Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Tim Đam Mê

Giàu có, xinh đẹp và đầy khiêu hãnh, Kristen Haardrad luôn luôn là nỗi khao khát của các anh chàng Viking chưa vợ. Nhưng với một trái tim tuổi trẻ đầy khao khát tình yêu như nàng thì cái vịnh Horten thật vô cùng nhỏ bé. Kristen trốn gia đình lên tầu đi tìm tình yêu cho chính mình. Royce, một thủ lĩnh Saxon tài giỏi, đẹp trai, nhưng có một mối căm thù sâu sắc đối với tất cả người Viking. Liệu khi gặp Kristen ngang ngược, thông minh, xinh đẹp chàng có bị cuốn hút và quên đi mối thù kia không? Chàng và nàng có tìm được hạnh phúc thật sự? *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. ***   Dirk Gerhardsen tiếp đất và lượn vòng đến gần bờ sông, nơi có một nàng gái tóc vàng đã dừng lại. Kristen Haardrad nhìn lại phía sau như thể nàng đã thấy hắn, rồi buộc con ngựa lại và đi xuống nước. Phía ngược lại, nước vịnh Horten chảy nhanh theo dòng của nó. Nhưng một vại đá cuội đã phân dòng nó, nước chảy yên ả, phẳng lặng như mặt hồ. Dirk biết rằng nó cũng ấm áp tuyệt vời và quá cám dỗ để lờ đi với một nàng gái. Anh ta biết Kristen đang đến đây khi thấy nàng rời ngôi nhà của chú Hugh và cưỡi ngựa theo lối này. Khi họ còn nhỏ, rất nhỏ, họ đã từng đi bơi chung với nhau, có cả những anh trai và anh em họ của nàng. Kristen có một gia đình lớn, một ông cậu của nàng, Jard, sống bên bờ vịnh này, và hàng tá những anh em nàng cậu xa, tất cả bọn họ tin rằng mặt trăng và mặt trời xoay quanh nàng gái này. Cho đến gần đây, Dirk cũng đã nghĩ vậy. Hắn đã cho nàng trái tim mình và hỏi cưới nàng, như nhiều người khác đã làm trước đây. Nàng đã từ chối – nhẹ nhàng, hắn đã miễn cưỡng đồng ý - nhưng sự thất vọng gần như hủy hoại hắn. Hắn nhìn thấy nàng lớn lên, từ một nàng bé cao, vụng về trở về thành một phụ nữ tuyệt vời. Không có gì hắn muốn nhiều hơn ước muốn Kristen là của riêng mình. Dirk nín thở khi nàng bắt đầu cởi bỏ áo choàng linen. Hắn đã hi vọng nàng sẽ làm vậy. Đó là lý do tại sao hắn đi theo nàng, hy vọng – Odin giúp hắn – nàng làm thật. Cảnh tượng còn hơn hắn có thể chịu được – đôi chân thon dài… những đường cong mềm mại của hông nàng, tấm lưng thẳng, mảnh khảnh chỉ được bao phủ bởi một bím tóc dày, nâu vàng. Chỉ cách đây hai tuần, hắn đã nắm trong tay bím tóc dày đó và kéo hông nàng sát vào hắn trong một nụ hôn, làm hắn gần như điên lên. Nàng đã tát hắn, cái tát làm hắn thật sự lảo đảo. Vì Kristen không phải là nàng gái chân yếu tay mềm; thật ra nàng chỉ thấp hơn hắn có 2 inches và hắn thì cao 6 feet. Điều này chẳng dọa được hắn. Vào lúc đó, đúng thời điểm đó, hắn thật sự nghĩ hắn có thể nổi điên nếu không thể có nàng. Thật may, Selig, người anh kế của nàng đã đến, nhưng không may vì khó mà Dirk gặp nàng lần nữa và kéo nàng xuống đất. Hắn và Selig đều bị thương trong cuộc chạm tráng đó, và Dirk đánh mất người bạn tốt này – không phải bởi vì họ đã đánh nhau, hay vì Norsemen đã sẳn sàng đánh nhau vì bất cứ lý do gì, mà vì những gì hắn đã cố làm với Kristen. Và hắn không thể phủ nhận rằng hắn có lẽ đã chiếm lấy nàng, ngay tại đó, trên sàn chuồng ngựa của cha nàng. Hắn ắt hẳn đã chết rồi nếu hắn thành nàngng. Và người mà hắn phải chiến đấu không phải là anh trai nàng hay những anh em họ khác, mà là cha nàng, Garrick, ông sẽ tay không mà giết Dirk. Kristen bây giờ đang ở trong nước, nhưng việc không còn nhìn thấy toàn bộ cơ thể nàng nữa không làm dịu được ngọn lửa đang xuyên qua các tĩnh mạch hắn. Hắn đã không nghĩ sẽ phải chịu tra tấn thế nào khi ngắm nàng bơi. Hắn chỉ lập luận rằng nàng sẽ một mình, không có gia đình nàng ở đây, và đây có lẽ là lần duy nhất hắn có thể gặp riêng nàng. Đã có tin đồn rằng nàng sẽ sớm kết hôn, với Sheldon, người con cả của Perrin, bạn thân của cha nàng. Dĩ nhiên trước đây cũng có vô số những tin đồn, khi Kristen 19 tuổi, và trong 4 năm gần đây, mỗi một chàng trai khỏe mạnh ở dọc vịnh này đều đã cầu hôn nàng. Nàng đang bơi ngữa trên mặt nước, những ngón chân hiện ra, đỉnh đùi mịn màng của nàng, ngực nàng… Loki dẫn dắt nàng, nàng đang mời gọi sự xâm phạm! Dirk không thể ngăn mình được nữa. Hắn vội vã xé toạc quần áo mình. Kristen đã nghe tiếng nước bắn tung tóe và nhìn theo hướng mà nàng đoán là nơi phát ra tiếng động, nhưng không có gì cả. Nàng nhanh chóng lượn một vòng, hồ nước ấm áp này không có ai khác ngoài nàng, chỉ có những làn sóng lăn tăn mà nàng đã tạo ra. Tuy nhiên, nàng bắt đầu bơi về phía bờ mà nàng đã để áo quần của mình, cùng với thứ vũ khí duy nhất của nàng, chiếc dao găm có nạm đá quý, nó đã cùn như một món trang sức chứ không còn là vũ khí nữa. Nàng đúng là ngốc khi đến đây một mình thay vì đợi một trong những người anh của mình đi cùng. Nhưng họ quá bận rộn chuẩn bị cho con tàu Viking của cha nàng, chiếc tàu mà tuần tới Selig sẽ xuôi miền đông, và ngày hôm nay ấm áp tuyệt vời sau một mùa xuân mát mẻ và một mùa động lạnh khác thường. Nàng không thể chống lại sự cám dỗ này. Đây như một cuộc phiêu lưu, làm những việc nàng chưa bao giờ làm, và nàng thật sự thích phiêu lưu. Nhưng tất cả những cuộc phiêu lưu của nàng trước đây đều chia sẽ với người khác. Và có lẽ là không khôn ngoan khi cỡi bỏ hết quần áo thế này, dù lúc này làm như vậy thật là một sự liều lỉnh tội tệ, và nếu Kristen là bất cứ thứ gì, thì đó là sự liều lĩnh. Luôn là như vậy, ngay bây giờ, nàng đã hối hận. Chỉ ngay khi chân nàng chạm đất, hắn đã đứng trước mặt nàng, to lớn và đầy đe dọa. Kristen rên thầm rằng đó là Dirk thay vì ai đó, vì hắn đã từng cưỡng bức nàng, và nhìn vào mặt hắn cứ y như cách đây 2 tuần. Hắn là một người đàn ông khỏe mạnh, rắn chắc, như anh Selig của nàng. Thật ra họ đã từng là bạn thân, cùng tuổi với nhau. Nàng cũng từng xem hắn là bạn, cho đến ngày hắn tấn công nàng trong chuồng ngựa. Hắn đã thay đổi, từ một cậu bé mà nàng cùng lớn lên, cùng cưỡi ngựa, đi săn, đi bơi. Hắn ta quả là đẹp trai với mái tóc vàng sậm và đôi mắt nâu vàng. Nhưng hắn không phải là Dirk mà nàng biết, nàng rất sợ những gì đã xảy ra ngày hôm đó lại tái diễn. “Em không nên đến đây, Kristen.” Giọng hắn nhỏ, khàn khàn. Mắt hắn ta bị thu hút bởi những giọt nước lấp lánh trên hàng mi dài của nàng.Nước đang nhỏ giọt xuống đôi gò má cao và chiếc mũi thẳng. Nàng liếm môi và hắn ta rên lên. Kristen đã nghe thấy và mở to mắt, không phải sự cảnh báo, mà là nguy hiểm. Đôi mắt đó giống như cha nàng, xuyên qua bầu trời, biển cả và mặt đất, với ánh mặt trời đằng sau để làm chúng thàng màu xanh biển sáng. Chỉ ngay lúc này, chúng có màu ngọc lam, hoảng loạn, như bão biển đang dậy sóng. “Để tôi đi, Dirk” “Anh nghĩ là không đâu” “Nghĩ lại đi.” Nàng không lên giọng, không cần phải làm vậy. Cơn giận của nàng là bằng chứng trong mỗi đường nét trên khuôn mặt nàng. Nhưng Dirk là một con ác quỷ đang quay lưng, con quỷ của sự thèm khát. Đã qua rồi cái suy nghĩ thật may mắn sao hắn không cưỡng bức nàng trước đây. “Ah, Kristen.” Hắn đưa tay tóm lấy đôi vai trần của nàng, giữ thật chặt khi nàng cố để thoát khỏi. “ Em có biết em đang làm gì với anh không? Em có biết gì về việc một người đàn ông có thể mất trí thế nào khi ham muốn một phụ nữ xinh đẹp như em không?” Một tia nguy hiểm lóe lên trong mắt nàng. “Anh mất trí nếu anh nghĩ…” Miệng hắn đáp xuống một cách hung bạo để ngăn nàng nói. Đôi tay hắn túm vai nàng kéo lại gần, ép ngực nàng vào hắn. Kristen ngạt thở. Miệng hắn đang chà xát môi nàng đau đớn và nàng ghét điều đó, ghét cảm giác cơ thể hắn áp sát vào nàng. Việc họ gần như cùng chiều cao làm cho cái nam tính của hắn ở ngay vị trí hắn tìm kiếm, và nàng ghét điều đó nhất. Nàng không ngờ nghệch đến nổi không biết cách mà một người đàn ông và một phụ nữ như thế nào khi họ ân ái. Mẹ nàng, Brenna, đã dạy nàng tất cả về việc này, nhưng đây không phải như thế, không khi mà nàng chỉ cảm thấy sợ hãi. Nàng nguyền rủa sức mạnh của hắn khi nàng cố gắng để thoát khỏi vòng tay hắn. Nàng ngưỡng mộ sức mạnh và sự can đảm của đàn ông nhưng không khi nó trực tiếp chống lại nàng. Dirk ắt hẳn không gặp trở ngại gì để tìm được lối vào và cướp đi đời con gái của nàng. Nàng sẽ giết hắn nếu hắn làm thế, hắn không có quyền đó. Chỉ nàng mới có quyền tặng nó cho người mà nàng muốn cho, nàng sẽ vui sướng làm điều đó. Nhưng không phải như thế này, và Dirk không phải con người. Nhận ra môi hắn đang ở giữa hàm răng mình, nàng cắn mạnh, móng tay nàng cắm sâu vào ngực hắn cùng lúc đó. Nàng cắn mạnh thêm cho đến khi hắn bỏ tay khỏi người nàng; lúc này nàng đẩy hắn ra cho đến khi họ thay đổi vị trí. Hắn có thể tấn công nàng để có thể tiếp tục, nhưng nàng dĩ nhiên sẽ xé toạc môi hắn ra và hắn chắc chắn nhận ra điều đó. Nhưng nàng không có cơ hội, tiếp tục cắn chặt môi hắn cho đến khi bất ngờ đá vào bụng hắn. Nàng nhả môi hắn ra vào đúng ngay lúc nàng dùng bụng hắn là ván đệm, bật chạy về phía bờ sông và Dirk bật ngược xuống nước. Việc hắn ngã xuống nước cho nàng thời gian để thoát khỏi mép nước và túm chặt dao găm trước khi hắn đến gần. Nhưng hắn không thử. Nhìn vào vũ khí của nàng làm hắn do dự một chút. “Em lắm trò như là con gái của Loki vậy!” Dirk thốt ra một cách đau đớn, chùi máu ở môi, trừng mắt giận dữ với nàng. “Đừng so sánh tôi với ông thần của anh, Dirk. Mẹ tôi nuôi lớn tôi là con chiên Thiên Chúa” “Anh không quan tâm em tin vào vị thần nào,” hắn vặn lại. “Bỏ con dao xuống, Kristen.” Nàng lắc đầu. Giờ nàng đã bình tĩnh, hắn nhìn thấy điều đó, bây giờ nàng có vũ khí trong tay. Và, nhờ Odin, nàng thật lộng lẫy, đứng đó hoàn toàn khỏa thân với những giọt nước lấp lánh khắp cơ thể, ngực nàng đầy đặn như trêu chọc hắn, cái bụng phẳng, mềm mại được bao phủ bởi đám cỏ rối hung vàng trải ra giữa hai chân nàng. Và nàng đang thách thức hắn, thách thức hắn di chuyển về phía nàng, và nắm chặt cái dao găm như thể nàng biết sử dụng nó vậy. “Anh nghĩ mẹ em đã dạy em nhiều thứ hơn là chỉ yêu mến Chúa trời.” Sự cay đắng trào lên giọng hắn. “Cha và anh trai em không bao giờ dạy em sử dụng thứ đồ chơi đó, cũng không tha thứ cho em vì đã học nó, vì đó sẽ là sĩ nhục khả năng bảo vệ em của họ. Quý bà Brenna đã dạy em các trò của người Celtic, phải không? Sau nhiều năm lẽ ra bà ta nên học được rằng các kỹ năng của Celtic không ăn nhầm gì với chiến binh or cướp biển vùng Bắc và Tây u chứ. Bà ấy đã dạy em điều gì nữa, Kristen?” “Tôi biết sử dụng mỗi loại vũ khí trừ rìu vì đó là thứ vũ khí vụng, không cần phải biết cách sử dụng.” Nàng trả lời một cách tự hào. “Vụng chỉ bởi vì em không đủ sức để dùng nó,” hắn đáp trả một cách cáu kỉnh. “Và cha em sẽ nói gì nếu ông ấy biết? Anh cá là ông sẽ dung roi da mà quất hai người.” “Anh sẽ nói với cha tôi à?” Nàng chế nhạo. Hắn nhìn trừng nàng. Dĩ nhiên hắn không kể với cha nàng, vì lúc đó hắn sẽ phải giải thích tại sao hắn biết việc đó. Và cái nhếch mép trên môi nàng nói lên rằng nàng đã biết. Nghĩ đến Garrick Haardrad, người cao hơn hắn cả 30cm và vẫn còn rất đường bệ, đã làm nguội một ít hăng hái của hắn – không phải tất cả. Hắn nhướng mày thăm dò phản ứng của nàng. “ Anh có gì không ổn mà em từ chối anh, Kristen?” Câu hỏi làm nàng kinh ngạc, được thốt ra nhẹ nhàng kèm theo chút bối rối. Hắn đứng trước nàng với ánh mắt trống rỗng và niềm kiêu hãnh cứng nhắc. Mắt nàng do dự quét qua người hắn. Nàng không khó chịu với những gì nàng thấy, nàng đã từng nhìn thấy những người đàn ông khỏa thân khi cùng bạn thân của mình, Tyra, lẽn vào nhà tắm của chú nàng, trốn sau thùng nước và nhìn các anh họ nàng tắm. Dĩ nhiên chuyện đó cách đây 10 năm rồi, và có sự khác biệt chứ. Nàng chưa bao giờ nhìn thấy cái vật đàn ông đang thẳng tưng và đầy kiêu hãnh như Dirk hiện giờ. Kristen thành thật trả lời với hắn, vì đáng phải như thế. “Anh không có gì không được cả, Dirk. Anh có thân hình rất đẹp và bắt mắt. Cha anh có một trang trại giàu có và anh là người thừa kế. Một người phụ nữ chắc chắn rất hài lòng lấy anh làm chồng.” Nàng không thêm rằng Tyra thậm chí sẽ mặc cả với các vị thần để có được hắn và đó là lý do tại sao Kristen sẽ không có ý với hắn. Tyra đã yêu người đàn ông này 5 năm, nhưng hắn không biết điều đó. Và Kristen đã thề sẽ không bao giờ kể với ai bí mật của bạn mình, nhất là Dirk. “Anh chỉ đơn giản là không dành cho tôi, Dirk Gerhardsen,”. Nàng kết thúc một cách chắn chắn. “Tại sao?” “Anh không làm tim tôi xao động.” Hắn nhìn nàng ngờ vực,gặng hỏi “ Điều đó có liên quan gì đến việc kết hôn chứ?” . Mọi thứ, nàng nói với bản thân mình. Với hắn, nàng chỉ nói “ Tôi xin lỗi, Dirk, Tôi không muốn kết hôn với anh. Tôi đã nói với anh rôi.” “Có thật em sẽ kết hôn với Sheldon?” Nàng có thể nói dối và dùng nó như cái cớ để thoát khỏi tình thế này, nhưng nàng không muốn nói dối chỉ để làm mọi thứ dễ dàng hơn. “Sheldon như là một người anh trai đối với tôi, bố mẹ tôi muốn tôi cưới anh ấy nhưng tôi cũng đã từ chối.” Và anh ấy thấy nhẹ nhõm, nàng nhủ thầm, vì anh ấy cũng xem tôi như em gái, cũng cảm thấy không thoải mái với cái viễn cảnh một đám cưới giữa chúng tôi.“Rồi em sẽ phải chọn ai đó, Kristen. Mọi đàn ông ở dọc cái vịnh này đều đã hỏi cưới em một lần rồi, có khi hơn. Em lẽ ra đã cưới lâu rồi.” Đây không phải là chủ đề hay ho gì với Kristen, bởi vì nàng rõ hoàn cảnh của mình hơn bất cứ ai, không có người đàn ông độc thân nào ở quanh sông này nàng muốn cưới cả. Nàng muốn có một tình yêu đẹp như bố mẹ nàng đã có với nhau, nhưng nàng biết cuối cùng rồi nàng cũng phải từ bỏ. Nàng đã hoãn lại nhiều năm rồi, bằng cách từ chối tất cả những lời cầu hôn, và bố mẹ nàng để mặc nàng làm vậy vì họ yêu thương nàng. Nhưng nàng không thể tiếp tục làm thế nữa rồi. Nàng điên tiết với Dirk vì đã làm nàng nhớ lại sự tuyệt vọng của mình, cái mà đã ở trong đầu nàng nhiều năm qua. “Tôi chọn ai không liên quan tới anh, Dirk, vì đó sẽ không phải là anh. Nghĩ lại đi và tìm người khác, xin đừng làm phiền tôi nữa.” “Anh có thể chiếm đoạt em, Kristen, và buộc em phải cưới anh,” hắn cảnh cáo nhẹ nhàng. “ Vì em đã từ chối quá nhiều lời cầu hôn rồi, cha em sẽ vui mừng trao em cho anh sau khi anh đã hủy hoại em” Đó là một khả năng. Dĩ nhiên cha nàng sẽ đánh hắn nhừ tử trước. Nhưng nếu Dirk vẫn sống sau đó, nàng sẽ bị ép lấy hắn. Sự thật thì nàng không còn là thiếu nữ nữa để mà xem xét. Kristen quắc mắt nhìn hắn. “Nếu cha tôi không giết anh, tôi sẽ làm việc đó. Đừng ngốc thế, Dirk, tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho trò bẩn thĩu đó” “Nhưng em sẽ là của anh.” “Tôi nói tôi sẽ giết anh!” “Anh nghĩ là không,” hắn nói với quá nhiều tự tin vì ham muốn nàng. “Anh nghĩ rất đáng để liều.” Mắt hắn ở trên ngực nàng khi hắn nói câu đó. Kristen cứng người. Lẽ ra nàng không nên đứng đó mà nói chuyện với hắn. Lẽ ra nàng nên nhảy lên Torden và cưỡi thẳng đi thay vì túm lấy con dao găm mà đối mặt với hắn. “Giờ thì thử đi, chết tiệt đôi mắt của anh, tôi sẽ giết anh sớm hơn.” Kristen rít lên. Dirk nhìn vào con dao của nàng lần nữa và thấy nàng dơ nó lên theo cách nó chắc chắn sẽ trúng mục tiêu trước khi hắn có thể tước nó từ tay nàng. Chỉ khi nàng không cao bằng hắn, và sức mạnh thì thường đi kèm với chiều cao… Cơn giận của hắn bốc lên lần nữa, nhưng bây giờ nó hướng về mẹ nàng, bà ta đúng là điên rồi mới day nàng kỹ năng chiến đấu. Hắn gầm gừ “Em sẽ không luôn có món đồ chơi đó trong tay, Kristen.” Nàng hếch cằm. “ Anh là một tên ngốc mới cảnh báo tôi thế. Bây giờ tôi sẽ bao giờ để anh bắt gặp một mình nữa đâu.” Hắn kích động. “Vậy thì em nên chắc rằng cửa phòng luôn khóa khi đi ngủ, bằng cách nào đó, vào ngày nào đó, sớm thôi, anh sẽ có cách chiếm được em.” Kristen không thèm đáp trả lời đe dọa đó, mà khom người để nhặt nhạnh quần áo dưới chân và kéo chúng qua vai. Không rời mắt khỏi Dirk, nàng lui lại túm lấy dây cương của Torden và đi về phía con ngựa của mình. Khi đi một khoáng xa, nàng nắm lấy cái bờm trắng mượt mà của Torden và nhảy lên lưng nó.” Nàng có thể nghe thấy những lời nguyền rủa điên tiết của Dirk phía sau lưng mình, nhưng nàng chẳng quan tâm, điều nàng đang lo bây giờ là làm sao mặc quần ao vào mà không phải cho ngựa đi chậm lại, trước khi nàng đến gần lãnh địa của Haardrad và ai đó sẽ trông thấy nàng. Nàng sẽ không thể giải thích, và sự thật sẽ làm sự do của nàng bị giới hạn một khắc khe, còn Dirk Gerhardsen thì rơi vào đống lộn xộn. Nếu không phải vì những cấm kỵ đó, nàng sẽ thừa nhận những gì xảy ra, nhưng nàng đánh giá cao sự tự do của mình. Cha nàng lo lắng về nàng như thế đủ rồi. Mẹ nàng thì không, trong suốt những mùa hè mà cha nàng ra khơi và mang theo các anh trai cùng đi, bà đã dạy cho nàng rất tốt các kỹ năng tự vệ. Brenna đã dạy nàng cách bí mất để học từ cha nàng kỹ năng và xảo thuật cần thiết để sử dụng vũ khí chống lại kẻ địch mạnh hơn mình, phải có thủ đoạn bởi vì dù nàng có cao hơn mẹ nàng ½ foot, mạnh hơn hầu hết phụ nữ, nàng cũng không đủ mạnh so với 1 người đàn ông. Kristen tự hào vào khả năng tự vệ của nàng, nhưng đây là lần đầu tiên nàng kiểm chứng khả năng đó. Ngoài Selig, lớn hơn nàng 2 tuổi, còn có Eric, 16 tuổi, và Thorall, 14 tuổi, cả hai đứa đã to lớn gần bằng người cha vĩ đại của họ rồi. Nàng còn có người anh họ Athol, chỉ lớn hơn Selig vài tháng, và hàng tá anh em họ xa bên nhánh của cha nàng nữa, họ sẽ chiến đấu thậm chí tới chết để giảm tối thiểu tổn thương cho nàng. Không, nàng sẽ tự vệ tốt và không cần phải chứng minh bản thân như mẹ nàng cảm thấy cần khi bà ở tuổi nàng. Cho đến hôm nay. Nếu như nàng ra khơi với Selig và bạn anh tuần tới để đến các thị trấn thương mại ở Miền Đông, nàng sẽ không cần phải lo lắng về Dirk nữa – ít nhất cho đến khi nàng quay lại vào cuối mùa hè. Cho đến lúc đó, có lẽ hắn đã tìm được một nàng vợ rồi và sẽ không phiền nàng nữa. Trời ạ, nàng đã xin được tham gia chuyến đi này nhưng đã bị từ chối rồi. Nàng đã dư lớn để ra khơi với nhiều người đàn ông trẻ tuổi này rồi, dù đó là một trong những con tàu của cha nàng, với sự trông nom của Selig. Nếu Garrick không đi, nàng cũng không được đi, thế đấy. Thậm chí nàng đã tinh vi trêu chọc rằng có thể nàng sẽ gặp một ông hoàng kinh doanh như ông ở Birka or Hedeby để đem về làm chồng cũng không lay chuyển được ông. Nếu ông không ở đó để trông nom nàng như những lần ông đã đem nàng và mẹ nàng theo, thế thì, nhờ thần Odin, nàng phải ở nhà. Garrick đã không ra khơi tám năm nay rồi, ông thích trải qua hàng tháng hè với Brenna hơn, ông để bạn ông, Perrin, chỉ huy con tàu của mình, or Selig, vì giờ anh đã đủ tuổi làm việc đó. Bố mẹ Kristen sẽ cưỡi xuống phía bắc, một mình, và sẽ không quay lại cho đến hết hè. Họ sẽ cùng nhau đi săn, khám phá, yêu nhau, và Kristen luôn ước mình có sẽ có được tình yêu như họ. Nhưng ở đâu có thể tìm đc người đàn ông như Garrick, người rất dịu dàng hòa nhã với những ai ông yêu mến, và rất nguy hiểm, đáng sợ với những kẽ ngược lại, người có thể làm tim nàng đập nhanh hơn như cách Brenna đã thể hiện khi bà chỉ đơn giản nhìn vào Garrick? Kristen thở dài đánh thượt, cưỡi ngựa về nhà. Không có người đàn ông như thế, không phải ở đây. Oh, có một vài người khá lịch thiệp, nhưng không nhiều, dù là có nhiều gã khá là nguy hiểm. Miền bắc này đã sinh ra những người đàn ông dày dạn, khỏe mạnh, những hình mẫu tốt đẹp của đàn ông, nhưng không ai có thể khuấy động được trái tim nàng. Ở đâu đó chắc chắn có một người định mệnh dành cho nàng, có thể là một thương gia, or một thủy thủ như cha nàng – một người Đan Mạch, hay có lẽ là Thụy Điển, thậm chí là 1 người Na-uy đến từ Miền Nam. Tất cả bọn họ đều làm ăn ở các thị trấn thương mại lớn của Miền Đông. Nàng chỉ phải tìm ra anh thôi.   Mời các bạn đón đọc Trái Tim Đam Mê của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Nhân Chứng Cuối Cùng
VIẾT VỀ MỘT KHO CẤT GIỮ NỖI ĐAU CÒN TINH KHÔI Những nhân chứng cuối cùng (ấn bản lần đầu năm 1985) là quyển thứ hai trong loạt năm quyển sách Những giọng nói không tưởng (cùng với Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ -1983, Những cậu bé kẽm - 1991/ Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997 và Thời second hand - 2013) đã mang đến cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich giải Nobel văn chương 2015. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí Ba Lan năm 2013, nữ nhà văn cho biết ý tưởng viết quyển sách thứ hai này xuất phát từ những chuyến đi thực tế cho quyển sách đầu tiên Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ. Cuộc chiến cướp mất hàng chục triệu con người Liên Xô đã khiến nhiều ngôi làng Xô viết sau chiến tranh không còn bóng dáng đàn ông, và tại những ngôi nhà góa bụa đó, bà thường nghe được hai câu chuyện: một của người mẹ và một của đứa con. Nhờ đó, bà phát hiện: “còn một kho cất giữ nỗi đau hoàn toàn chưa được động tới, tinh khôi”: ký ức trẻ thơ. Người ta đã quen nghe nói về chiến tranh từ người lớn, nhưng chỉ những chuyện kể từ miệng trẻ em mới có thể bộc lộ hết sự điên rồ của chiến tranh, sự hung bạo phi nhân tính không gì có thể biện bạch. Trung thành với thể loại văn xuôi tư liệu của loạt Những giọng nói không tưởng, Svetlana Alexievich kể, trong Những nhân chứng cuối cùng bà ghi lại lời những “nhân vật trẻ em” khi họ đã trưởng thành. Đây là một công việc hết sức khó khăn. “Một giáo sư sử học thì nói những điều rất khác, rất ‘người lớn’ về chiến tranh. Nên cần nhiều thời gian, bốn hay năm giờ đồng hồ để lộ ra được diện mạo một cậu bé có mẹ bị quân Đức lôi ra khỏi nhà đem bắn. Để cậu bé có thể nhìn tận mắt mình: ‘Tại sao họ bắn mẹ. Mẹ đẹp như thế…’ Cần phải đạt tới được những chi tiết chân thực, tinh khôi, trẻ thơ đó. Vấn đề là gột sạch cái người lớn từ những chuyện kể này”. Và tác giả đã làm như thế với cả trăm câu chuyện trẻ thơ, được kể lại bởi những người mà khi Chiến tranh Vệ quốc nổ ra, họ mới từ 4, 5 đến 12 tuổi. Hơn 100 câu chuyện của những đứa bé sống ở Belarus - nằm sát Ba Lan, là nước đầu tiên trong Liên Xô bị phát xít Đức bất ngờ tấn công ngày 22-6-1941, đã đạt được mục đích mà Alexievich đặt ra: Nước mắt trẻ thơ, dẫu chỉ một giọt thôi, cũng nặng hơn vô vàn lý lẽ chiến tranh nào. Với lời nhắc nhở đó, trong một dịp đi Saint Petersburg năm 2017, tôi đã tìm đến Con đường Sống mà một số nhân vật trẻ em trong Những nhân chứng cuối cùng dã đi qua. Đây là tuyến đường vận chuyển duy nhất kéo dài từ đường vành đai Saint Petersburg tới hồ Ladoga, con đường huyết mạch nối thành phố khi đó còn mang tên Leningrad - với phần còn lại của nước Nga trong 900 ngày đêm bị phát xít Đức bao vây. Tuyến đường rất xanh, chạy qua những rừng bạch dương, rừng thông… nhưng mỗi ngọn cây lá cỏ đều nhắc tôi rằng hơn 70 năm trước, lá non cỏ tươi ở Leningrad từng không mọc nổi vì nạn đói, cả vỏ cây non cũng bị tước đi… Mỗi cây số ở hai bên đường đều được đánh dấu bằng cột mốc, ở cây số 12 có tượng đài nhắc nhở: “1,5 triệu tấn hàng hóa được chuyển qua cung đường này, 1,2 triệu người dân theo Con đường Sống này ra khỏi Leningard bị bao vây”. Ở cây số 40 là hiểu tượng vòng vây phong tỏa bị cắt đứt. Ở cây số 45 là bảo tàng Con đường Sống, nằm tại ngọn hải đăng Osinovets. Trong khuôn viên hảo tàng, có đặt một tảng đá to hướng ra hiển, trên đó ghi: “Tại dây sẽ xây dựng tượng đài kỷ niệm những anh hùng của Con đường Sống. Đối diện bảo tàng, bên kia đường là những cây bạch dương non được cột ruy băng đỏ, giữa khu rừng nhỏ đó cũng đặt một tảng đá có khắc hàng chữ: “Nơi đây sẽ đặt tượng đài kỷ niệm những người đã bỏ mình trong lòng hồ Ladoga”. Người Nga không quên những năm tháng nặng nề với số phận dân tộc mình. 72 năm sau khi chiến tranh hết thúc, những tượng đài vẫn được tiếp tục lưu dấu. Bởi những người cựu binh của cuộc Chiến tranh Vệ quốc đã già lắm rồi, họ đến dự cuộc duyệt binh chiến thắng mỗi năm một thưa dần. Con cháu họ cũng đã lớn, và ký ức của các nhân chứng ngày càng ít đi này đang dần phôi phai. Ở thế giới vẫn còn chiến tranh của chúng ta, những câu chuyện của các “nhân chứng cuối cùng” này, được gia cố thêm bằng những tượng đài kia, là một nỗ lực nhắc nhớ. Sau giải Nobel văn chương 2015, loạt sách Những giọng nói không tưởng đã được tái bản, có sửa chữa. Bản dịch này dựa trên quyển sách Những nhân chứng cuối cùng được tác giả hiệu đính và nhà xuất bản Vremya phát hành năm 2016. Xin trân trọng gửi tới độc giả bản dịch cùng lời cảm ơn chân thành đến chị Irina Anatolyevna Letiagina, cựu biên tập viên Nhà xuất bản Cầu vồng và Tiến bộ (Liên Xô cũ), đã giúp đỡ để chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan (11-2017) *** Seri Những Giọng Nói Không Tưởng, bao gồm: Chiến tranh không mang gương mặt phụ nữ, Những Nhân Chứng Cuối Cùng, Những cậu bé kẽm, Lời nguyện cầu Chernobyl Thời second hand *** Svetlana Alexievich (31/5/1948) là một nhà báo điều tra và nhà văn thể loại văn xuôi hiện thực. Bà là người Belarus nhưng viết báo, viết văn bằng tiếng Nga. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học vì “lối viết phức điệu, một tượng đài tưởng niệm sự thống khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.  Ngoài Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Svetlana Alexievich còn viết nhiều sách về đề tài chiến tranh như Những nhân chứng cuối cùng (1985), Quan tài kẽm (1989), Tiếng vọng từ Chernobyl (1997)... Ngoài Nobel Văn chương, Svetlana Alexievich nhận nhiều giải thưởng khác như giải Leninsky Komsomol ở Nga, PEN Award, Peace Prize of the German Book Trade, Giải Médicis Essai (Pháp), giải National Book Critics Circle (Mỹ)… *** Tháng Sáu năm bốn mốt. Tôi nhớ lúc đó mình còn nhỏ lắm, nhưng tôi vẫn nhớ hết. Điều cuối cùng tôi nhớ từ cuộc sống hòa bình là câu chuyện cổ tích mẹ vẫn đọc hằng đêm. Câu chuyện yêu thích của tôi - Con cá vàng. Tôi luôn xin cá vàng điều gì đó: “Cá vàng ơi, cá vàng dễ thương ơi…” Và em gái tôi cũng vậy. Em nguyện cầu theo kiểu của mình: “Cá nhỏ, cá ngoan. Làm theo lời chị…” Chúng tôi xin nghỉ hè được về quê bà, với ba đi cùng. Ông vui như thế… Buổi sáng tôi thức giấc vì sợ. Bởi những tiếng động lạ nào đó… Mẹ và ba ngỡ chị em tôi còn say giấc, còn tôi nằm cạnh em gái và giả vờ ngủ. Tôi thấy ba hôn mẹ rất lâu, hôn lên mặt, lên tay, và tôi ngạc nhiên, trước đây ông chẳng bao giờ hôn mẹ như thế. Họ nắm tay nhau bước ra sân, tôi nhảy lại chỗ cửa sổ: Mẹ ôm lấy cổ ba, không muốn rời ông. Ông đẩy bà ra và chạy, còn bà đuổi theo và hét lên gì đó. Khi đó tôi cũng hét lên: “Ba! Ba!” Em gái và em trai Vasya thức giấc, em gái thấy tôi khóc, nó cũng la lên: “Ba ơi!” Tất cả chúng tôi lao ra ngoài hiên. “Ba ơi!” Ba nhìn chúng tôi, và tận bây giờ tôi vẫn nhớ, ông lấy tay che đầu và bước đi, thậm chí là bỏ chạy. Ông sợ ngoái đầu nhìn lại… Mặt trời soi chiếu gương mặt tôi. Ấm như thế. Và đến giờ tôi vẫn không tin là sáng hôm ấy ba tôi bước vào cuộc chiến. Tôi còn quá nhỏ, nhưng dường như vẫn nhận thức được đây là lần cuối tôi được nhìn thấy ông. Không bao giờ gặp lại. Tôi còn rất, rất nhỏ. Và như thế gắn liền với ký ức của tôi, chiến tranh - đó là khi không còn ba. Rồi về sau tôi còn nhớ: bầu trời tối om và máy bay đen sì. Cạnh con đường nhựa mẹ tôi nằm xoải tay. Chúng tôi đánh thức bà dậy, nhưng bà không buồn nhấc người lên. Những người lính quấn mẹ tôi vào tấm bạt và chôn bà trong cát, ngay chính ở chỗ đó. Chúng tôi la hét cầu xin: “Đừng chôn mẹ cháu trong cái hố đó. Mẹ cháu sẽ thức dậy và chúng cháu sẽ đi tiếp”. Những con bọ kềnh càng từ dưới cát bò lên… Tôi không thể nào tưởng tượng nổi mẹ sẽ sống cùng chúng dưới lòng đất. Sau này chị em tôi biết tìm bà thế nào, chúng tôi sẽ gặp lại nhau ra sao? Ai sẽ viết thư cho ba chúng tôi? Ai đó trong những người lính trẻ hỏi tôi: “Bé con, em tên gì?” Nhưng tôi quên rồi. “Cô bé, vậy họ em là gì? Mẹ em tên gì?” Tôi cũng không nhớ… Chị em tôi ngồi cạnh nấm mộ nhỏ của mẹ tới tận đêm, cho đến khi người ta kéo chúng tôi lên xe ngựa. Một chiếc xe ngựa thồ toàn trẻ em. Đưa chúng tôi đi là một ông già nào đó, ông gom lũ trẻ chúng tôi khắp dọc đường. Chúng tôi dừng lại ở một ngôi làng, và những người lạ mặt dẫn chúng tôi vào các nhà dân. Rồi tôi không nói chuyện với ai một thời gian dài. Tôi chỉ nhìn thôi. Sau đó, tôi nhớ, vào mùa hè. Mùa hè rực rỡ. Một người đàn bà lạ xoa đầu tôi. Tôi bắt đầu khóc. Và bắt đầu mở miệng. Tôi kể về mẹ và ba. Rằng ba đã chạy trốn chúng tôi, thậm chí ông còn không ngoái đầu lại. Và mẹ nằm sõng soài như thế nào. Và những con bọ cánh cứng đã bò trên cát ra sao. Người đàn bà xoa đầu tôi. Giây phút đó tôi chợt hiểu ra: Bà giống mẹ tôi. Mời các bạn đón đọc Những Nhân Chứng Cuối Cùng của tác giả Svetlana Alexievich.
Những Ngày Tươi Đẹp
Ngày hôm nay có phải ngày thích hợp để chết? Từ chỗ gờ tường tháp chuông cách mặt đất sáu tầng nhà, Finch tự hỏi như vậy để bỗng nhận ra cậu không đơn độc, vì phía bên kia tháp chuông, Violet dường như cũng đang có cùng suy nghĩ. Ngày hôm ấy, Finch không rõ cậu đã thuyết phục được Violet lùi lại hay chính sự xuất hiện của Violet đã ngăn cậu nhảy xuống, nhưng tình bạn, tình yêu đã khởi đầu từ đó. Liệu tất cả những điều ấy có đủ để đưa họ trở lại cuộc sống? Những ngày tươi đẹp hài hước, lãng mạn nhưng cũng không thiếu những khoảnh khắc nao lòng. Cuốn sách cho ta thấy những gì thực sự diễn ra trong tâm trí của người đang chìm trong hố đen trầm cảm, cho ta biết cảm thông và sống sao cho trọn vẹn từng khoảnh khắc. *** Review Cói:   Là quyển sách yêu thích nửa đầu 2019 của mình. Và mình rất recommend cho các bạn đang là học sinh như mình. Lấy bối cảnh ở một trường trung học, nhân vật chính là Finch - một cậu bạn bị xem là khác thường và lập dị, đã gặp gỡ Violet - người luôn ám ảnh bởi quá khứ người chị gái. Đọc câu chuyện này với tâm thế như dõi theo cuộc sống trung học của hai bạn trẻ nên mình vô cùng hứng thú. Sự khác biệt ở mỗi cá thể, mà bị coi là lập dị ở trường trung học; cho nên ai cũng cố gắng trở nên bình thường. Finch thì không như thế. “...Tôi nghĩ rằng có những nơi cần được ngắm nhìn. Có lẽ sẽ chẳng có ai đến thăm những nơi đó và trân trọng chúng hoặc dành thời gian để nghĩ chúng quan trọng, nhưng có lẽ ngay cả những nhỏ nhất cũng có ý nghĩa gì đó. Còn nếu không, có lẽ chúng có thể có ý nghĩa gì đó với chúng ta. Ít nhất mà nói, vào lúc chúng ta rời đi, chúng ta biết chúng ta đã nhìn thấy nơi đây, tiểu bang vĩ đại của chúng ta. Vậy thì ta đi thôi. Hãy đi thôi. Hãy để đời ta có chút ý nghĩa nào đó. Hãy rồi khỏi cái gờ tường đó đi.” Finch cứu Violet khỏi cảnh chết đuối dưới những nỗi dằn vặt, ám ảnh. Nhưng còn Finch, cậu có thể bơi khỏi chính cái hồ sâu ấy không ? Từ một Violet ủ dột, cô ấy trở nên tươi sáng, vui vẻ trở lại. Nhưng còn Finch, vẫn mãi giữ những suy nghĩ cho chính mình. Một cuốn sách hay. Có nhiều khía cạnh được khai thác mà mục đích là để ta suy ngẫm về chính mình, về những người xung quanh. Mình đã có những cảm xúc thật vui, và xúc động rất nhiều. Các bạn, nếu bạn nghĩ mình có vấn đề về sức khoẻ tinh thần, hãy đọc cuốn sách này ít nhất một lần nhé. *** Review Trinh Phạm Thị Đoan:   Đánh giá: 5????/5 Nhiều người nói quyển sách này đã "thơ mộng hóa" căn bệnh trầm cảm, nhưng mình thấy nó thật đẹp, và cũng thật buồn. Khi Finch cứu Violet trên gờ tháp chuông, chẳng ai ngờ rằng cậu cũng đang tự chiến đấu với chính mình để không nhảy xuống vực thẳm đen tối kia. Mình vẫn luôn tin rằng, sẽ chẳng có ai muốn chết nếu có người chịu lắng nghe họ, không cần làm gì cả, chỉ cần lắng nghe thôi. Thật khó khăn khi phải vật lộn mỗi ngày giữa hai lựa chọn Thức và Ngủ. Thật khó khăn khi cố gắng không cho ai thấy phía sau cánh cửa-nơi bạn dần dần suy sụp. Thật khó khăn để yêu một người mà không nghĩ đến người ấy sẽ như thế nào nếu mình đột ngột rời đi. Một sinh mệnh đẹp đẽ như thế, cuối cùng lại tàn lụi ở nơi không ai nhìn thấy. Nhưng ít nhất cậu ấy vẫn sống, ở một thế giới do cậu ấy tạo ra, nơi cậu ấy không còn phải chịu đựng những Cú Rơi Dài nữa. Bởi vì hôm nay vẫn là một ngày tươi đẹp. *** Tôi lại tỉnh dậy. Ngày thứ 6 Ngày hôm nay có phải là ngày thích hợp để chết? Đó là điều tôi tự hỏi mình vào buổi sáng khi tôi thức dậy. Vào tiết thứ ba khi tôi đang chống mắt nghe thầy Schroeder giảng bài như ru ngủ. Ở bàn ăn tối khi tôi chuyển đĩa đậu cho mọi người. Khi ban đêm tôi nằm thao thức vì tâm trí cứ quay mòng mòng với bao điều suy nghĩ. Hôm nay có phải ngày đó không? Và nếu không phải hôm nay thì là bao giờ? Tôi đang tự hỏi mình điều đó ngay lúc này, khi đứng ở gờ tường hẹp cách mặt đất sáu tầng nhà. Tôi đang ở rất cao, đến mức như thể là một phần của bầu trời. Tôi nhìn xuống vỉa hè bên dưới, và cả thế giới chao nghiêng. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng cái cách mọi thứ quay cuồng. Có lẽ lần này tôi sẽ làm điều đó - phó mặc cho ngọn gió đưa mình đi. Cảm giác đó sẽ giống như bồng bềnh trong bể bơi, thiếp dần đi tới khi chẳng còn gì nữa. Tôi không nhớ mình đã trèo lên đây. Thật ra tôi không nhớ mấy những gì đã xảy ra trước Chủ nhật, chí ít là những gì xảy ra trong mùa đông này. Lúc nào cũng vậy - cứ tỉnh dậy là đầu óc sạch trơn. Tôi giống như lão già râu xồm Rip Van Winkle* Mọi sự cứ không cánh mà bay. Bạn có thể nghĩ tôi đã quen với việc này, nhưng lần này là tệ nhất vì không phải tôi chỉ ngủ vài ngày hay một, hai tuần - tôi đã ngủ suốt các kỳ nghỉ, tức là lễ Tạ ơn, Giáng sinh và Giao thừa. Tôi không thể diễn tả sự khác biệt lần này, chỉ là khi thức dậy, tôi cảm thấy mình gần cái chết hơn mọi khi. Tôi thức, đúng thế, nhưng hoàn toàn trống rỗng, như thể ai đó đã hút kiệt máu tôi. Đây là ngày thứ sáu từ khi tôi tỉnh lại lần nữa, và là tuần đi học đầu tiên kể từ ngày 14 tháng Mười một. Tôi mở mắt, và mặt đất vẫn ở đó, vững chãi và kiên cố. Tôi đang ở trên tháp chuông của trường, đứng trên một gờ tường rộng khoảng 10 phân. Tháp chuông khá nhỏ, khoảng sàn bê tông ngoài cái chuông chỉ rộng độ vài bước chân, ngoài ra còn có cái lan can thấp bằng đá mà tôi đã trèo qua để ra đến đây. Thỉnh thoảng tôi lại đá chân vào nó để chắc chắn rằng nó vẫn ở đó. Hai tay tôi dang rộng như đang tiến hành một buổi thuyết giáo và toàn bộ cái thành phố không-quá-lớn, buồn tẻ này là con chiên. “Thưa quý ông, quý bà,” tôi hét, “xin chào mừng quý vị đến với cái chết của tôi!” Có thể các bạn đã đoán tôi sẽ nói chào mừng đến với “cuộc sống” của tôi, bởi tôi vừa mới thức dậy mà, nhưng chỉ lúc nào tỉnh tôi mới nghĩ đến cái chết. Tôi đang gào theo cái lối của một nhà truyền giáo kiểu cũ, đầu giật giật, các từ cứ về cuối lại ríu rít vào nhau, và tôi suýt nữa mất thăng bằng. Tôi bám vào phía sau, mừng là dường như không ai nhận thấy điều này, bởi vì, nói thật là, thật khó tỏ ra can đảm khi mình đang bám chặt lan can và run lập cập như một con gà. “Tôi, Theodore Finch, với tinh thần thiếu minh mẫn, trân trọng tuyên bố để lại toàn bộ tài sản trần tục của mình cho Charlie Donahue, Brenda Shank-Kravitz và chị em gái tôi. Những người khác có thể biến con mẹ nó đi!” Ở nhà, từ nhỏ mẹ đã dạy chúng tôi phát âm cái cụm từ đó (nếu chúng tôi phải dùng đến), hay đúng hơn, là dạy chúng tôi đừng nói ra, nhưng đáng buồn là nó đã kẹt lại trong đầu tôi. Dù tiếng chuông đã vang lên, mấy đứa cùng lớp tôi vẫn tha thẩn ở sân trường. Đây mới là tuần đầu tiên của kỳ hai năm cuối cấp, thế mà bọn chúng đã làm ra vẻ mình đã học xong và chuẩn bị ra trường đến nơi. Một thằng trong số đó nhìn về phía tôi, như thể nó đã nghe thấy tôi nói, nhưng những đứa khác thì không, hoặc bởi vì chúng chưa nhìn ra tôi hoặc bởi vì chúng biết tỏng tôi ở đó và Ôi dào, lại thằng Theodore Lập Dị chứ gì. Rồi thằng đó quay đầu đi chỗ khác và chỉ lên trời. Lúc đầu tôi tưởng nó chỉ vào mình, nhưng đúng lúc đó tôi nhìn thấy cô. Cô đứng cách tôi vài bước, ở phía bên kia tháp chuông, cũng đứng ngoài gờ tường, tóc vàng sậm bay trong gió, chân váy phồng lên như một chiếc dù. Dù bây giờ là tháng Một ở bang Indiana, cô đi chân đất, chỉ mặc quần tất mỏng, một tay cầm đôi bốt, và đang nhìn chằm chằm hoặc vào chân cô hoặc vào mặt đất - thật khó nói chính xác. Trông cô như đã hóa đá tại chỗ. Tôi nói bằng giọng thông thường, không phải của nhà truyền giáo, một cách bình tĩnh nhất có thể: “Nghe tớ nói này, giờ tệ nhất là cậu nhìn xuống đấy.” Thật chậm chạp, cô quay đầu sang phía tôi, và tôi biết cô gái này, hoặc ít nhất tôi đã nhìn thấy cô ở hành lang trường. Tôi không thể ngăn mình nói tiếp: “Cậu có đến đây thường xuyên không? Vì chỗ này gần như là chỗ của tớ, và tớ không nghĩ là đã từng nhìn thấy cậu ở đây.” Cô không cười cũng chẳng chớp mắt, chỉ nhìn tôi chằm chằm từ sau cặp kính to sụ che gần hết khuôn mặt. Cô cố lùi một bước và chân vô tình đá vào lan can. Cô chệnh choạng một chút, và trước khi cô kịp hoảng loạn, tôi lên tiếng: “Tớ không biết cái gì đưa cậu tới đây, nhưng với tớ thì thành phố của chúng ta trông xinh đẹp hơn và mọi người có vẻ tử tế hơn, thậm chí những người xấu xa nhất trông cũng gần như tử tế. Trừ Gabe Romero và Amanda Monk và toàn thể cái nhóm mà cậu hay chơi cùng.” Tên cô là Violet Gì Đó. Cô nổi tiếng chẳng kém mấy đứa trong đội cổ vũ của trường - một trong những đứa con gái mà bạn không nghĩ mình sẽ bắt gặp ở một gờ tường cách mặt đất sáu tầng nhà. Sau cặp kính thô kệch cô khá xinh, tựa như búp bê bằng sứ vậy. Đôi mắt to, khuôn mặt trái tim dễ thương, khuôn miệng như muốn nở ra một nụ cười nhỏ xinh hoàn hảo. Cô là kiểu con gái hẹn hò với những gã như Ryan Cross, siêu sao bóng chày, và ngồi cùng Amanda Monk và những đứa con gái đầu sỏ khác vào bữa trưa. “Nhưng hãy thẳng thắn với nhau, chúng ta không lên đây để ngắm cảnh. Cậu là Violet, phải không?” Cô chớp mắt một cái, và tôi coi đó là câu trả lời đồng ý. “Tớ là Theodore Finch. Tớ nghĩ chúng ta đã học Toán cùng nhau năm ngoái.” Cô chớp mắt lần nữa. “Tớ ghét môn Toán, nhưng không phải vì thế mà tớ đến đây. Nếu đó là lý do của cậu thì đừng để bụng nhé. Cậu chắc là giỏi Toán hơn tớ, vì chắc chắn ai cũng sẽ giỏi Toán hơn tớ, nhưng cũng chẳng sao cả, tớ thấy không vấn đề gì. Này nhé, tớ giỏi cái khác, những cái quan trọng hơn - ghita, tình dục, hoặc liên tục làm bố tớ thất vọng, đấy là vài ví dụ. Mà thực ra, rõ ràng là cậu sẽ không bao giờ sử dụng nó ở thế giới thực, đúng không? Ý tớ là môn Toán ấy.” Tôi cứ thao thao, nhưng tôi biết mình sắp hết chịu nổi. Trước hết là vì tôi đang buồn đi tè, nên từ ngữ của tôi không phải là cái duy nhất co rúm lại với nhau. (Rút kinh nghiệm: Trước khi tự tử, hãy nhớ đi tè). Và, thứ hai, trời đang bắt đầu mưa, mà ở nhiệt độ này, mưa sẽ hóa tuyết trước khi chạm đất. “Trời bắt đầu mưa đấy,” tôi nói, như thể cô không biết điều này. “Tớ nghĩ sẽ có người tranh cãi rằng mưa sẽ rửa trôi máu đi, để cái đống của chúng ta đỡ bầy nhầy, tiện cho người khác dọn. Nhưng chính cái phần ‘bầy nhầy’ đã khiến tớ phải suy nghĩ. Tớ không phải là một người phù phiếm, nhưng tớ là một con người, tớ không biết cậu thế nào chứ trong đám tang của mình, tớ không muốn trông như vừa đi qua một cái máy xẻ gỗ.” Cô đang rùng mình hay đang run lên, tôi không thể biết chắc chắn, và thế là tôi nhích từng chút một về phía cô, cầu mong không ngã trước khi đến đích, bởi rõ ràng điều cuối cùng tôi muốn làm là biến mình thành một thằng ngu trước mặt người con gái này. “Tớ đã nói rõ ràng là tớ muốn được hỏa thiêu, nhưng mẹ tớ không tin.” Còn bố thì sẽ làm bất kể điều gì mẹ nói để không làm phật ý mẹ thêm nữa, và bố còn nói thêm: Con còn quá trẻ để nghĩ đến điều này, con biết đấy, bà Finch của con đã sống tới năm chín mươi tám tuổi, chúng ta không cần phải nói về chuyện này bây giờ, Theodore, đừng làm mẹ giận. “Thế tức là tớ sẽ bị nhét vào quan tài, tức là nếu tớ nhảy, cái chết sẽ chẳng đẹp đẽ gì. Hơn nữa, có lẽ tớ thích khuôn mặt tớ được nguyên vẹn, hai mắt, một mũi, một miệng, một hàm răng đầy đủ, mà nó, nói thật với cậu, là một trong những cái hơn người ở tớ đấy.” Tôi cười minh họa cho cô luôn. Một hàm răng đều tăm tắp, ít nhất là trông bề ngoài thì như vậy. Thấy cô vẫn im lặng, tôi tiếp tục vừa nhích dần sang vừa nói. “Nhưng hơn hết, tớ cảm thấy không phải với những người làm đám ma. Đó vốn là một nghề chả ra sao rồi, nhưng phải xử lý một thằng dở hơi như tớ ư?” Từ phía bên dưới, ai đó hét lên: “Violet à? Có phải Violet trên đó không?” “Ôi trời ơi,” cô buột miệng, nhỏ đến mức tôi hầu như không nghe thấy. “Ôitrờiôitrờiôitrời.” Gió thổi váy và tóc cô, trông như thể cô sẽ bay đi. Bắt đầu có tiếng lao xao ở dưới, và tôi hét: “Đừng cố cứu tôi! Các người sẽ chỉ làm hại chính mình thôi!” Rồi tôi nói, rất nhỏ, chỉ đủ cho cô nghe: “Bây giờ tớ nghĩ chúng ta phải làm thế này.” Lúc này tôi đang đứng cách cô chừng ba mươi phân. “Tớ muốn cậu ném đôi giày của cậu về phía cái chuông rồi bám vào lan can, chỉ cần nắm chặt vào lan can, và khi nào cậu nắm được nó, hãy dựa người vào rồi đưa chân phải qua. Hiểu chứ?” Cô gật đầu và suýt mất thăng bằng. “Đừng gật đầu. Và làm gì thì làm, đừng có nhầm lùi lại thành tiến lên đấy. Tớ sẽ đếm cho cậu. Từ một đến ba nhé.” Cô ném đôi bốt về phía cái chuông, và chúng rơi bộp, bộp trên sàn bê tông. “Một. Hai. Ba.” Cô nắm lấy cái lan can đá và nhổm người lên rồi đưa một chân qua để ngồi lên đó. Cô nhìn chằm chằm xuống mặt đất và tôi có thể thấy cô lại hóa đá, và thế là tôi nói: “Tốt. Tuyệt vời. Chỉ cần đừng nhìn xuống nữa.” Cô chầm chậm nhìn tôi rồi thò chân phải xuống tìm sàn tháp chuông, và khi chân cô chạm mặt sàn, tôi nói: “Bây giờ tìm cách đưa chân trái qua đi. Đừng bỏ tay khỏi tường.” Lúc này cô run cầm cập đến nỗi tôi có thể nghe tiếng hai hàm răng cô va vào nhau, nhưng tôi nhìn theo trong khi cô đưa chân trái về phía chân phải, và giờ cô đã an toàn. Vậy là bây giờ chỉ còn lại tôi bên ngoài. Tôi nhìn xuống mặt đất một lần cuối cùng, qua mũi đôi bàn chân cỡ bốn mươi bảy vẫn tiếp tục to ra của mình - hôm nay tôi đi giày đế mềm với dây buộc huỳnh quang - qua ô cửa sổ mở ở tầng bốn, tầng ba, tầng hai, qua Amanda Monk, vừa lớn tiếng cười đùa trên bậc thềm vừa ngúng nguẩy túm tóc vàng buộc kiểu đuôi ngựa, tay nâng sách che đầu, cố vừa tạo dáng vừa che mưa cùng một lúc. Mời các bạn đón đọc Những Ngày Tươi Đẹp của tác giả Jennifer Niven.
Người Mẹ Lang Thang
Tiểu thuyết về mẹ cảm động nhất của văn học Nhật Bản được hàng triệu bạn trẻ xứ sở hoa anh đào truyền tay nhau. Bạn sẽ phải khóc khi đọc đến những trang cuối cùng! Người mẹ lang thang là một câu chuyện về Hiromi - một người phụ nữ đã đi khắp nước Nhật và trở thành “mẹ nuôi” của những đứa trẻ kém may mắn trong cuộc sống. Cô đã chăm sóc những đứa trẻ chỉ có bố mà thiếu vắng tình yêu của mẹ, những ông bố thường xuyên vắng nhà dài ngày hay những đứa trẻ bị mẹ ngược đãi và bỏ nhà đi.  Hành trình của Hiromi kéo dài từ khi cô 20 tuổi đến năm 40 tuổi. Dù là thời gian ở cùng chăm sóc những đứa trẻ khác nhau, có đứa vài tháng, cũng có đứa tận vài năm nhưng cô vẫn cố gắng coi chúng như con ruột của mình và khi những đứa trẻ đã cứng cáp, gia đình ổn định, khi “dịch vụ” của cô không còn cần thiết nữa, cô lặng lẽ bỏ đi. Với sự tận tụy, hết lòng yêu thương những đứa trẻ ấy, Hiromi đã để lại trong tâm trí những đứa trẻ hình ảnh về một người mẹ đích thực và những kỉ niệm gia đình ấm áp trong quãng thời gian ngắn ngủi sống cùng cô.  Tại sao cô lại làm như vậy ?  Tại sao lại sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân để đi chăm sóc những đứa trẻ khác không phải con mình ?  Tại sao người mẹ ấy tiếp tục làm công việc kỳ lạ là chăm lo cho bao đứa trẻ Nhật Bản mà không mong đợi một tình cảm hồi đáp? Tại sao lại từ bỏ chính cuộc đời mình để làm tất cả những điều tưởng chừng vô nghĩa ấy? Liệu sau bao biến cố xảy ra trong đời,  sau những mất mát, tổn thương thì người mẹ ấy có được bù đắp và sống một cuộc đời không còn day dứt ?  Sau bao năm chăm hạnh phúc của người mẹ lang thang sẽ đi về đâu? Người mẹ ấy sẽ sống như thế đến khi nào? Người phụ nữ ấy làm tất cả những điều ấy vì cái gì? Bởi điều cô theo đuổi không phải tình yêu, không phải gia đình, cũng không phải sự vĩnh hằng. Câu trả lời dành cho bạn khi đọc đến cuối trang sách tuyệt vời này! “Mẹ không phải là một người chỉ làm việc nhà” *** Review Linh Lee:   Đúng như nhan đề, người mẹ lang thang là câu chuyện về Hiromi - một người phụ nữ kỳ lạ. Suốt hơn hai mươi năm tuổi xuân, cô đi đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, sống cùng nhiều gia đình với vai trò một người mẹ, chăm sóc nhiều đứa trẻ, lang thang không chốn về, chẳng nói rõ lý do. Cô là người mẹ tốt, nhưng đồng thời cũng là người tàn nhẫn nhất. Dùng bản thân đánh đổi lấy việc được chung sống với những đứa nhỏ. Lựa chọn những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, và đều thiếu vắng người mẹ, sự xuất hiện của cô đối với những đứa trẻ, có lẽ giống như một vị cứu tinh, và chúng coi cô là "mẹ" thực sự. Dùng trái tim đón nhận cô, nhưng rồi đến một thời điểm, cô lại rời đi. Dường như ở Hiromi tồn tại bản năng của người mẹ, tính cách cô dịu dàng, mềm mại, cô lo lắng từng bữa ăn, tính cách, tâm sinh lý của chúng. Không nói rõ về những hành động chăm sóc, nhưng từ sự ỷ lại của những đứa trẻ đối với cô, có thể nói, cô dùng cả trái tim để bao dung chúng. Và Hiromi là một người mang đầy những bí mật: tại sao cô lại tốt đến vậy? Tại sao cô phải bỏ đi, mà không phải là ở lại chăm sóc những đứa trẻ đến hết cuộc đời? "Người mẹ lang thang" có lẽ đã nói đúng chính xác cuộc sống của cô, cô đáng khâm phục: đi khắp nơi, tự nuôi thân, dù cho công việc chẳng mấy huy hoàng, sống với những nghĩa cử tốt đẹp. Lối viết song song giữa những câu chuyện từ nhiều nhân vật khác nhau, đã xây dựng lên một Hiromi hoàn thiện trong mắt độc giả, quá khứ, hiện tai được lồng ghép, và một phần tương lai cũng được hé lộ, cái kết mở để lại cho ta một khoảng để ta tự bổ sung: Hiromi đi tiếp, hay Hiromi nghỉ lại... Câu nói rằng mẹ không phải chỉ là người làm việc nhà đâu, dường như đã chạm đến trái tim của tôi. Có người từng nói với tôi rằng: ta mải mê nói những điều hoa mỹ, cao cả, nhưng lại chẳng biết quý trọng những gì đơn giản của cuộc sống, vì ta không hiểu, chưa từng mất đi. Phải chịu cảnh thiếu thốn tình mẹ như những người con nuôi của cô mới hiểu được tình cảm ấy thiêng liêng tới mức nào. Phải rồi, mẹ không phải là người làm việc nhà, mà là người đem đến cho chúng tình cảm, là người chở che, bao bọc những đứa con của mình. Dù con khôn lớn, nhưng mẹ thì vẫn là mẹ, và vĩnh viễn là mẹ, lớn đến đâu, thì những đứa con của mẹ Hiromi vẫn luôn tìm được cảm giác bình yên khi gặp được mẹ. Nhẹ nhàng, sâu lắng, và đầy tình cảm... Điểm: 8/10 *** Hiromi thật kỳ lạ. Đây đã là lần thứ tư cô chuyển nơi sống. Từ thành phố nhộn nhịp Tokyo, cô đi đến thị trấn dưới chân núi Phú Sĩ, vòng qua hòn đảo lạnh giá vùng Hokkaido rồi lại quay trở về một quán rượu nhỏ tại thủ đô. Nhưng đó không phải là chuyến đi du lịch gì cả, Hiromi đang đi tìm những đứa trẻ đang bị bỏ rơi. Ba anh em Ryosuke, Momoko và Naosuke đang sống với bà ngoại và người bố ngày đêm phải lái xe chở hàng; cậu bé Koutarou vì là con lai nên bị bắt nhốt ở nhà không được đi học; cô bé Manami sống đơn độc với người bố làm nghề biển, anh em Akio và Natsuno phải chạy trốn cùng người cha bị xiết nợ. Ánh mắt của những đứa trẻ ấy thôi thúc Hiromi phải làm điều gì đó cho chúng. Dưới những mái nhà không có hơi ấm của người mẹ, cô lẻn vào nhẹ nhàng như một chú mèo, chăm sóc và nuôi dưỡng những đứa trẻ, đến khi chúng ổn định với cuộc sống rồi thì cô lại ra đi mà không giữ lại bất cứ ký ức tươi đẹp nào cả. Điều kỳ lạ hơn cả, Hiromi dành hết những năm tháng tươi đẹp nhất của đời mình để làm “mẹ” của những đứa trẻ, nhưng cô không đòi hỏi sự hồi đáp nào cả. Cô không mong lũ trẻ khi lớn lên sẽ trả ơn cô bằng tiền bạc hay danh vọng, cũng không muốn chúng phải bận tâm đến cuộc sống của cô. Hiromi chỉ muốn chúng được hạnh phúc, giống như cách cô mong đứa con thật sự của mình được hạnh phúc. Người mẹ lang thang là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Hika Harada sau Tokyo Laudering - tác phẩm đã gây tiếng vang lớn cho bà ở diễn đàn văn học Nhật Bản. Motif của hai cuốn sách này cũng có nhiều điểm tương đồng, cả hai đều xoay quanh một người phụ nữ đến chăm sóc cho những ngôi nhà đặc biệt. Ở Người mẹ lang thang, đó là những căn nhà thiếu vắng người mẹ, còn ở Tokyo Laundering là những căn nhà của người vừa mới qua đời. Nếu có điều gì khiến Người mẹ lang thang trở nên khác biệt so với tác phẩm trước đây của Hika Hirada thì đó chính là hơi ấm của tình người. Cái cách Hiromi hết lòng với mỗi đứa con mà cô chăm sóc, dạy chúng không được uống nước ép hoa quả trước bữa ăn, rồi cắt tờ rơi thành hình vuông để xếp giấy, hay cách nhắc nhở những đứa con khi đến trường thì lắng nghe thầy cô giảng bài, hàng đêm lại làm bài tập cùng con, tất cả đều rất giống với hình mẫu mà một đứa trẻ luôn tưởng tượng về người mẹ của mình. Với những người đàn ông, Hiromi có thể trao thể xác mình cho họ, nhưng với những đứa trẻ của anh ta, cô sẽ trao cả trái tim mình để ủ ấm cho chúng. Thông qua cuốn sách Người mẹ lang thang, Hika Hirada muốn gửi gắm đến những thế hệ làm cha mẹ hiện tại và cả sau này rằng: Cha mẹ phải dành thời gian cho con cái, chứ không phải chỉ cho chúng mỗi tiền đâu. Bởi tình yêu thương là không bao giờ đủ, kể cả khi con người ta đã trưởng thành lớn lên và già đi. Và cũng bởi với những trái tim bị tổn thương thì chỉ có một trái tim khác mới có thể chữa lành được. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ Lang Thang của tác giả Hika Harada.
Vùng Đất Xannhicôp
Vùng Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn và nhỏ bao quanh, còn khu trung tâm không có đảo. Các đảo thường có băng, tuyết phủ, chỉ trừ một số ít đảo không có băng tuyết trong một thời gian ngắn về mùa hè. Biển bao quanh các đảo cũng thường xuyên đóng băng. Vùng trung tâm không có đảo thường có những lớp băng dày, lâu năm, nước và gió thường xô đẩy những tảng băng ở đây về nhiều hướng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, các nhà thám hiểm dũng cảm đã đến vùng Bắc cực, từng bước nghiên cứu vùng này và đã từng sống ở những đảo đó. Người ta đã cố gắng lợi dụng các tảng băng di chuyển để đi vào vùng Bắc Băng Dương, nơi còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự khám phá các đảo mới được bắt đầu từ lâu và ngày nay cũng đang được tiếp tục; chẳng hạn các đảo nhỏ Gianet, Ghenriet, Bennet ở phía đông-bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ đã được phát hiện vào năm 1881; quần đảo lớn mang tên Vùng đất bắc ở phía bắc bán đảo Taimưrơ được phát hiện vào năm 1913; tiếp theo đó, các đảo nhỏ ở vùng biển Carơxkôie cũng được phát hiện. Dù sao, người ta cũng không thể khẳng định là các đảo ở vùng Bắc cực đã được phát hiện hết. Bởi vì ở nơi mà băng di chuyển nhiều, còn có thể có những hòn đảo khác, nếu đi bằng đường biển thì không đến các đảo này được, còn đi theo các tảng băng di chuyển cũng rất khó tới. Nhờ sử dụng máy bay, người ta có thể đến được những nơi trong vùng Bắc cực mà đi bằng đường biển hoặc đi theo băng di chuyển cũng không thể đến được. Song, cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa khám phá được các hòn đảo ở vùng Bắc cực, mà những truyền thuyết về chúng được tồn tại đã gần một thế kỷ rưỡi nay rồi. Những người thợ săn dũng cảm đã từng đến các hòn đảo gần lục địa châu Á để kiếm lông thú và ngà voi ma-mút, cả những nhà thám hiểm phương bắc, trong những ngày đẹp trời hiếm có ở phương bắc, đã thấy được các hòn đảo đó từ những điểm cao, nhưng họ không sao đi đến được. Hòn đảo ở về phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ được đặt tên là Vùng đất Xannhicôp, do Iacôp Xannhicôp là người đầu tiên trông thấy nó ở tận phía chân trời giữa vùng bằng. Cuốn sách này miêu tả việc những người tù chính trị bị đi đày ở lưu vực sông Indihiroca đi tìm Vùng đất Xannhicôp. Cuốn tiểu thuyết này thuộc loại khoa học viễn tưởng, bởi vì tác giả mô tả một vùng đất tưởng tượng, miêu tả thiên nhiên và dân cư của vùng đất này theo các giả thuyết khoa học. Bạn đọc sẽ làm quen với những hòn đảo Bắc cực, với các điều kiện thám hiểm giữa vùng băng, với thiên nhiên và dân cư ở một vùng đất có thể có được mà chưa ai biết, nếu nó tồn tại theo các giả thuyết mà tác giả nêu lên. Trong chương “Vài lời cuối cùng” bạn đọc sẽ có được lời giải đáp về các giả thuyết nói về vùng đất Xannhicôp, và làm quen chút ít với những phát minh mới mẻ của các nhà khoa học nghiên cứu vùng Bắc cực của Liên Xô, làm sáng tỏ một phần nào về sự bí hiểm của Vùng đất Xannhicôp. *** Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta. Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc1. Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người. Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo. Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.” - Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có. Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi: - Ai thế? Sao kỳ quặc vậy? Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm. - Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp. Mọi người đứng cả dậy. - Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn. Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta: - Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi. Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão. - Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ. - Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm, Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội. Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói: - Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp. - Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật. - Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương. - Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật! - Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất. - Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại. - Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc. - Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi2. Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc. - Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại. - Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây. - Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.   Mời các bạn đón đọc Vùng Đất Xannhicôp của tác giả Vlađimia Ôbrutrep.