người độc thân. Phần lớn trong số này là người chưa từng kết hôn (là đối tượng chính mà cuốn sách này hướng tới). Tuy nhiên, 4 nhóm còn lại cũng cần được quan tâm xứng đáng. Sau đây là 5 nhóm người độc thân đó: 1. Chưa từng kết hôn. Tính riêng ở Mỹ, từ 18 tuổi trở lên, nhóm này bao gồm khoảng 49 triệu người. Độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên, 25 tuổi đối với nữ giới và 27 tuổi đối với nam giới. Cứ mỗi 5 người từ 18 đến 24 tuổi thì có 4 người chưa từng kết hôn (78%). 2. Đã ly hôn. Ngày nay, trên thế giới có 10% người trưởng thành đã từng ly hôn* 3. Ly thân nhưng chưa ly hôn. Đây là những người vẫn chưa chính thức ly hôn nhưng không còn sống chung với nhau nữa. Cuộc sống của họ giống một người độc thân hơn là người đang có gia đình. Tuy nhiên tình trạng ly thân này chỉ là tạm thời. Những người này hoặc sẽ hòa giải với vợ/chồng của mình, hoặc sẽ hợp thức hóa sự chia tay này bằng việc chính thức ly hôn 4. Ở góa. Việc ở góa rõ ràng là có sự khác biệt giữa hai giới. Cứ 5 người sống độc thân do bạn đời của mình qua đời thì có đến 4 người là phụ nữ. Gần 1/2 những người phụ nữ từ 65 tuổi trở lên là góa phụ, trong khi ở nam giới, con số này chỉ là 14%. 5. Cha mẹ đơn thân. Một trăm năm trước, chỉ có dưới 1% số người trưởng thành là phụ huynh đơn thân của trẻ vị thành niên. Nhưng ngày nay, có đến hơn 12 triệu phụ huynh đơn thân đang chăm sóc ít nhất một trẻ em dưới 18 tuổi – chiếm gần 1/3 tổng số gia đình. Rõ ràng, số lượng phụ huynh đơn thân đã từng ly hôn là rất lớn. Nhưng bên cạnh đó, số lượng phụ huynh đơn thân chưa từng kết hôn cũng không ngừng gia tăng. Trong số những người mẹ đơn thân thì có đến 40% là chưa từng kết hôn với cha của con mình. Khác biệt nhưng thống nhất Dù thuộc nhiều nhóm khác nhau nhưng giữa những người trưởng thành độc thân vẫn có nhiều điểm tương đồng. Hầu hết họ đều gặp khó khăn trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như đời sống vật chất, đạo đức, các mối quan hệ… Nếu bạn là một người trưởng thành độc thân, tôi nghĩ có thể cũng như nhiều người khác, bạn luôn muốn thấu hiểu bản thân cũng như vị trí của mình trong xã hội. Và nguồn gốc sâu xa của vấn đề này chính là nhu cầu muốn cho đi và nhận lại tình yêu thương. Là một người độc thân, dù thuộc nhóm nào thì bạn cũng muốn được những người quan trọng trong đời mình yêu thương và tin rằng họ cần tình yêu của bạn. Cho đi và nhận lại tình yêu luôn là niềm hạnh phúc của tất cả mọi người, nhất là người trưởng thành độc thân. Một khi cảm nhận được tình yêu thương cũng như vị trí của mình đối với những người xung quanh, bạn sẽ vượt qua được mọi áp lực của cuộc sống. Nhưng nếu thiếu vắng tình yêu, cuộc sống sẽ trở nên thật lạnh lẽo và trống vắng. ... Mời các bạn đón đọc 5 Ngôn Ngữ Tình Yêu: Dành Cho Những Người Chỉ Có Một Mình của tác giả Gary Chapman.