Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dạt Vòm - Phan Hồn Nhiên
Truyện kể về hành trình đi tìm "cuộc sống mới" của một chàng trai, sau khi tự từ bỏ chính mái ấm của mình. Những suy nghĩ, những âu lo.... của một thanh niên trước cuộc sống tự lập. Vẫn cách viết sắc sảo và lôi cuốn của tác giả, Dạt vòm buộc bạn đọc đến trang cuối cùng. Một nội dung quen thuộc với tuổi mới lớn: tôi đã lớn lên thế nào. Quá trình va đụng giữa cá thể tôi với xã hội, với những người xung quanh; giữa những giá trị nguyên sơ sách vở với thực tế phũ phàng; những khám phá mới về bản thân… tất cả được thể hiện sinh động dưới ngòi bút tinh tế của tác giả. Có thể tóm tắt cuốn truyện bằng những dòng sau: Một chuyến đi nổi loạn của tuổi trẻ… Những khám phá lạ lẫm về cuộc sống… Những bí mật phức tạp giấu kín… Những mất mát khó hồi phục… Và một lần tìm thấy… Như những truyện khác, truyện vừa này rất thú vị.  *** Cái chết của Châu đã bứng đi khỏi tôi một điều gì đó. Khoang bụng tôi trống rỗng. Vòng tay tôi trống rỗng. Và đầu óc tôi cũng trống rỗng. Tôi sống với khoảng không mênh mông, hoang mang hơn tất cả những gì tôi đã cố hình dung trước đấy. Tôi không khóc, cũng cũng buồn thảm kiệt quệ. Chỉ đơn giản là tôi vắng vẻ đến cùng cực. Bà chủ nhà đã trở về sau chuyến du lịch châu Âu. Tôi giao lại chùm chìa khoá cho bà cụ, rồi đeo ba-lô lên đường. Tôi đi về miền tây, ngồi trên ghe đi qua các kênh rạch. Sau đó tôi vòng ra miền trung, đi dọc theo quốc lộ. Tôi sống vạ vật. Một ngày ăn hai lần. Chỉ nhớ đổ xăng đầy bình. Rồi lang thang theo đường viền chân núi. Thỉnh thoảng ghé vào một nhà trọ rẻ tiền, trú mưa. Chẳng có địa chỉ nào cụ thể. Điện thoại tôi khoá lại. Có một đêm, tôi đắp áo gió, ôm mũ bảo hiểm trước bụng, ngủ trên băng ghế đá, dưới những cây phi lao gần sát mí biển Nha Trang. Khi tỉnh dậy, có một người trung niên ngồi gần phía chân tôi, hút thuốc. Ông ta đội một cái mũ nhung mềm, xụp xuống trán. Tôi ngỡ kẻ gian định lấy trộm xe. Nhưng người trung niên ấy bảo tôi cứ việc ngủ. Ông ta không phải là kẻ nguy hiểm. Tôi ngồi dậy, bên cạnh một kẻ hoàn toàn xa lạ, chẳng nói gì, nhìn biển. Mặt trời mọc lên phía tay trái tôi, ửng đỏ. Còn bên tay phải, màn nước vẫn bị bóng tối âm u ngậm trong vòm miệng. Phải chăng mọi thứ trên đời này đều bị phân chia làm đôi. Đêm và ngày. Ánh sáng và bóng tối. Sức khoẻ và ốm đau. Một người vẫn sống, đi lại, trò chuyện và hít thở. Một người vĩnh viễn lặng im và dừng lại. Tôi đọc ở đâu đó nói rằng, cái chết chẳng có gì đáng sợ. Nó không phải là mặt trái của sự sống, mà chỉ là vùng tối cần thiết, một phần phải có và thuộc về cuộc sống mà thôi. Biết vậy, nhưng tôi vẫn không sao thoát được ý nghĩ cả tôi và cô ấy giờ đây đều chịu sự đơn độc, mà không sao chạy đến nâng giúp cho nhau được nữa... Người đàn ông mời tôi một cốc cà phê mà ông mang theo trong cái phích màu đỏ. Ông ta biết tôi ở thành phố, khi nhìn bảng số xe. Ông hỏi tôi có chuyện gì đau lòng hay không mà lang thang ra đến tận đây. Tôi gật. Ông ấy ta bỗng bảo vợ ông ta mất năm ngoái. Vì thế mà buổi sáng, ông thích đi ra đây nhớ vợ của mình, và ôn lại những ngày đã qua, từ khi còn là một chàng trai trẻ, nhẫn tâm, mải chơi và vô trách nhiệm. "Thật khó tin một kẻ trải đời như tôi uỷ mị thế này. Nhưng tôi cho phép mình không cứng rắn trong một thời gian. Kiên cường quá, đôi khi cũng không để làm gì!" - Người đàn ông lầm bầm. Tôi uống trong nắp phích từng ngụm nhỏ cà phê đắng, tỉnh táo. Tôi chẳng buồn chia sẻ. Chẳng ai hiểu được tôi đâu. Người đàn ông cũng không gạn hỏi gì. Ông ta lại hỏi tôi có đói bụng không và cho tôi một miếng bánh mì cất trong túi áo. Thật vô cớ, bỗng dưng nước mắt ứa đầy mặt tôi. Tôi úp mặt vào lòng tay, khóc nức nở. Nước mắt nóng chảy qua kẽ ngón, ướt nhoè lớp da tay bám đầy cát, khô rám và cáu ghét. Người đàn ông đứng dậy, mặc tôi khóc một mình cho thoả. Trước khi đi, ông ta cho tôi cái mũ nhung. "Từ đây về thành phố còn xa. Lúc nào không đội mũ bảo hiểm thì cậu đội cái này. Dù sao cũng cần phải giữ gìn đầu óc..." Tôi về thành phố vào lúc 6 giờ sáng. Tôi ghé vào một cây xăng ở ngoại ô, rửa mặt và đánh răng. Trong gương, một người xa lạ, râu lởm chởm, mặt mũi cháy nâu nhìn thẳng vào mắt tôi. Tấm lịch sau lưng tôi cũng in hình vào gương. Đó là ngày bắt đầu học kỳ mới. Mình trở lại trường đại học luôn sáng nay, tôi tự nhủ. Tôi khởi động lại mobile và nổ máy xe. Bỗng, mobile trong túi áo tôi vang lên tiếng nhạc. Linh gọi cho tôi. Cô ấy trách móc tôi luôn miệng, vì đêm qua tôi đã khoá điện thoại. Tôi im sững hồi lâu, rồi mới hiểu ra. Ừ, thì chỉ là tình cờ. Hẳn hôm qua cô ấy mới gọi lại cho tôi sau nhiều tuần giận dữ. Một chi tiết nhỏ xíu, mà khiến tôi bàng hoàng. Trong khi người này đang vỡ ra, đau đớn lớn lên, thì với người kia, cuộc sống vẫn bình lặng tuôn chảy theo nhịp điệu cũ. Hệt như chẳng có gì ghê gớm đã xảy ra giữa những lần nói chuyện thế này. Tôi đồng ý gặp lại cô bạn, nói chuyện tử tế về việc du học, cho cô an lòng. Rồi tôi tắt máy. Điện thoại lại rung lên. Con bé Hoan em tôi. Nó thầm thì hối hả: "Anh này, em nhớ anh điên lên. Anh này, em khỏi hẳn ốm rồi đấy. Anh có muốn nghe tiếng kèn trumpet em thổi không?". Tôi thử mỉm cười. Biết nói gì với một góc tâm hồn bé nhỏ trong thời điểm này? Tôi mãi đứng im ngay giữa con đường rộng. Âm thanh chói loà vang lên trong tai tôi, toả ra ánh sáng đỏ rực, chói chang. Mời các bạn đón đọc Dạt Vòm của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Chiếc Vòng Đồng Đen - Phan Hồn Nhiên
Cách đây 10 năm, tôi nhận được một đề nghị khá lạ: Hãy thử viết một tác phẩm dài hơi, hoàn toàn độc lập, hấp dẫn, dành cho tween hoặc teen! Một thử thách thực thụ, vào thời điểm ấy. Tôi chưa từng kinh nghiệm làm việc trên một tác phẩm dài. Quỹ thời gian để viết gần như zero. Sẽ viết gì, viết như thế nào. Và câu hỏi then chốt làm tôi căng thẳng nhất: mình có làm được không? Ở một khía cạnh nào đó, khi các nhân vật bé nhỏ của Chiếc vòng đồng đen khởi sự chuyến phiêu lưu trong thế giới fantasy, cũng là lúc tôi bắt đầu bước trên con đường mới, với các yêu cầu đặt ra về xây dựng cốt truyện, miêu tả tâm lý… Lần đầu tiên, nên không ít bước đi loạng choạng, cảm giác lạc hướng, nỗi lo âu bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng, thật may mắn, một người cạnh bên hỗ trợ tôi rất nhiều – họa sĩ Phan Vũ Linh. Không những giúp sức bồi đắp ý tưởng, tháo gỡ vướng mắc, bạn cũng là người minh họa cho Chiếc vòng đồng đen ở lần xuất bản đầu tiên. Đúng 10 năm sau, bạn trở lại minh họa và vẽ bìa cho bản sách này, nhưng ở trình độ mới, vượt bậc. Giờ đây, vững tin hơn khi thực hiện thể loại fantasy, tôi vẫn nhớ lời đề nghị làm việc đầy tin cậy năm ấy, nhớ những trợ giúp chân thành của bạn, và cũng không quên một trải nghiệm đáng giá về sau: một khi can đảm đi bước đầu tiên, ta có thể đi tiếp, ngày càng xa, khám phá vô số bất ngờ trên con đường mới. *** Bắt tay vào kể một câu chuyện không bao giờ là dễ dàng với tôi. Càng khó hơn khi tôi dự định sẽ kể một câu chuyện dài, hồi hộp và buồn cười cho các bạn nghe. Khi viết những dòng đầu tiên cho Chiếc vòng đồng đen, tôi thật sự bị áp lực. Chưa bao giờ tôi viết một truyện dài cả. Nhưng có lẽ, kinh nghiệm của rất nhiều truyện ngắn đã giúp tôi có chút can đảm vượt qua những rào cản của thói quen, của sự bận rộn và khơi dậy một ước ao được dấn thân vào một cuộc thử thách mới. Tôi quyết định bỏ qua các động tác cần thiết như xây dựng cốt truyện, lập một đường dây hay những gì tương tự. Tôi nghĩ rằng sẽ thoải mái hơn khi cứ để cho câu chuyện dẫn dắt mình đi, tới những vùng đất bất ngờ của trí tưởng tượng. Cũng như nhân vật trong câu chuyện Chiếc vòng đồng đen, tôi không phải du hành một mình. Bạn của tôi - Phan Vũ Linh, cũng là họa sĩ minh họa tập truyện này - đã cùng tôi chạy dọc theo những diễn biến cuộc phiêu lưu của Nhô và An Chi. Tôi đóng vai người tường thuật trong từng chương sách, kể chuyện cho Linh nghe. Bạn tôi là người có đôi tai thông minh. Nếu đoạn nào tôi cảm thấy không thích, Linh cũng bảo hãy viết lại. Đôi khi tôi sa vào tình cảnh tắc tịt vì đi lạc giữa hàng đống quan hệ rắc rối, các phép thần thông biến hóa... và Linh đã đưa ra những gợi ý mở đường tuyệt vời. Nếu bạn đọc thích thú với tính cách vừa tương đồng, vừa trái ngược nhau của Nhô và An Chi, đó là vì tôi với Linh đã tranh cãi nhau loạn xạ để có những nhân vật vừa sát với cuộc sống thật, vừa phù hợp với một thế giới kỳ ảo. Thực sự, chưa bao giờ tôi ngồi viết trước máy mà lại được bơi thật lâu trong cảm giác mơ mộng, được tự do bay bổng hoàn toàn như khi viết Chiếc vòng đồng đen. Tôi yêu thích các nhân vật của mình vô cùng. Dù biết là rất khó nhưng tôi nghĩ rằng, sẽ thật vui sướng biết bao nếu mỗi bạn nhỏ của tôi đều tìm thấy chút nào hình ảnh bản thân mình, những suy nghĩ, những vui buồn của mình trong các nhân vật chính. Trong hoàn cảnh hiện nay, các bạn nhỏ thường phải học rất nhiều, ít có điều kiện để vui chơi thỏa thích, để thử nghiệm óc sáng tạo, phát huy trí tưởng tượng và khám phá các khả năng tiềm ẩn trong bản thân một cách vui nhộn. Vậy thì Chiếc vòng đồng đen là những giây phút thoải mái các bạn đi chơi với tôi, tưởng tượng và hồi hộp cùng tôi nhé! Câu chuyện tôi kể cho các bạn nghe chưa có một kết thúc hoàn hảo bởi vì thật sự, vẫn còn rất nhiều bí mật về cuộc phiêu lưu của Nhô, An Chi và con Tô tô mà tôi muốn kể tiếp. Để tạm dừng, tôi muốn gửi đến các bạn của tôi một điều bình dị nhưng có lẽ chẳng bao giờ cũ: Khi có bạn bên mình, tất cả những khó khăn nguy hiểm chỉ có thể đe dọa, nhưng chúng chẳng bao giờ khuất phục được chúng ta. PHAN HỒN NHIÊN Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Đồng Đen của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Cánh Trái - Phan Hồn Nhiên
Cánh trái là tập truyện ngắn của nhà văn Phan Hồn Nhiên, hội ngộ gần 20 truyện ngắn hay của chị như: Cánh trái, Africa, Vụ mất tích, Giờ xanh, Ván cờ, Sapa, Yên tĩnh tuyệt đối, Hồ Cá, Người chơi gương, Bay về phương Bắc, Thành phố trên cốc, Người đi săn, Cột nước đỏ... Là một cây bút nổi tiếng của báo Hoa Học Trò xưa và nay, Phan Hồn Nhiên đã để lại những ấn tượng khó quên cho độc giả qua những trang viết, truyện ngắn nhẹ nhàng mà sâu sắc, mang đậm dấu ấn của một Phan Hồn Nhiên luôn gần gũi với mọi người... *** Cả tập truyện ngắn Cánh trái gồm 18 "mẩu" được tác giả Phan Hồn Nhiên khéo léo xếp gọn vào 3 gian màu Xanh – Trắng – Đỏ, những gam màu được gọi tên cùng những nhân vật, xuất hiện rồi biến mất trong những câu chuyện kể. Mỗi gian màu là một hình khối sắc nét và có cạnh nhọn hoắt, nó chạm vào đến tận cùng những xúc cảm sâu kín nhất... *** 1. Sảnh đợi vắng lặng. Các mặt ghế nhẵn thín, đỏ chói, liên kết với nhau bằng thanh inox trắng lạnh. Hưng thả người xuống chiếc ghế đầu tiên. Cảm giác cứng đờ ghê tởm truyền thẳng vào da thịt khiến anh nhận ra mặt ghế cũng đúc từ kim loại chứ không phải nhựa hay gỗ. Dù rất mỏi, anh tránh dựa vào lưng ghế lạnh toát. Hưng nhìn chăm chú mặt đồng hồ màu trắng với những chữ số La Mã to khác thường treo trên khoảng tường phía sau quầy tiếp bệnh nhân. Vài phút nữa, 12 giờ khuya. Con trai anh đã được đưa vào phòng cấp cứu đặc biệt. Việc của anh lúc này chỉ là chờ đợi. Có tiếng chân bước hối hả. Một thứ tiếng ồn ngẫu nhiên nhưng gây náo loạn. Sau khúc quanh cuối dãy hành lang, một người lao vụt ra. Anh ta cao và gầy một cách đáng sợ, khoảng ngoài hai bảy. Bàn tay bấu chặt phía dưới cổ, như thể anh ta đang gắng sức kiềm chế hỗn hợp âm thanh sắp buột ra khỏi cuống họng. Bước chậm lại, anh ta nhìn quanh rồi ngồi vật xuống đầu kia dãy ghế, run rẩy dữ dội, đến mức sự rung động thấm vào kim loại lan truyền sang Hưng. Anh ta không ngớt lầm bầm điều gì đó, cái yết hầu nhọn hoắt chuyển động cuồng loạn như sắp xé rách lớp da cổ tái nhợt. Chừng mươi phút sau, ngớt run rẩy, anh ta gục mặt vào hai bàn tay. Một cách kín đáo, Hưng quan sát người lạ. Sự kinh hoàng sầu thảm tựa lớp màng trắng đục khiến mọi đường nét đều nhòe nhoẹt, như nhìn trên màn hình TV bị rối nhiễu. Ngoài tường kính, vẳng lên tiếng còi hụ cùng ánh đèn chớp của một xe cấp cứu đang băng qua khoảng sân bệnh viện. Vài y tá trực túa ra sảnh, chạy không tiếng động theo lối thang bộ. Hưng vẫn ngồi im. Nhưng người lạ đã đứng bật dậy, lách qua cửa xoay rồi biến mất. Bác sĩ đồng ý cho anh đưa con về nhà ngay trong đêm. Đứa bé mười một tháng tuổi đã được tiêm thuốc. Nhịp thở trở lại bình thường. Lúc này nó đang ngủ im bên trong chiếc nôi lớn có quai xách. Trao cho anh túi bìa giấy đựng phim, đơn thuốc cùng một danh thiếp, ông ta giải thích đều đều với Hưng về Ehlers-Danlos type bốn - một bệnh hiếm khởi nguồn từ chứng rối loạn gen. Ngưng một chút, ông ta miêu tả biểu hiện một vài biến chứng nguy hiểm. "Tôi có biết về chúng - anh cắt lời bác sĩ - Một căn bệnh dính líu đến gen di truyền. Ông sẽ nói thế, phải không?". Ông ta im lặng nhìn anh bằng đôi mắt hẹp, vằn đỏ vì thức khuya. "Anh có thể đưa thằng bé đến phòng khám riêng của tôi. Bất kỳ lúc nào. Địa chỉ và điện thoại có trên danh thiếp". Ông bác sĩ quay lưng bỏ đi, chẳng buồn nghe lời cảm ơn. Một lần nữa Hưng cúi nhìn đứa con trong nôi. Sau đó anh bước ra khỏi khu vực cấp cứu, bấm thang máy xuống tầng hầm để xe. Khi anh lái xe ra đường thì đã quá nửa đêm từ lâu. 2. Đối diện cổng bệnh viện, hộp đèn trạm xe buýt phả quầng sáng vàng yếu ớt. Khoảng tối quanh đó thẫm lại, dày đặc hơn. Một người đứng im, bóng đổ dài trên mặt đường nhựa. Chỉ có đồ mất trí mới chờ chuyến xe buýt không bao giờ hiện ra trong đêm, Hưng tự nhủ. Đèn pha xe hơi chiếu thẳng. Anh chợt nhận ra gã trai trẻ ban nãy trong sảnh. Anh cho xe chậm lại, trờ sát lề. Bấm nút hạ kính, Hưng lên tiếng lạnh lẽo: "Có muốn quá giang không?". Mất mấy giây, người đứng một mình mới hiểu ra. Anh ta hấp tấp chui vào xe từ cửa bên kia, khựng lại khi thấy chiếc nôi. Hưng cho biết băng sau bỏ không. Tuy nhiên người lạ rụt rè đề nghị được ngồi ghế trước, ôm đứa bé, còn cái nôi có thể xếp ra đằng sau. Anh ta thu xếp mọi thứ nhanh gọn. Khi anh ta tìm được tư thế thoải mái, tựa hẳn vào lưng ghế, đứa bé vẫn nhắm mắt ngủ yên trên ngực anh ta. - Anh cho xe đi thẳng năm cây số nữa. Ngã tư chạm đường cao tốc, tôi sẽ xuống. - Được! - Hưng gật đầu - Cậu chợp mắt chút đi. Đến nơi, tôi sẽ gọi. - Phiền anh thức tôi vậy! - Nụ cười gắng gượng khiến mặt người lạ có các hốc tối khó coi - Gọi tôi là Đông. Đồng hồ báo xăng vẫn còn đầy. Đường nhựa trơn mượt gây cảm giác cái xe cũ đang trôi xuống dốc. Những vệt đèn pha ngược chiều hung hãn cắt xuyên bóng tối như mắt lũ thú rừng. Tiếng rì rầm của động cơ chỉ lan truyền đến khuỷu tay Hưng. Phần cơ thể còn lại nhúng ngập trong tình trạng không cảm giác. Suốt nửa năm vừa qua, anh sống sót nhờ tìm thấy trạng thái yên tĩnh này. Anh không hiểu nổi nguyên nhân tai họa. Anh không nghĩ hay làm được gì hòng ngăn tai họa diễn ra. Sau đó thì tất cả trở thành chuyện đã rồi. Chỉ có đứa con trai nhỏ của anh như tàn tích sót lại, nằm bên bờ lỗ thủng rỗng hoác của cơn ác mộng. Hưng đưa mắt nhìn con trai. Khuôn mặt nhỏ ngoẹo về một bên, bàn tay bé xíu đặt trên vai người lạ lúc ẩn lúc hiện trong bóng tối. Một hình ảnh quen thuộc. Quen thuộc đến mức ghê khiếp. Hệt như anh lại nhìn thấy An, vào cái hôm anh đón cô và con trai mới sinh từ bệnh viện về nhà. Họ mới ngoài ba mươi. Mọi thứ đang vận hành ổn thỏa. Ngay suốt quãng thời gian mang thai mệt mỏi, An vẫn không mất đi vẻ xinh đẹp và sáng suốt luôn khiến anh ngạc nhiên. Cuộc sống gia đình chẳng có gì phàn nàn. Trước đó không lâu, bằng tiền dành dụm, họ vừa mua chiếc xe mà giờ đây anh đang điều khiển. Ngôi nhà thứ hai của họ. Biểu tượng hạnh phúc của họ. Anh nhớ hôm ấy, buổi sáng, trời mưa lây rây. Xe chạy tốc độ trung bình trên đại lộ thưa thớt. Máy lạnh trong xe điều chỉnh ở khoảng 26 độ C, thích hợp với đứa trẻ vừa chào đời ba ngày. Họ không nói gì. Sự tĩnh lặng chia sẻ. Nhìn nghiêng, vầng trán An trắng xanh, thẳng và mịn. Dựa hẳn vào lưng ghế, tay ôm đứa trẻ, cô bỗng cười khe khẽ, rồi nhoài người lấy đĩa chọn lọc The Beatles đặt vào đầu đọc. When I'm sixty four. You'll be older too. And if you say the word I could stay with you... Giọng hát trầm mượt vang lên thong thả, đượm vẻ chế giễu dịu ngọt. Đúng khi ấy, anh chợt nhận ra không khí trong xe phảng phất một mùi gì đó gợi sự bất an. Vợ anh áp môi lên trán con trai, bình thản: "Mùi máu. Từ người em!". Anh gật đầu. Chưa bao giờ anh thấm thía nỗi buồn bã xót thương như giây phút đó... Nhiệt độ trong xe cũng khoảng 26 độ C. Con trai anh được sưởi ấm trên ngực người lạ, ngủ ngon lành. Đường nét gương mặt nhìn nghiêng của gã quá giang khá đẹp. Hưng rùng mình nghĩ vợ anh có vài nét tương đồng với kẻ xa lạ này. Bất thình lình, Đông mở choàng mắt. Đôi mắt ráo hoảnh cho biết anh ta hoàn toàn không ngủ. Những ngón tay dài mảnh đeo mấy chiếc nhẫn cầu kỳ rẻ tiền gõ nhè nhẹ trên gò má. Lúc này, anh ta đượm vẻ tự tin và làm chủ tình thế, khác hẳn hình ảnh hoảng loạn tại bệnh viện. - Hồi nãy, cậu ở khu cấp cứu có chuyện gì? - Hưng phá vỡ sự im lặng. - Người quen của tôi cần đến bệnh viện. Tôi đưa ông ta đi! - Đông ngập ngừng. - Chỉ vậy thôi sao? - Hưng ngờ vực. - Người đó bị chấn thương sọ não - giọng nói thì thào, rồi đột ngột vang to, the thé - Một vết thương sau gáy làm ông ấy bất tỉnh. Chỗ rách máu chảy nhiều không tin nổi... - Ai gây ra chuyện đó? - Hưng hỏi, dù đoán được lời đáp. - Nếu ông ấy không dọa bỏ rơi tôi, thì tôi đâu có phát khùng! - Gã quá giang úp mặt vào bàn tay, đột ngột khóc nức. Nước mắt anh ta nhiều đến mức rỉ qua các kẽ ngón, biến mất trong mấy cái nhẫn - Dù sao thì tôi cũng đã đưa ông ấy đi cấp cứu và gọi điện báo cho người nhà ông ấy để họ tới bệnh viện... Đứa trẻ thở khò khè và bắt đầu khóc to. Bỗng dưng, nỗi chán nản khủng khiếp xâm chiếm Hưng. Mùi máu váng vất từ người ngồi cạnh, quen thuộc. Nhưng anh chẳng hứng thú gì với các bí mật kẻ khác. "Đừng khóc như đàn bà nữa. Dỗ nín con trai giùm tôi!" - Anh lên tiếng, chỉ muốn được yên. Nghiêng đầu chùi khô mắt vào vai áo, Đông vỗ nhẹ lưng đứa trẻ. Thằng bé dịu xuống. Mọi thứ lại im ắng. Nhưng bầu không khí trong xe chẳng còn như cũ. Giao lộ đường cao tốc lấp loáng phía trước. Lơ lửng trên cao, các bảng điện giao thông nhấp nháy. Xe chạy chậm lại. Đông nói yếu ớt: "Về nhà một mình sợ lắm. Giá anh cho tôi trọ qua đêm nay!". Đèn vàng ngã tư chuyển màu đỏ. Chiếc xe lao vụt qua giao lộ như một kẻ tâm thần mù lòa. Bằng hành động liều lĩnh, Hưng ngỡ như đã quyết định bẻ ngoặt cuộc sống anh sang hướng khác, mù mờ và bất ổn. Ở một khía cạnh nào đó, anh chỉ làm cho việc đánh mất khả năng kiểm soát đời mình hiện hình rõ nét hơn. ... Mời các bạn đón đọc Cánh Trái của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Xứ Sở của Người Mù - Herbert George Wells
Herbert George Wells (21/09/1866 - 13/08/1946), thường được biết đến với cái tên H. G. Wells, là một nhà văn người Anh nổi tiếng với những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Kẻ Vượt Thời Gian, Người Vô Hình, Đảo Bác Sỹ Moreau, Xứ Sở Của Người Mù, Chiến Tranh Giữa Các Thế Giới, Tiên phong lên mặt trăng.... Ông là một nhà văn của nhiều thể loại truyện, tiểu thuyết, bao gồm cả viễn tưởng, phi viễn tưởng hay các bài bình luận về lịch sử và xã hội. Wells cũng là một người theo chủ nghĩa xã hội, các tác phẩm của ông sau này thường nặng tính chính trị và giáo điều. Chỉ có những tác phẩm tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của ông là vẫn còn rất được ưu chuộng hiện nay. Wells và Jules Verne thường được coi "cha đẻ của khoa học viễn tưởng". Công việc: Tiểu thuyết gia, Giáo viên, nhà sử học, nhà báo. Wells có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau, trong số đó 5 tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều là truyện Sci Fi, mỗi cuốn đều tạo ra một dòng văn riêng biệt cho thể loại độc đáo này Wells sống rất đào hoa. Ông trải qua hai đời vợ (1 trong số đó là chị họ mình) và trong quãng đời kết hôn ông vẫn thường xuyên qua lại với nhiều phụ nữ khác. Một số người còn trở thành cảm hứng cho ông viết sách Wells có bút lực hiếm ai bì kịp, bốn năm liền cho xuất bản bốn cuốn bestsellers, và có thể viết 3 cuốn tiểu thuyết hay mỗi năm. Trong một cuốn sách phi hư cấu của mình H. G. Wells dự đoán rất chính xác sự phát triển của các khu thành thị, kinh tế toàn cầu hoá và các cuộc xung đột vũ trang nổ ra trên toàn cầu. Năm 1938, cuốn Chiến tranh giữa các thế giới của H. G. Wells được phát sóng trên radio, gây nổ ra cả một cuộc hoảng loạn vì mọi người tưởng người Sao Hoả đang xâm lăng thật. Lời cuối cùng Wells nói trước khi mất là: "Đi chỗ khác. Ta có sao đâu." *** Ba người đàn ông dừng chân, ngoảnh đầu nhớn-nhác như tìm kiếm xung quanh. Họ quay ngang quay ngửa, còn Nunez thì vung tay rối-rít ra hiệu song có lẽ họ không trông thấy. Sau một lúc, họ tiến về phía dẫy núi xa xa, mé tay phải, và cất tiếng gọi to như để đáp lại. Nunez lại gào lên, vung vẩy tay ra hiệu và khi nhận ra vô ích, đột nhiên chữ " mù " lóe ra trong óc hắn : " Không khéo các cha này mù cả lũ rồi ! " Cuối cùng, sau khi gào chán chê và cáu-kỉnh, Nunez vượt chiếc cầu nhỏ vắt ngang dòng nước, xuyên qua một cái cửa đục trong tường và tiến đến gần họ. Hắn chắc chắn những nguời này đã lòa và biết rõ đây là xứ sở của người mù mà người ta vẫn kể trong những chuyện cổ-tích, thần-thoại. Hắn tưởng như mình đang trải qua một cuộc phiêu-lưu thích-thú mà mọi người hằng mơ tưởng, ước ao. Ba người đàn ông sóng vai nhau đứng, không nhìn hắn nhưng tai lại vểnh về phía hắn, lắng nghe tiếng bước chân khác lạ của hắn. Họ đứng sát cánh nhau ra chiều hơi khiếp-sợ. Hắn thấy rõ mi mắt họ khép kín và sâu trũng làm như nhãn-cầu bên dưới đã teo lại. Mặt họ lộ vẻ hoang-mang. " Có người ? đích thị là có người ? người hay là quỷ thần đi từ phía những tảng đá xuống ". Một người thốt bằng thứ tiếng lơ-lớ Tây-ban-nha. Nunez mạnh dạn tiến lên như một thanh-niên mới bước chân vào đời. Hắn chợt nhớ đến tất cả những chuyện kể về cái thung-lũng đã tuyệt-tích và xứ sở của người mù. Câu ngạn-ngữ cổ cứ láy đi láy lại mãi trong đầu hắn như một điệp-khúc : " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " " Trong Xứ Mù Thằng Chột làm Vua " Hắn cất tiếng chào rất lễ-phép, vừa chào vừa đưa mục-quang quan-sát. " Người này từ đâu đến hở Pedro ? " một người lên tiếng hỏi. " Từ phía những tảng đá trên kia đi xuống." " Tôi từ bên kia dẫy núi đến đây " Nunez sửa lại. " Từ một nước ở rất xa, nơi mà ai ai cũng nhìn được. Ở gần Bogota, chỗ có hàng trăm ngàn dân cư, dẫu chỉ là một thành-phố khuất nẻo. " " Nhìn ? Nhìn ? " Pedro lẩm-bẩm. " Người này từ những tảng đá đi xuống " người mù thứ nhì nhắc lại. Quần áo họ mặc rất kỳ-cục, chắp nối lung-tung các mảnh vụn bằng những đường kim mũi chỉ khác nhau. Hắn giật nẩy mình khi họ đồng loạt tiến lên, cùng vươn tay. Hắn vội lùi lại, tránh những ngón tay xòe ra. " Lại đây " người mù thứ ba lên tiếng, bước theo và tóm ngay được hắn. Họ nắm giữ, sờ nắn Nunez từ đầu đến chân và không nói thêm một tiếng nào cho tới khi sờ nắn xong. " Ấy, cẩn-thận đấy ! " Nunez sợ-hãi kêu lên khi một ngón tay đè lên mắt hắn và biết là họ thấy mắt hắn rất kỳ-quặc, mi mắt rung động được. Họ lại sờ thử một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở của Người Mù của tác giả Herbert George Wells.