Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Con Trai Phố Pál

Trong cuộc đời, ai cũng có cho mình một mảnh đất thiêng liêng. Và những cậu con trai phố Pál cũng thế, các cậu có một mảnh đất dịu hiền mang tên Khu đất trống. Nơi ấy trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất khô cằn, gồ ghề nằm trong thủ đô, bị thu hẹp bởi hai ngôi nhà cao lớn, nhưng với các cậu đó là “một vùng vô tận, là niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc”. Ở nơi đó có trò bắn bi, chơi bóng, đánh trận giả; có pháo đài, hào lũy; có chủ tịch, đại tướng, thượng úy và độc nhất một “chú lính trơn”. Trong cái thế giới mà trẻ thơ nấn ná trên ngưỡng cửa trở thành người lớn ấy, các cậu con trai phố Pál đã chiến đấu với tất cả trí thông minh, lòng dũng cảm, vị tha và ngay thẳng để bảo vệ Khu đất trống khỏi bị xâm chiếm; biến trò chơi con trẻ thành bài học để trưởng thành. Với nội dung trong sáng, dung dị nhưng giàu ý nghĩa và tính hiện thực, Những cậu con trai phố Pál, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Hungary Molnár Ferenc, đã được đón nhận nồng nhiệt tại quê nhà. Tác phẩm được chuyển thể nhiều lần lên sân khấu kịch, màn ảnh nhỏ và màn ảnh rộng; được đưa vào chương trình học phổ thông và trở thành tựa sách thiếu nhi kinh điển ở nhiều nước như Nhật Bản, Italy, Israel... Tại Việt Nam, Những cậu con trai phố Pál được xuất bản lần đầu năm 1984, qua bản dịch trong sáng và trìu mến của dịch giả Vũ Ngọc Cân – người mang nặng tình cảm với đất nước Hungary. Sau gần bốn thập kỷ, nay một lần nữa Đông A đưa tác phẩm này trở lại với những độc giả đang và đã từng là trẻ thơ, bằng bản dịch đã gắn liền với các thế hệ và nhiều minh họa đẹp, gần gũi với thiếu nhi. Thông tin tác giả:  Molnár Ferenc là một nhà báo, nhà văn, nhà viết kịch Hungary gốc Do Thái – Đức. Từ khi còn trẻ, ông đã viết cho nhiều tờ báo danh tiếng rồi tiếp tục dấn thân làm phóng viên chiến trường trong Thế chiến I. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu sắc kèm chút châm biếm, ông nhanh chóng chinh phục được độc giả, không những vậy, ông còn thể hiện sự đa tài ở nhiều lĩnh vực như kịch nghệ, văn chương. Vào cuối những năm 1930, chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của phát xít Đức, ông sang Pháp, Thụy Sỹ rồi định cư tại Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, mặc dù không chỉ một lần đối mặt với trầm cảm, ông vẫn miệt mài lao động nghệ thuật, gửi gắm sự thấu cảm sâu sắc nơi ngòi bút. Các tác phẩm của ông được yêu thích tại nhiều nước trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (A Pál utcai fiúk, 1907), vở kịch Chàng Liliom (Liliom, 1909) và truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (Széntolvajok, 1918). Năm 1952, ông từ giã cõi đời vì căn bệnh ung thư. Thông tin dịch giả:  PGS.TS Vũ Ngọc Cân sinh tại Hà Nam, bút danh Vũ Thanh Xuân. Năm 1973, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Eötvös Loránd (Hungary) ngành Ngữ văn Hung – Pháp, rồi trở thành giảng viên tiếng Hung, ngôn ngữ học, Việt ngữ học và lịch sử văn minh thế giới tại Đại học Ngoại ngữ (nay là Đại học Hà Nội). Từ đó, ông gắn bó với nghề giáo ở cả Việt Nam lẫn Hungary. Song song đó, ông còn là một dịch giả thành công trong việc chuyển ngữ nhiều tác phẩm tiếng Hung sang tiếng Việt và ngược lại. Các dịch phẩm tiêu biểu của ông như: Những cậu con trai phố Pál (1984, 2010), Cái chết của ông bác sỹ (1987), Dạ, thưa thầy (2010), Ba nhà thơ vĩ đại của Hungary (2010), 65 bài thơ tuyển đại thi hào Hungary Arany János (2017)… *** Sự trở lại của 'Những cậu con trai phố Pál' Không chỉ là cuốn sách dành cho trẻ em trai, tác phẩm còn là ký ức của những người đàn ông thực thụ. Là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng ở Hungary, cũng như toàn thế giới, Những cậu con trai phố Pál của Molnar Ferenc được xuất bản lần đầu năm 1907. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trở thành sách giáo khoa của Hungary, đồng thời được chuyển thể thành phim và kịch nhiều lần ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên năm 1984, do PGS.TS Vũ Ngọc Cân (Vũ Thanh Xuân) chuyển ngữ. Năm nay, nó được Đông A cùng NXB Dân Trí tái bản với bìa cứng, tranh minh họa màu sinh động, mang tính mỹ thuật cao. Nội dung hấp dẫn và phi thời đại Cuốn truyện kể về cuộc chiến kịch tích giữa hai nhóm nam sinh thủ đô Budapest, Hungary: Phe phố Pál và phe Áo đỏ tranh giành chỗ chơi bóng ở một nơi gọi là "Khu đất trống giữa lòng thủ đô". Khu đất trống trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất hoang ngổn ngang phế liệu. Nhưng trong mắt các cậu bé, đó là “một vùng vô tận, niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc” với đầy đủ thế giới các trò chơi bi bóng, trận giả; đại úy và lính trơn; pháo đài, bom cát và hào lũy như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và như chiến tranh thực sự, nhiều tổn thương và mất mát xảy ra để bảo vệ cho điều mình yêu thương và tin tưởng. Trò chơi con trẻ đã thành bài học để trưởng thành. Nhóm trẻ phố Pál được ẩn dụ với màu sắc quốc gia của Hungary (lá cờ riêng màu đỏ, trắng, xanh lá cây) do Boka làm thủ lĩnh, đã tổ chức một “trận chiến” quy mô trên khu đất trước những kẻ xâm lăng Áo đỏ (vì chúng thần tượng Garibaldi - anh hùng dân tộc Italy) đứng đầu là Áts Feri. Cuốn sách được viết vào năm 1907, cách đây hơn một thế kỷ, nhưng vẫn luôn có giá trị phi thời gian, mặc dù Nemecseck về nhà bằng chiếc xe ngựa chạy quanh Budapest thay vì xe bus, hay những lọ mực kiểu cũ luôn bị đổ trong túi Boka. Hai nhóm nam sinh khi tuyên bố tiến hành "chiến tranh" đã sử dụng tất cả thuật ngữ của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ 20. Cuốn sách cũng được xuất bản ngay trước khi Đảng Quốc xã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đức. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách có giá trị phi thời đại. Dàn nhân vật nam đặc sắc Những cậu con trai phố Pál sở hữu một dàn nhân vật tuyệt vời, những cá tính đa dạng và phức tạp một cách đáng ngạc nhiên đối với cuốn sách cho trẻ em. Được coi là băng đảng “phản diện”, Áts Feri và chiến hữu của cậu ta không bị “xấu xa hóa”, họ đủ đàng hoàng. Cũng như các chàng trai phố Pal của chúng ta còn lâu mới được coi là hoàn hảo. Boka - chủ tịch khu đất trống - dũng cảm, sáng suốt, trung thực, đúng đắn, biết cách đưa ra quyết định, đúng mẫu “con đực đầu đàn”. Các cậu trai khác nhìn thấy ở Boka một hình mẫu đàn ông để noi theo. Nemecsek bé nhỏ, cậu lính trơn duy nhất của khu đất, lại là một định nghĩa khác của người đàn ông đích thực, tuy vụng về yếu ớt, thường bị bạn bè coi thường nhưng lại là người can đảm, hy sinh bản thân vì đồng đội, vì những giá trị thiêng liêng mà cậu coi trọng. Phía bên kia chiến tuyến, thủ lĩnh phe Áo đỏ Áts Feri cũng có nét tương đồng với Boka, mạnh mẽ, táo bạo, lại rất hào hoa đẹp trai. Hoàn toàn không phải là “phản diện” kinh điển, Feri tôn trọng kẻ thù, đánh giá cao sự dũng cảm của Nemecsek. Và sau đó là Gereb - một cậu bé phố Pál đầy tham vọng, đố kỵ với Boka, trở thành kẻ phản bội khi về phe Áo đỏ. Nhưng rồi cậu đã nhận ra sai lầm, cư xử tuyệt vời trong trận chiến, giành lại được tình bạn với Boka. Các nhân vật đều có đầy đủ tính khí trẻ con, nhưng đều sở hữu một loạt giá trị: Cao thượng, dũng cảm, ngay thẳng, tự trọng. Tất nhiên, có những nhân vật tiêu cực, nhưng họ cũng vẫn có phẩm giá và danh dự. Cũng có thể đó chính là điều tác giả muốn nói rằng, ở trẻ em, chúng ta có thể tìm thấy những phẩm chất mà chính chúng ta đã đánh mất khi lớn lên. Nỗi buồn làm nên sự trưởng thành trong cuộc sống Nếu là người lớn, việc đọc cuốn sách này có thể gợi những liên tưởng sâu xa hơn. Với bối cảnh vào đầu những năm 1900, khi châu Âu bị giằng xé và chia cắt bởi nhiều cường quốc, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa việc bảo vệ sân chơi của trẻ em với việc bảo vệ tổ quốc của một dân tộc. Những ẩn dụ ấy thể hiện qua sự tổ chức quân đội quy củ của lũ trẻ, chủ nghĩa anh hùng và việc lên án hành động “phản quốc” của Gereb. Thông qua đó, người đọc mọi lứa tuổi sẽ có thể cảm nhận được một câu chuyện xúc động về tình chiến hữu và lòng trung thành, nỗi khát khao và trách nhiệm chiến đấu vì một mảnh đất nhỏ bé nhưng tự do - những giá trị rất cần đến tận ngày nay. Câu chuyện phố Pál cũng có thể được đọc như một sự tiếc thương cho chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu đầu thế kỷ 20 trước thềm Thế chiến thứ nhất, khi các chàng trai nhỏ đưa ra nhiều tuyên ngôn mang tính dân tộc, quyết liệt bảo vệ “quê hương” trước kẻ thù. Cuối cùng, “quê hương” của các chàng trai đã biến thành khu nhà cao tầng trong quá trình đô thị hóa, bất kể những hy sinh đã được thực hiện để cứu mảnh đất nhỏ bé. Một kết thúc nhiều đắng cay và đầy trăn trở nghẹn ngào. Cũng có một số ý kiến của các bậc cha mẹ cho rằng không thấy bóng dáng phụ huynh trong khi hai lũ trẻ đánh nhau kịch liệt, trong khi đáng lẽ chúng cần phải có sự trợ giúp của người lớn để tránh khi mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Boka đã rất tuyệt vọng, không chỉ vì những điều đã xảy ra với Nemecsek, mà còn vì ngay sau chiến thắng cậu phát hiện ra những điều mà những người trưởng thành đã làm ở khu đất trống thiêng liêng của lũ trẻ các cậu. Cậu hiểu rằng trận chiến của họ cuối cùng đã thành vô ích. Niềm an ủi duy nhất của Boka là biết rằng ít nhất Nemecsek sẽ không bao giờ phải biết tới điều đó. Ngoài đời, tác giả Molnár Ferenc từng là người ủng hộ Đế chế Áo - Hung với tư cách phóng viên chiến trường trong Thế chiến thứ nhất. Tuy nhiên, ông đã phải rời xa Budapest thân yêu, di cư đến Mỹ để thoát khỏi sự đàn áp người Do Thái Hungary trong Thế chiến thứ hai, rồi qua đời trong bệnh tật và trầm cảm. Tuy nhiên, ở Budapest, bức tượng tái hiện cảnh lũ trẻ phố Pál chơi đùa vẫn còn đó để tôn vinh một tác phẩm yêu thích của nhiều thế hệ, một niềm tự hào của nền văn học Hungary. *** Lời giới thiệu Molnár Ferenc sinh ngày 12 tháng 1 năm 1878 tại Budapest, trong một gia đình tư sản gốc Do Thái - Đức nhưng đã nhiều đời sống ở Hungary. Bố là bác sỹ Neumann Mór (1848 - 1907) làm việc tại một nhà máy lớn ở thủ đô. Thuở thiếu thời ông đã bộc lộ năng khiếu đặc biệt về văn học và báo chí. Cuối thời trung học ông đã tham gia viết báo và đổi họ cũ Neumann thành họ hoàn toàn như người Hung là Molnár. Năm 1896, sau khi tốt nghiệp trung học, do áp lực của gia đình ông theo học khoa luật của một trường đại học ở Genève, Thụy Sỹ. Được một năm thì ông bỏ về Tổ quốc học tiếp ở thủ đô Budapest. Tuy nhiên giữa chừng ông đi làm phóng viên cho tờ Nhật ký Budapest và nhiều tờ báo danh tiếng khác ở thủ đô. Nhà báo trẻ Molnár Ferenc nhanh chóng nổi tiếng với phong cách nhẹ nhàng, tài quan sát sắc sảo và giọng điệu khôi hài, châm biếm. Trong Thế chiến I (1914 - 1918) ông làm phóng viên mặt trận, tham gia viết bài từ chiến trường Galicia ở Tây Ban Nha. Những năm sau đó ông trở về nước và tiếp tục sáng tác. Năm 1922, ông lấy vợ lần thứ hai, nhưng cũng giống như cuộc hôn nhân lần thứ nhất vào năm 1906, họ mau chóng ly hôn. Những sáng tác của ông thời gian này tập trung vào thể loại kịch nhiều hơn. Năm 1937, ông đã cùng người vợ thứ ba chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của chủ nghĩa phát xít Đức, đầu tiên sang Pháp, rồi Thụy Sỹ, sau đó hai năm thì tìm cách sang New York (Mỹ) định cư và cũng qua đời tại đây vào năm 1952. Những tác phẩm văn xuôi đầu tiên mà Molnár Ferenc công bố là tập truyện ngắn Magdolna và những chuyện khác (1898) và Đêm của những cái hôn (1899), sau đó ông bắt đầu viết cả tiểu thuyết và kịch. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông cho in vào năm 1901 là Thành phố đói phơi bày những mâu thuẫn của thế giới tư sản bằng một giọng điệu trào phúng sâu cay. Năm sau, vở hài kịch Ngài đốc tờ nội dung đề cập đến mối quan hệ làm ăn phi pháp lố bịch giữa một luật sư với một băng đảng trộm cắp được đưa lên sân khấu biểu diễn, được hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó ông liên tục - kể cả thời gian sinh sống ở Mỹ - cho ra mắt các tác phẩm xuất sắc của mình. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động văn học, ông đã cho in 13 tập truyện ngắn, 10 tiểu thuyết, 23 vở kịch và hàng trăm bài báo. Với nhiều tác phẩm được dịch ra các thứ tiếng nước ngoài, nhiều vở kịch hiện nay vẫn được công diễn ở nhiều quốc gia, ông đã trở thành một trong số các nhà văn Hungary nổi tiếng nhất cả trong nước lẫn trên thế giới. Ở các lĩnh vực văn xuôi khác nhau ông đều để lại những tác phẩm kiệt xuất như vở kịch Chàng Liliom(1909), truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (1918) và đặc biệt là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (1907) - một tác phẩm nằm trong chương trình học phổ thông của Hungary, một số nước Đông Âu và cả ở Nhật Bản. Ban đầu Molnár viết tác phẩm này theo yêu cầu của tờ tạp chí Báo Học trò, do thầy giáo ông là Rupp Kornél (1865-1900) sáng lập từ năm 1894. Năm 1905, ông bắt đầu cho đăng từng kỳ ở tạp chí này. Hằng ngày ông ngồi ở một góc quán cà phê gần nhà viết các chương tiếp theo và đăng đều đặn cho đến hết vào năm 1906. Năm sau, tác phẩm được in thành sách, rồi đến đầu những năm 1910 thì được dịch sang tiếng Anh, Đức, và từ đó đến nay sang rất nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Còn ở trong nước cho đến nay tác phẩm đã được tái bản gần 50 lần. Những cậu con trai phố Pál phản ánh cuộc sống của thiếu niên Hungary những năm 90 của thế kỷ 19. Truyện kể về hai nhóm trẻ sống ở Budapest, học ở hai trường khác nhau: bọn con trai do Áts Feri cầm đầu thì chiếm giữ Vườn cỏ, còn những cậu con trai phố Pál do Boka làm chủ tướng thì đóng đô ở Khu đất trống. Bọn Áts Feri rắp tâm đánh chiếm Khu đất trống để làm sân đá bóng. Những cậu con trai phố Pál thì dũng cảm chiến đấu bảo vệ Khu đất trống không khác gì bảo vệ Tổ quốc của mình. Thông qua cuộc chiến đó, tác phẩm đã phản ánh toàn bộ thế giới trẻ thơ, nói chính xác hơn là thế giới của tuổi dậy thì như ước muốn tự do, sự anh dũng quả cảm, lòng trung thành, sẵn sàng hy sinh… Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp đó, tác giả cũng khéo léo đề cập đến những cái xấu xa của con người như là sự phản bội, sự ghen ghét đố kỵ, tính ăn cắp, thói quan liêu cứng nhắc… Nói cách khác, Những cậu con trai phố Pál là cuốn sách có giá trị giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc cho trẻ em, và đọng lại nhiều dư vị cho người lớn. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, chân thật cho tác phẩm chính là bối cảnh, nhân vật được rút tỉa từ chính ký ức và đời sống của tác giả. Thế giới trong truyện là có thực. Đó là vùng phụ cận với nhà số 83 đại lộ József nơi nhà văn ở. Ba địa điểm xuyên suốt câu chuyện là trường học Lónyay, Vườn cỏ và đặc biệt là Khu đất trống. Ngày nay, Vườn cỏ vẫn còn giữ lại một phần của Khu Nhà thương trên đường Üllői; còn tòa nhà 3 tầng, mà cái nền của nó là Khu đất trống, vẫn nằm ở góc phố Mária và phố Pál. Phố Rákos thì không còn, nhưng ngôi nhà của gia đình Nemecsek trên đó thì có thể ở gần Viện bảo tàng Mỹ thuật Công nghiệp bây giờ. Các nhân vật trong truyện cũng là những con người có thật: đó là những bạn học, những thầy giáo của Molnár ở trường Trung học Cải lương Lónyay. Có thể nói, Những cậu con trai phố Pál không chỉ là một trong những cuốn sách hay nhất của nền văn học thiếu nhi Hungary mà còn của cả thế giới. Đây là một tác phẩm khó quên nếu không muốn nói là không thể quên với những ai đã từng đọc một lần. Sau khi đọc xong dòng cuối, từ từ gấp cuốn sách lại, độc giả không thể không dành tiếp thời gian luyến tiếc, khâm phục và bùi ngùi nhớ đến các nhân vật trong truyện. Khương Đình, đầu xuân năm Canh Tý 2020 PGS. TS. VŨ NGỌC CÂN Mời các bạn đón đọc Những Cậu Con Trai Phố Pál của tác giả Molnár Ferenc & Vũ Ngọc Cân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Thời Đang Qua - Nhật Tiến
Ở ngoài đời, tôi chưa bao giờ gặp Nhật Tiến. Điều này, nếu đối vớí cá nhân tôi có thể được xem là một sự thiệt thòi thì trái lại, đối vớí tác phẩm có khi lại là một điều hay: tôi không có cách nào khác hơn là đến với anh qua tác phẩm. Tuy chưa được gặp anh song Nhật Tiến trong Văn Học Việt Nam thì không phải là một ai xa lạ. Sau khi bước vào văn đàn với truyện dài Những người áo trắng (1959) và nhất là Những vì sao lạc (1960) nói về những trẻ "bụi đời" có cả mười mấy, hai chục năm trước khi có từ ngữ sau này, anh đã, ở tuổi 25, đạt tới được một vinh dự không nhỏ là được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc cho hai năm 1961-1962 vì truyện Thềm Hoang do nhà xuất bản Đời Nay của Nhất Linh in ra năm 1961. Là người yêu văn học, từ đó không ai là không để ý đến những tác phẩm gần như năm nào Nhật Tiến cũng có mặt để đóng góp vào văn học miền Nam tự do. *** Những Chặng Đường Văn Học Của Nhật Tiến N gười ta để ý đến anh không phải vì anh viết nhằm vào cái sôi nổi, như Chu Tử với những Loạn, Ghen, Yêu của ít năm sau đó hay Hoàng Đông Phương (tức Nguyễn Thị Hoàng) của Vòng tay học trò hoặc Lệ Hằng của những năm 70. Người ta cũng lại không để ý đến anh vì anh đi tìm cái mới như Thanh Tâm Tuyền hay thử nghiệm nhiều như Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư trong thơ. Người ta tìm đọc Nhật Tiến vì anh rất "cổ điển", cổ điển không thua gì những bậc đàn anh (và cả đàn chị) như Nhất Linh và Nguyễn Thị Vinh, những người đầu tiên đã nhìn ra văn tài của anh và khuyến khích anh trên con đường sự nghiệp. Ở anh nổi bật lên những đức tính như một lòng thương xót bao la dành cho những kẻ xấu số trong xã hội, một con mắt thật tinh đời nhưng không ác ý, một trái tim ôn hòa nhưng không phải không biết phẫn nộ, một con ngườỉ thuần túy dành cho giáo dục (kể cả giáo dục có bề ngoài hình thức như ở trong học đường lẫn giáo dục tưởng như không có hình thức như báo chí, tiểu thuyết, truyền thanh, truyền hình... ). Người ta, do đó, tìm ở Nhật Tiến một cái gì chân thật, một lương tâm xã hội đôi khi có thể xem là hơi lý tưởng quá nhưng lúc nào cũng đầy một lòng trìu mến đối vớỉ tuổi thơ (như trong Chim hót trong lồng, Chuyện bé Phượng, hay Tay Ngọc), đối với những người dân lành bị kẹt vào trong một cuộc chiến thảm khốc mà họ không có đủ trí tuệ hay hiểu biết để tách bạch, phân tích các vấn đề (điển hình như những truyện dài Giấc ngủ chập chờn hay Quê nhà yêu dấu, viết vào trong những giờ phút khốc liệt ngay theo sau trận Mậu Thân). Ở trong một khung cảnh chiến tranh mà nhiều khi ta cảm thấy như bị bẫy, không trách có người cảm thầy mình điên lên được, không trách có người điên thực sự như trong truyện ngắn "Tặng phẩm của dòng sông", một trong những truyện ngắn hay nhất của anh và được lựa chọn vào trong tuyển tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương do nhà xuất bản Sống in ra ở Saigon năm 1973. Ở Nhật Tiến có nhiều con người xa lạ, tưởng không bao giờ có thể gặp nhau trong một người. Từ ngày trưởng thành, là một sinh viên di cư vào Nam, anh trong căn bản là một nhà giáo. Ra đời, anh đi dạy tư ở Mỹ Tho, nơi đây anh gặp Truơng Cam Vĩnh. Đời sống tỉnh lẻ, anh không biết làm gì hơn là ngồi viết văn – trước hết là cho mình, chưa dám nói là cho ai khác vội. Rồi một cơ may (qua sự giới thiệu của anh Trương Cam Vĩnh) anh đã đến với Nhất Linh, và từ đó anh trở thành một tác giả có sách xuất bản. Hỏi anh có làm gì về văn chương trong khung cảnh học đường không? "Thưa không, tôi dạy Toán, Lý, Hóa...." Cho đến tận những năm cuối cùng trước khi miền Nam sụp đổ, anh vẫn làm nghề ‘‘gõ đầu trẻ" và trong đám "trẻ" này đôi khi cũng có cả những ông bà trung niên được anh luyện thi mà nhiều người không hề bao giờ biết là anh viết văn. "Tôi không bao giờ nói về văn chương ở trong lớp cả", anh tuyên bố. Anh dạy từ khi mới vào đời, anh dạy từ trong thời gian dài làm báo, viết văn, anh dạy tư thêm trong lúc bị động viện, ở trong quân đội, anh dạy cả sau khi Cộng sản vào thành. Nói tóm lại, ở trong anh từ trước đến sau là một nhà giáo. Nhưng là vì anh dạy tư suốt đời nên khi Cộng sản vào, anh cũng không phải đi học tập gì nhiều. Anh chỉ phải theo có một đợt học tập ngắn ngày dành cho diện các văn nghệ sĩ (lần đó anh đi có cả Thái Thanh, Phạm Đình Chương, Lệ Hằng, Nguyên Thị Hoàng v...v... bị gọi đi cùng). Và cũng vì người ta, cả xã hội chung quanh anh nhìn anh là một "ông thầy" dậy trẻ nên không ai nỡ tâm khai anh đã từng là giảng viên trong quân đội, Cục Chính Huấn. (Có ai ở trong hoàn cảnh này mới rõ được lòng yêu mến, tình bao bọc của đồng bào là quý đến chừng nào !) Mãi đến năm 78 anh mới thôi dạy học vì trong một xã hội Cộng sản, dạy học dầu là Toán, Lý, Hóa....mà không được dạy theo ý mình, phải theo giáo án, phải theo chỉ thị, phải theo yêu cầu chính trị của Nhà nước và Đảng thì quả là hơn một cực hình. Anh chị Nhật Tiến quay ra mở quán cà phê. Ta hãy nghe Mai Thảo nói về anh trong giai đoạn này: "Một buổi chiều Saigon, ít ngày sau khi 30 tháng tư 1975, ngồi sau chiếc xe gắn máy của Duyên Anh, cũng tác giả Ngựa Chứng Trong Sân Trường dạo quanh một vòng trên những phố phường tan hoang của thành phố vừa đổi chủ, tôi bổng nhìn thấy Nguyễn Thụy Long trên một khúc vì hè ở khu đại học Duy Tân. Long ngồi sau một cái quán lộ thiên mọc lên như nấm ở Saigon lúc đó. Tác giả Loan Mắt Nhung đang nhậu, mặt mày đỏ sậm, kính trắng dầy cộm. Và cạnh đó, là một quán hàng khác, với Nhật Tiến, Nhật Tiến không nhậu, không nhậu bao giờ, đang lụi hụi với một chậu nước và một chồng bát đũa nhớp cạnh một gốc cây. Cái cảnh tượng đập vào mắt tôi lúc đó, về hai cái quán liền sát, cũng ở trước một vi tường thấp chạy dài, là cái cảnh tượng của một đối nghịch hoàn toàn. Mang chung sự thất thế của văn nghệ gác bút ra đường bán quán trước hoàn cảnh mới, cái quán của Nguyễn Thụy Long với những xị đế ngổn ngang trên mặt bàn và mấy người khách hàng trẻ tuổi cũng ngất ngưởng như Long, hiện rõ vẻ bụi đời anh chị. Cái quán của Nhật Tiến khác hẳn. Nó lành mạnh hơn và cũng gia đình hơn gấp bội, với những đĩa rau muống chẻ nhỏ đặt ngay ngắn, bên cạnh là một chảo mỡ sôi bắn khói bốc xanh um, chị Nhật Tiến má hồng củi lửa chiên những cái bánh tôm vàng ngậy và đứa cháu lớn, nơ cài mái tóc, váy xếp chững chạc đang phụ một tay với ông bố nhà văn. Nhìn Long một bên, Tiến một bên, cũng đã lăn cả ra với sương nắng thời thế với gió bụi hè đường, cũng đã trở thành hai ông chủ quán tài tử bất đắc dĩ mà quán bạn là quán bạn, quán tôi là quán tôi, bạn anh chị bụi đời, tôi gia đình nghiêm chỉnh, tôi đã nhìn thấy một lần nữa, và lần đó là lần cuối cùng, điều tôi yêu thích và tự hào nhất cho văn nghệ miền Nam 20 năm, là cái trạng thái đa diện và đa dạng không bao giờ đồng dáng và đồng tính. Đó là cái thế giới văn nghệ của mỗi người một trời mình, mỗi kẻ một biển mình. Đó là vùng đất đai văn nghệ của mỗi người một non sông, mỗi người một sông núi. Cái không đồng dáng, không đồng phục nơi mỗi người trước bàn viết cũng như trong đời sống ấy, lại là điều văn nghệ miền Bắc đổ khuôn và con số thù ghét nhất. Và bởi vì thù ghét nhất nên muốn triệt hủy nhất. Đó cũng chính là nguyên nhân của đại nạn đã tới với mọi ngành văn học nghệ thuật muôn nghìn hình vẻ của ta. Và đương nhiên là đại nạn ấy cũng đã đến với Nguyễn Thụy Long và Nhật Tiến. Nhớ hôm đó, tôi và Duyên Anh đã ngưng xe lại. Đã vào ngồi xuống mấy cái ghế đẩu thấp. Đã lên tiếng ca ngợi cái tinh thần quả cảm của gia đình Nhật Tiến, hàng ngày từ thật xa cổng xe lửa số sáu xuống, vui vẻ nhập được tức khắc vào nếp sinh hoạt mới ở quanh mình. Nhớ lời hôm đó, chúng tôi đã ăn ủng hộ Thềm Hoang Quán mỗi người một đĩa bánh tôm, rất ngon, và tôi đã hỏi đùa Nhật Tiến: - Rửa bát thạo ngay. Giỏi nhỉ? Và Nhật Tiến đã cười nụ cười bình thường, chừng mực, nụ cười hơi già trước tuổi một chút của một nhà giáo. Nhật Tiến bao giờ cũng trước hết xác nhận mình là một nhà giáo: - Giỏi quỷ gì. Việc làm thì phải làm. Để cho ai đây (Trích Văn số 6, tháng 12,1982) ***   H ồi nhỏ, khi còn cắp sách đi học ở lớp nhất trường Hàng Vôi, ngày nào tôi cũng có dịp đi qua nhiều khu phố tráng lệ ở Hà Nội. Tôi học lớp chiều và hay đi học sớm vì có thói quen la cà chỗ này, chỗ kia. Qua phố Hàng Trống, tôi hay đứng tại tòa báo Giang Sơn hay Liên Hiệp để đọc những tiểu thuyết in từng kỳ trên tờ báo ra trong ngày, được tòa soạn treo trước cửa ở khu cho người qua lại xem tự do. Qua phố Hàng Khay, tôi hay đứng lại ở khu chợ Hoa ven bờ hồ ngắm nhìn những bông hồng, bông cúc hay glaïeul phô những mầu sắc rực rỡ trên những nền đá xanh biếc. Nhưng điều mà tôi ghi nhớ sâu xa nhất vẫn là bức hình chân dung được trưng bầy tại một tiệm ảnh có tên là Dung Photo ở ngay trên Phố Bờ Hồ. Tôi không phải là loại người say mê nghệ thuật chụp ảnh. Tôi cũng không quan tâm đến những bức hình chụp phong cảnh hay tĩnh vật trưng bầy ở hai bên tủ kính lồng trong những khung cảnh đẹp đẻ mỹ thuật. Tôi chỉ chú ý, hay nói đúng hơn bị thu hút bởi mỗi một tấm chân dung chụp hình một thiếu nữ. Nàng là ai, tên là gì, tôi chẳng đủ số tuổi mơ mộng để quan tâm nhưng thực sự tôi đã bị lôi cuốn bởi đôi mắt đó, vầng trán đó, mái tóc đó và nụ cười đó. Người thiếu nữ trong hình còn rất trẻ, chỉ trạc khoảng mười lăm, hay mười sáu, cái số tuổi chưa làm cho đôi mắt trong veo kia vương vấn một nét buồn, cho nụ cười kia vẫn còn mang đầy vẻ hồn nhiên, vô tư và duyên dáng như những búp hồng mới nở ? Hôm đầu tiên bức ảnh chân dung được bầy ra trong tủ kính, tôi đã chiêm ngưỡng một cách sững sờ?. Rồi kể từ đó, không ngày nào đi qua mà tôi lại không đứng lại, nhìn, ngắm, ghi gói từng chân tóc, từng kẽ mày, từng những nốt đen lốm đốm trên giấy ảnh ở vành môi của nàng, ở khóe mắt của nàng, ở hàm răng trắng nuốt có một cái răng khểnh rất xinh, rất nghịch ngợm và đầy vẻ hồn nhiên, vô tư của nàng. Thời gian si mê bức chân dung ấy kéo dài có đến trên bốn năm. Bốn năm trời trôi qua, bức ảnh ấy vẫn còn tồn tại ở đó, trong khung kính sáng lòa, ở vị trí chính giữa, thuận tiện cho khách qua lại bên đường ghé lại nhìn ngắm và hầu như chủ nhân của tiệm Dung Photo cũng đắc ý với tác phẩm của mình nên không chịu thay đổi đi mặc dầu những hình ảnh phong cảnh khác cứ vài tháng lại được thay đổi một lần. ... Mời các bạn đón đọc Một Thời Đang Qua của tác giả Nhật Tiến.
Me Tư Hồng - Nguyễn Ngọc Tiến
Hơn trăm năm rồi, người ta vẫn muốn đặt câu hỏi: Cô Tư Hồng là người có công hay có tội? Dựa trên các trang tư liệu, giai thoại dân gian về cuộc đời của người đàn bà có tính cách mạnh mẽ, quyết liệt nhưng cũng nữ tính, báo chí trước đây đã khai thác các khía cạnh khác nhau với những góc nhìn khác nhau, đôi khi đối nghịch. Cô Tư Hồng là người nổi danh khắp Bắc Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX vì trúng thầu phá tường thành Hà Nội năm 1894 – một sự kiện đụng chạm đến di sản “cung điện nghìn năm” của nhiều triều đại lẫn tổn thương tinh thần sĩ phu Bắc Hà trong hoàn cảnh thuộc địa. Nhưng đời cô Tư Hồng còn nhiều câu chuyện đình đám khác: mở công ty buôn bán đầu tiên của người Việt, làm từ thiện, lấy chồng Tàu, chồng Tây. Xinh đẹp, khêu gợi, thông minh đến độ tinh quái và làm đàn ông say mê, cuộc đời cô Tư Hồng vẫn còn đầy bí ẩn như một huyền thoại đất Hà thành. 120 năm sau, hiện ở Hà Nội vẫn tồn tại những công trình liên quan đến cô Tư Hồng quanh hồ Hoàn Kiếm hay khu phố Tây, chẳng hạn như hai chiếc ghế đá đầu tiên nơi công cộng của Hà thành ở 16 Lê Thái Tổ ngày nay hay khu nhà ở phố Quán Sứ, trường Việt Đức… Tiểu thuyết Me Tư Hồng của Nguyễn Ngọc Tiến dựa theo cuộc đời của cô Tư Hồng, có sự hư cấu mang “hình dáng tiểu thuyết chân dung”. Tuy nhiên cùng với nhân vật cô Tư Hồng, rất nhiều nhân vật khác trong tiểu thuyết là những người có thật. Bên cạnh đó hoàn cảnh lịch sử trong tiểu thuyết, địa danh, thời gian xảy ra sự kiện… cũng đã được ghi trong chính sử và dã sử, vì vậy có thể gọi Me Tư Hồng là tiểu thuyết tư liệu. Đây là một cố gắng nhìn lại con người và xã hội cách chúng ta đã hơn một thế kỷ. Qua tiểu thuyết Me Tư Hồng, người đọc nhận diện được một xã hội Việt Nam vào thời điểm đã suy vong các giá trị cũ, và cả nỗi bi kịch của con người trong sự va chạm giữa đạo đức truyền thống và văn minh vật chất tân thời, một bi kịch vẫn đậm tính thời sự. *** Sân ga Hàng Cỏ đông đúc. Khách xuống chuyến sớm đứng ngáp vặt chờ người thân đến đón. Khách lần đầu ra Hà Nội lơ ngơ chưa biết về đâu. Đám xe kéo xúm lại mời chào. Đầu phố Gambetta, một gánh xẩm chào đón họ bằng tiếng nhị eo éo và lời hát vui tai. Cái lạnh làm người khỏe phải xuýt xoa mà ông lão vẫn hát. Bắc Kỳ vui nhất Hà thành Phố phường sầm uất văn minh rợp trời Thanh tao, thanh lịch đủ mùi Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy Đâu đâu khắp hết đông tây Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn Cũ thời băm sáu phố phường Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm... Gió thổi ào ào kèm theo vài hạt mưa. Mọi người vội chạy vào nấp dưới mái hiên, chỉ còn trơ hai người. Lan như kẻ mất hồn, mặc cho gió thổi tung cái khăn lụa đỏ, cô đứng im như không có mưa. Laglan quay mặt về phía tòa nhà, điếu thuốc lá trên môi cháy đỏ. Tòa xử đã cho hai người ly hôn và hôm nay Laglan đi tàu xuống Hải Phòng về Pháp. Tối qua, Laglan khóc lóc trên giấy nói xin Lan bỏ qua mọi chuyện. Rằng ông không biết sẽ thế nào nếu sống thiếu cô nhưng Lan cương quyết không chịu. Cô chỉ đồng ý sẽ ra ga tiễn ông. Có lẽ chẳng gì nặng nề hơn chia ly, bao điều cần nói, cần thanh minh, giải thích hay xin lỗi đã nói rồi, chia ly là bậc cuối cùng trong nấc thang tình cảm. Laglan quay lại nhìn Lan rồi rút túi đưa cho cô mảnh giấy. - Đây là bức thư Hồng gửi cho tôi lúc hai ta cưới nhau chưa lâu. Lan đã đọc thư này. Sao từ ngày đó ông ta không bao giờ nhắc đến, hôm nay đưa lại chắc có ý “tôi yêu cô, thế mà cô lại bỏ tôi”. Lan lắc đầu: - Ông ta gửi anh thì nó là của anh. Laglan thả xuống sân ga. Tiếng loa thông báo mời khách lên tàu đã giải thoát cho cả hai. Móc lá thư trong túi, giọng Laglan trầm trầm. ... Mời các bạn đón đọc Me Tư Hồng của tác giả Nguyễn Ngọc Tiến.
Giờ Thứ 25 - Constantin Virgil Gheorghiu
Đối với Xã hội kỹ thuật hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa. Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến hóa kỹ thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm. Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Koruga, trong truyện: “Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, - như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử”. Lời dịch giả Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie. Học triết lý và thần học tại Đại học đường Bucarest và Heidelberg (Đức). Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sue la neige được giải thưởng Hoàng gia về thi ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie. Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát Thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi phẩm này là ông suýt bị bọn “cơ quan sắt” thủ tiêu. Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển “Bờ sông Dniestr bừng lửa”, xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, “đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn”. Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại Bộ Ngoại giao Roumanie ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức quốc xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức). Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển “Giờ thứ hai mươi lăm”. Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris (1949). Đây là một trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: “Tôi tưởng không còn tìm ra một tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phác họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm”. Tác giả quyển sách bán chạy nhất, - bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển, - lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh vực phát-xít. Trong một bài tự thuật, Virgil viết: “... Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ giản dị để quần chúng bóp chết ta... Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên... Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc...” Thi sĩ đã đi tu. Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu Ước đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Lỗ-ma-ni ở Ba Lê. Ông qua đời ngày 22-6-1992 tại Ba Lê. *** Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà! Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc. Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis. Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!” Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó. Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu. Nora đáp: - Tôi xin nghe ông. - Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không? Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời: - Tôi không ưng làm vợ ông! - Vậy bà có những dự tính nào khác sao? - Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng. Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu. Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Thứ 25 của tác giả Constantin Virgil Gheorghiu.
Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.