Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Không Mật Mã - Kinh Hồng

Trong sự pha trộn phức tạp giữa trắng và đen, trong sự giày vò của tình yêu. Tô Cẩm phải làm như thế nào? Cô đã gặp rất nhiều bế tắc trong công việc, tình cảm với nhiều đau khổ và tuyệt vọng, có lúc tưởng như không còn con đường sống cho mình nữa, nhưng trải qua tất cả những điều đó, cô đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc sống và giá trị đích thực của tình yêu. Từ một cô gái yếu đuối, có đôi mắt trong sáng ngây thơ như trẻ con, cô đã trưởng thành hơn và tìm được hạnh phúc thật sự cho mình. Có lẽ mỗi người đều trải qua những phút giây như thế, mặc dù đau khổ nhưng không thể không đối mặt. Chỉ có như vậy, mới không bị mây mù làm mờ mắt, mới có thể nhìn rõ được phương hướng mà mình muốn tiến tới. *** Từng tờ tiền mới tinh được đếm ào ào qua ngón tay, ngay cả không khí cũng có mùi vị đặc biệt. Đôi tay đếm tiền là của một người đàn ông, ngón tay rất trắng, móng tay có màu hồng khỏe mạnh, được cắt sửa gọn gàng. Đây là đôi tay của một cậu ấm. Lần đầu tiên Tô Cẩm nghe bạn bè gọi như thế, trong lòng cảm thấy không thoải mái. Cô luôn cảm thấy mặc dù gia thế của Ngạc Lâm rất khá, bản thân anh cũng thích mặc quần áo hàng hiệu, thích đi ăn ở những nơi cao cấp nhưng đánh giá phẩm chất con người qua thói quen sinh hoạt thì thật là không công bằng. Ai đã nhìn thấy cậu ấm có xe ô tô mà không đi, tự đạp xe đạp đến chỗ làm? Liệu có cậu ấm nào chịu làm ở một nơi vừa nguy hiểm vừa khổ cực như cục cảnh sát sáu, bảy năm trời? Vì thế, mỗi khi nghe bạn bè gọi đùa anh ấy là “cậu ấm”, Tô Cẩm luôn nắm chặt tay lại, thay Ngạc Lâm bảo vệ hình ảnh của anh. Tuy nhiên, lúc này, cách một bàn bày đầy ắp thức ăn, Tô Cẩm chậm rãi ngắm nhìn anh, từ kiểu tóc thời trang, đến mấy chiếc hoa tai lấp lánh, sợi dây chuyền cũng sáng bóng trên cổ, chiếc áo sơ mi không đoán được giá, chỉ biết đó không thể là một chiếc áo rẻ tiền, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc đồng hồ Rolex kiểu mới trên cổ tay. Tô Cẩm không thể không thừa nhận, Ngạc Lâm khi không mặc cảnh phục thì đích thị là một cậu ấm thực thụ. Chỉ tiếc là bản thân từ trước đến giờ không phát hiện ra, hay thành thật mà nói, cô luôn không chịu thừa nhận điều này. Có lẽ khi bắt đầu quen biết, Ngạc Lâm đã để lại trong cô ấn tượng vô cùng sâu đậm, đến mức, cho dù sau này anh có thay đổi như thế nào đi chăng nữa thì hình ảnh của anh trong cô vẫn giống hệt như ấn tượng lúc ban đầu. Tô Cẩm vẫn nhớ đó là một ngày mùa hè, khoảng thời gian nóng nhất trong năm, sau khi hoàn thành bản báo cáo thực tập tại một đơn vị, cô và các bạn đang ngồi ăn kem ở bên đường, đột nhiên có tiếng ồn ào từ ngõ nhỏ phía sau vang lên. Miệng vẫn ngậm thìa kem, Tô Cẩm vô tình quay đầu lại và nhìn thấy anh ấy. Anh mặc bộ quân phục cảnh sát đẫm mồ hôi, đang đứng bên đường quát đám trẻ mới lớn vừa đánh nhau một trận. Mũ anh đội hơi lệch, cổ áo phanh ra không đúng với quy định, nhìn giống như một cảnh sát có dáng vẻ hơi ngông nghênh… Khi Tô Cẩm vẫn đang ngẩn ngơ hồi tưởng, thì Ngạc Lâm đã đếm xong tiền, cất vào phong bì rồi tiện tay ném lên mặt bàn. Tô Cẩm bị tiếng động nhẹ phát ra từ chiếc phong bì khiến cho bừng tỉnh, hỏi: “Đếm xong chưa?”. Ngạc Lâm khuấy khuấy ống hút trong cốc nước lạnh, lông mày anh nhíu lại có vẻ hơi mất kiên nhẫn, “Em lại làm sao thế? Động một tý lại lấy năm mươi ngàn tệ này ra để dọa anh. Anh đã nói rồi, sau này lương của anh được bao nhiêu anh cũng đưa hết cho em…”. Tô Cẩm cúi đầu, sống mũi hơi cay. Cô có nên nhẫn nhịn hay không? Đây luôn luôn là vấn đề tồn tại giữa hai người. Ngạc Lâm vươn tay qua bàn xoa đầu cô, giọng nói trở nên dịu dàng hơn, “Được rồi, được rồi! Khi mình bắt đầu tiết kiệm tiền, mặc dù đã thỏa thuận là ai đề nghị chia tay trước thì số tiền này sẽ thuộc về người kia, nhưng em đừng tức giận một chút là lại đưa số tiền này ra để dọa anh, động một tý lại nói chia tay, em không thấy chán sao?”. Tô Cẩm nghiêng người ra sau để tránh bàn tay của anh, “Trước ngày hôm nay, em từng nói với anh là chia tay rồi sao? Ngạc Lâm, anh nhớ nhầm em với ai rồi?”. Ngạc Lâm bất giác lặng người, ánh mắt lộ rõ sự ngạc nhiên, giống như anh đang đứng trước một đứa trẻ làm ầm ĩ một cách vô cớ, “Rốt cuộc là thế nào? Có phải là việc tìm nhà khiến em không vừa ý? Anh đã nói trước rồi, tìm nhà là một việc vất vả, em không nên quá vội vàng…”. “Không thế nào cả”, Tô Cẩm tránh ánh mắt của anh, buồn bã cúi đầu, “Em muốn mua nhà là muốn yên ổn để sống. Không phải… không phải đợi đến lúc làm vợ lẽ của ai đó”. Tay Ngạc Lâm cứng lại, “Em nói lung tung gì thế?”. “Ngạc Lâm!” Tô Cẩm nghẹn ngào một lúc, cúi đầu hỏi anh: “Anh luôn nghĩ em là đứa rất ngốc phải không? Thế nên mới lấy em ra để trêu đùa. Anh được nhiền fan hâm mộ quá nên lấy em ra làm lá chắn. Đợi đến bao giờ anh gặp được người anh thích sẽ đem em cất vào kho để dự trữ phải không?”. Ngạc Lâm không thể giữ được bình tĩnh, đặt cốc nước sang một bên. Nước mơ hồng là loại đồ uống ưa thích của phụ nữ, thứ đồ uống ngọt ngào như vậy không hợp với người đàn ông to lớn này nhưng anh lại rất thích, đến mức mà mỗi lần đi ăn với anh, người phục vụ đem đồ uống đến đều đặt thứ nước đó trước mặt Tô Cẩm. Tô Cẩm lặng nhìn thứ nước màu hồng trong cốc, lần đầu tiên nhận thấy rằng, người đàn ông thích loại đồ uống này vẫn giống một đứa trẻ chưa lớn. “Dạo này anh hơi bận, bên đơn vị vẫn phải làm thêm giờ.” Giọng của Ngạc Lâm bắt đầu mất bình tĩnh, “Ngày lễ của phương Tây đâu phải là vấn đề, nếu em chán thì chúng ta đi về thôi. Không phải là em cũng muốn ra ngoài sao? Thu đồ xong chưa?”. Hai tay của Tô Cầm để dưới khăn trải bàn nắm chặt lại. Anh ấy nói không sai, ngày lễ Tình nhân vốn dĩ là của phương Tây. Nhưng trong một ngày như thế này - Tô Cẩm chỉ ngẩng đầu là có thể nhìn thấy phía ngoài cửa, rất nhiều người đang đi trên đường, phần nhiều là các cô gái tay khoác người yêu, tay ôm hoa hồng. Một ngày như thế này - ngay cả không khí cũng mang hương vị của hoa hồng, làm sao cô có thể tiếp tục giữ những điều vốn dĩ đã không tồn tại để tiếp tục dối lừa chính mình? Cuối cùng, sau rất nhiều giằng co, cuộc đấu tranh giữa nhẫn nhịn và không nhẫn nhịn đã nghiêng về một phía. Tô Cẩm hít một hơi thật sâu rồi chầm chậm ngẩng đầu, “Vâng, chúng ta đều rất bận, vì thế hôm nay em gọi anh đến đây, ngoài việc trả tiền, chỉ muốn hỏi anh một câu: Ngày mùng 6 tháng sau, lúc 10 giờ sáng, tại khách sạn Hyatt, người đặt hai mươi mâm cỗ đính hôn có phải là anh không?”. Khi hỏi xong câu đó, Tô Cẩm cảm thấy tim mình như thắt lại. Cô biết cô nên ngẩng đầu và nhìn thẳng vào mặt anh. Nhưng khi nói được một nửa, cô lại hụt hơi, thế là câu hỏi thốt ra từ miệng thay vì một lời chất vấn hùng hồn lại không bằng một lời yêu cầu chứng thực yếu ớt - ngay cả bản thân cô cũng thấy rõ sự bất lực trong tiếng nói của mình, thật đáng thương. Tô Cẩm rất muốn tát mình một cái, nhưng sự ảo não nhanh chóng biến thành sợ hãi trước vẻ trầm mặc của Ngạc Lâm. Con người này vốn hơi có chút ngông nghênh, ham chơi, vừa hút thuốc vừa uống rượu… Nhưng từ lúc cô thực tập tốt nghiệp đến lúc chạy khắp nơi nộp đơn xin việc, từ khi tìm thuê phòng khắp nơi đến khi chuyển đến làm việc ở đây, anh đã chứng kiến những trải nghiệm quan trọng nhất trong cuộc đời cô, anh cũng là người bạn trai chính thức đầu tiên của cô. Mắt của Tô Cẩm đỏ lúc nào không hay, “Thế là đúng rồi?”. Ngạc Lâm bực bội vò đầu, “Em à, em cũng biết quê của mẹ anh ở Tứ Xuyên mà, vì thế bà rất thích có cô dâu ở quê. Sức khỏe của bà lại không tốt, anh không thể…”. Nghe thấy anh lại đem mẹ ra làm lá chắn, không biết vì sao, sự buồn bã trong lòng Tô Cẩm trở nên quyết liệt, “Thật vậy sao? Nhưng con gái của phó thị trưởng Trần sinh ra ở thành phố T, lớn lên tại thành phố T, bố là người Bắc Kinh, mẹ là người Thượng Hải. Gia đình họ và gia đình anh là… đồng hương từ đời trước sao?”. Anh bỗng nhiên lừa cô? Hay vẫn lừa cô từ trước mà cô không hề biết? “Ngạc Lâm, anh là đồ khốn nạn.” Nước mắt của Tô Cẩm chảy ra, “Thiếp mời của nhà anh đã phát đi rồi, anh còn dùng những lời này lấp liếm tôi? Anh thật sự chỉ muốn che giấu tôi để tôi làm vợ bé của anh?”. “Kỳ thực…”, Ngạc Lâm đưa tay ra định nắm lấy tay cô bị cô tránh né đành hậm hực thu lại, “Kỳ thực anh luôn muốn nói với em, nhưng…”. “Nhưng cảm thấy không cần thiết, phải không?” Tô Cẩm vò nát chiếc khăn giấy trong tay. Vốn dĩ không muốn khóc, nhưng khi cô ngẩng đầu lên, nước mắt vẫn chảy ra không sao dừng được, “Cho dù anh muốn nói sao thì nói, anh nghĩ rằng tôi không thể sống thiếu anh, phải không?”. “Sức khỏe của mẹ anh không tốt, em cũng biết…”, Ngạc Lâm nhìn xuống, lòng dạ rối bời, “Chúng ta đã ở bên nhau hơn hai năm, nếu anh không thực sự muốn sống cùng em thì sao lại muốn giao tiền lương cho em giữ?”. Tô Cẩm nhìn bàn tay của cậu ấm, nghẹn lời hỏi lại: “Sống cùng nhau như thế nào? Tôi cứ vờ không biết, mua một căn phòng sống với anh, đợi khi nào vợ anh ngủ rồi thì anh đến với tôi để mua vui sao?”. “Em đừng nói như vậy…”, sắc mặt Ngạc Lâm nghiêm lại, không suy nghĩ gì, nắm chặt lấy tay cô, “Em nên hiểu anh…”. “Anh đừng như vậy.” Tô Cẩm rụt tay khỏi tay anh, sắc mặt đanh lại, “Việc này tôi đã do dự rất lâu, tôi luôn nghĩ về tình cảm giữa chúng ta… làm thế nào để giành lại. Nhưng càng nghĩ lại càng cảm thấy… không đáng. Ngạc Lâm, anh cứ kết hôn đi. Bữa cơm này coi như bữa cơm chia tay, tôi mời”. “Tô Cẩm!” Đây là lần đầu tiên Ngạc Lâm gọi tên cô như thế này. Nhưng, cho dù là muốn nói những lời giả dối để an ủi cô hay là chính thức xin lỗi, Tô Cẩm cũng không muốn nghe. Ngoài hai điều này, cô không còn nghĩ ra anh có thể nói nói gì với cô nữa. Vẫy tay gọi người phục vụ, Tô Cẩm xòe ra mấy tờ tiền bảo anh ta lấy thêm vài chai bia. Ngạc Lâm không chịu đựng được, chau mày. Anh biết cô có thể uống được rượu, nhưng trong tình trạng uống từng chai từng chai một như thế này… Tô Cẩm rót đầy cốc rượu của mình, không ngẩng đầu lên, xua tay với Ngạc Lâm, “Cảnh sát Ngạc Lâm, tôi biết anh là người rất bận rộn, tôi không làm lỡ thời gian của anh nữa. Dẫu sao hôm nay cũng là Lễ tình nhân, để vị hôn thê làm thêm giờ là không tốt”. “Tô Cẩm, em nghe anh nói…”, không chờ anh nói hết câu, Tô Cẩm cầm lấy điện thoại ra, vội vàng gọi cho Lâm Chi Chi. Dường như chuông vừa kêu một tiếng đã có người nhận điện thoại. Giọng của Lâm Chi Chi có lẽ còn căng thẳng hơn, “Thế nào rồi, cậu đã hỏi chưa? Anh ta nói sao?”. Ánh mắt của Tô Cẩm liếc nhìn điện thoại của Ngạc Lâm đang rung trên bàn rồi nhanh chóng bị anh tắt máy, “Cảnh sát Ngạc có việc đi trước rồi, cậu đến ăn tối cùng mình đi. Vẫn chỗ cũ”. Ngạc Lâm ngồi đối diện thở dài, “Được, em cứ ngồi với Chi Chi. Tối anh sẽ gọi điện cho em”. Tô Cẩm giả như không nghe thấy lời anh nói, vứt điện thoại sang một bên, nhấp từng ngụm bia nhỏ. Thứ nước đắng chát lành lạnh chảy qua cuống họng, giống như kim châm đi vào dạ dày và bùng cháy ở trong đó khiến cô đau đớn. Điện thoại lại rung đầy thúc giục. Ngạc Lâm bối rối nhìn Tô Cẩm, do dự giây lát, rồi đứng dậy rời đi. “Đợi đã!” Tô Cẩm giật giọng gọi anh, cô đẩy phong bì tiền trên bàn, “Cầm tiền đi!”. Ngạc Lâm thở dài, “Em à, em có nhất thiết phải làm như vậy…”. Ánh mắt của Tô Cẩm sắc như dao, “Tôi gửi trả anh đấy, đừng làm phiền tôi nữa”. Sắc mặt của Ngạc Lâm trở nên rất khó coi, anh cầm chiếc phong bì không nói một lời, quay đầu bước đi không ngoảnh lại. Ánh mắt của Tô Cẩm xuyên qua cốc thủy tinh trong suốt, thấy bóng dáng bị bóp méo trên đó của anh bước ra khỏi khách sạn, biến mất vào bóng đêm ngoài cửa. Từ trước đến giờ, anh ấy vẫn luôn không quay đầu lại. Tô Cẩm uống một hơi hết sạch bia trong cốc. Đột nhiên cô nghĩ đến trong đêm chia tay này, cô đã quên làm một việc vô cùng quan trọng. Trước cuộc hẹn, Lâm Chi Chi đã dặn cô, nếu thực sự phải chia tay, cho dù thế nào thì cũng phải tát anh ta một cái để trút giận, nếu không trong lòng sẽ lưu lại ám ảnh bị người yêu bỏ rơi, ảnh hưởng đến việc đi tìm hạnh phúc sau này. Nhưng cô đã quên mất việc quan trọng đó. Tô Cẩm đau đớn nghĩ: Chi Chi đến nhất định sẽ mắng cô vô dụng. Cô biết Lâm Chi Chi luôn không tôn trọng Ngạc Lâm, luôn nói là anh ấy ngông nghênh, về cơ bản không phù hợp với mình… Nhưng đến bây giờ, phù hợp hay không cũng vậy, đều hoàn toàn không liên quan gì nữa… Tô Cẩm đặt chai bia xuống, uống từng ngụm nhỏ. Rất đắng, nhưng đối với cô, lạnh và đắng như thế này vẫn chưa đủ. Tô Cẩm gối đầu lên cánh tay, chầm chậm xoay cốc bia. Ánh đèn từ đỉnh đầu chiếu xuống thứ dung dịch màu vàng trong cốc bia trong suốt với những bọt khí nhỏ lấp lánh. Tô Cẩm biết tửu lượng của mình. Hoặc là cô luôn luôn đánh giá cao tửu lượng của mình. Thế là, trong đêm lạnh lẽo nhất của một năm ở thành phố này, Tô Cẩm đã không do dự uống cho đến say. Nhận thức mơ hồ, nhưng có nhiều khoảnh khắc lại ghi nhớ rất rõ ràng: Khi Chi Chi dìu cô ra khỏi cửa khách sạn, gió đêm thốc vào mặt cô lạnh buốt; trong căn phòng lạ lẫm ánh sáng mờ ảo, cô bổ nhào đến chiếc bồn vệ sinh nôn thốc, tay Chi Chi vỗ đều đều lên lưng cô. Chi Chi dìu cô đến bồn tắm, nước nóng nhanh chóng vây lấy cơ thể lạnh giá của cô… Ngoài ra, cô không còn nhớ gì nữa. Vì thế, khi cô được ánh sáng buổi sớm đánh thức, mơ màng mở mắt, hoàn toàn không biết là mình đang ngủ ở đâu. Ga gối màu trắng, rõ ràng không phải là họa tiết Mickey ở nhà mình, cũng không phải là họa tiết hoa nhỏ ở nhà Lâm Chi Chi, giống như là… Tô Cẩm ngồi bật dậy, hoảng hốt nhìn quanh, đúng là… phòng khách sạn. Quần áo đã được xếp ngay ngắn đặt trên giường, hình như đã được giặt sạch. Trong phòng không có dấu tích gì, chỉ ngoài… một xấp tiền màu hồng bắt mắt đặt trên chiếc tủ ở đầu giường. Trong đầu Tô Cẩm dội lên một tiếng động lớn, cô run rẩy cầm xấp tiền, bên dưới quả nhiên có một tờ ghi chú. Là một tờ ghi chú của khách sạn, trên mặt giấy ngà vàng có viết dòng chữ to rắn rỏi: Rất hài lòng với dịch vụ của cô, xin nhận tiền thưởng. Ngoài ra phòng sẽ được trả lúc 12 giờ trưa, bữa sáng phục vụ tại phòng. Ở chỗ ký tên góc dưới bên phải là một khẩu súng được phác vô cùng đơn giản. Nhìn thấy hai chữ “tiền thưởng”, đầu Tô Cẩm như bị nổ tung, vội vàng nhìn lại mình, quả nhiên cô chỉ mặc một chiếc áo tắm của khách sạn. Trong chiếc áo choàng… không cần kiểm tra cũng biết là không hề mặc gì. Tô Cẩm nắm chặt cổ áo tắm, hoàn toàn sững sờ. Lẽ nào mình đã say thật? Lẽ nào lại uống say như thế, người đón mình không phải là Lâm Chi Chi sao? Không phải là Lâm Chi Chi… thì là ai?! Tô Cẩm hoàn toàn sửng sốt. Không thể? Không thể? Không thể?! Mình chỉ là bị thất tình, rồi uống rượu, sau đó thì trinh tiết… mà bản thân cũng không biết là xảy ra chuyện gì, lại mất mà thần không hay quỷ không biết?! Cô không những không nhớ bất kỳ điều gì mà còn không biết người này như thế nào - tám chín mươi phần trăm đó chỉ là một khách làng chơi bỏ tiền để mua vui. Cũng có nghĩa là lần đầu tiên của mình đã trao cho một kẻ không có nhân phẩm một cách vô thức? Kẻ này chắc rất cao tay, không biết là đã hại bao nhiêu con gái nhà lành, mà… mà… không biết anh ta có bị nhiễm bệnh gì không… Nếu mà thực sự như thế… Tô Cẩm càng nghĩ càng tuyệt vọng, ôm đầu nằm vật xuống, chỉ muốn chết. Kẻ cặn bã này trả cho cô năm vạn tệ, bằng đúng số tiền mà cô đã đưa cho Ngạc Lâm. Số tiền này cũng như tiền khách sạn mà cô ở khiến Tô Cẩm không hề hoài nghi là có chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó. Nếu không, làm gì có ai lại trả một số tiền lớn như thế này cho người lạ? Tô Cẩm cố gắng hết sức cũng chỉ nhớ được mình đã nôn khủng khiếp như thế nào, hình như có người đưa cho cô một cốc nước ấm và vỗ nhẹ vào lưng. Cố gắng nhớ tiếp, cũng chỉ lờ mờ biết có người dìu vào bồn tắm, nước nóng bao bọc lấy cơ thể rất thoải mái và dễ chịu. Tất cả ký ức đêm qua chỉ dừng lại ở đó. Tô Cẩm nhìn vô thức lên chiếc đèn chùm trên đỉnh đầu, trong tay vẫn cầm tờ ghi chú có ký tên là “khẩu súng” - Khẩu súng này có ý nghĩa gì không? Là biểu tượng của việc tham gia băng đảng nào đó, hay là ám thị anh ta có quyền có thế để mình không dám chống lại? Cũng có nghĩa, anh ta đưa mình đến khách sạn là biết mình không phải gái làm tiền? Vậy… giá của một cô gái cuối cùng là bao nhiêu? Tô Cẩm với lấy điện thoại của mình trên tủ ở đầu giường, lướt qua một dãy dài các cuộc gọi lỡ, cô gọi cho Lâm Chi Chi. Thật bất ngờ, điện thoại của Lâm Chi Chi tắt. Lâm Chi Chi tự nhiên tắt điện thoại. Tô Cẩm như muốn đổ sụp xuống. Chỉ qua một đêm, không những cuộc sống của cô bị đảo lộn, mà ngay cả Lâm Chi Chi điện thoại luôn mở hai tư tiếng cũng bắt đầu chơi trò chơi tắt máy? Hay là lúc này cô ấy đang có việc gấp ở công ty? Tô Cẩm xem lại danh bạ trong điện thoại, khung lựa chọn màu xanh da trời nhạt dừng ở số điện thoại của sư phụ. Tô Cẩm do dự giây lát rồi gửi một tin nhắn: “Sư phụ, một cô gái trong thành phố chúng ta có giá bao nhiêu?” Đợi đến khi tin nhắn đã gửi đi, Tô Cẩm bắt đầu ân hận, giận mình không biết giữ miệng. Quả nhiên, ngay lập tức có điện thoại của Hàn Hiểu, giọng vừa hiếu kỳ, vừa buồn cười: “Sao thế? Có chuyện gì không?” “Không có gì.” Tô Cẩm ấp úng không biết giải thích như thế nào. “Em chỉ… tiện hỏi thế.” “Chị nghe nói, à, nhưng chỉ là nghe nói chứ chưa từng gọi họ”, Hàn Hiểu cười, “Nghe nói từ vài chục đến vài chục nghìn đều có. Nếu qua đêm ở một nơi sang trọng thì khoảng vài vạn”. Tô Cẩm cười đau khổ: Hóa ra mình được coi là hàng quý. Hàn Hiểu nói tiếp: “Tô Tô, lần này để em rời văn phòng xuống công trình, rồi chị lại không thể đi cùng với em, thật sự là chị thấy ngại quá”. Hàn Hiểu và Tô Cẩm đều là kỹ sư của bộ phận giám sát kỹ thuật ở Hải Công. Khi còn ở văn phòng, do Tô Cẩm là nhân viên mới của công ty nên được Hàn Hiểu chỉ dạy rất nhiều, vì thế mặc dù về danh nghĩa Tô Cẩm là trợ lý của Hàn Hiểu nhưng Tô Cẩm luôn gọi Hàn Hiểu là “sư phụ”. Sau tết, những người đã có gia đình như Hàn Hiểu được bị điều về làm dự án ở gần thành phố, Tô Cẩm cũng đi cùng. Nhưng không ngờ, khi chưa khởi công, Hàn Hiểu vì có bầu nên xin nghỉ trước hạn. Thế là, dự án vốn dĩ do hai người phụ trách giờ chỉ còn một mình Tô Cẩm tự lo liệu. Thiết bị luyện ba mươi lăm vạn tấn dầu một năm của dự án luyện dầu thành phố C là một hệ thống lớn, đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của dự án. Theo sắp xếp tiến độ tổng thể của dự án luyện dầu thành phố C, tiến độ của hệ thống này phải song song với hệ thống sản xuất hydro. Theo thường lệ, khi thi công, hai hệ thống cần có hai nhân viên kỹ thuật điều hành. Nhưng Hàn Hiểu đột ngột nghỉ phép, bộ phận giám sát kỹ thuật cũng không có thời gian tìm thêm người, thế là công việc của hai người đều trút lên vai Tô Tô. Hàn Hiểu xin lỗi là vì như vậy. Tô Cẩm vội nói: “Sư phụ đừng nói như vậy. Chị đã giúp em điều chỉnh tất cả mọi thông số của hai hệ thống, em cũng đã nhàn hơn nhiều rồi. Chị cứ yên tâm ở nhà nghỉ ngơi, đừng bận tâm lo lắng điều gì”. Hàn Hiểu liền dặn dò cô vài câu rồi tắt máy. Tô Cẩm gọi lại cho Lâm Chi Chi, nhưng máy vẫn tắt. Tắm rửa, ăn bữa sáng mà khách sạn phục vụ tận phòng xong, Tô Cẩm cúi đầu buồn bã rời khỏi khách sạn. Tuyết vẫn rơi, tuyết trên đường bị người qua lại giẫm đạp thành một mớ hỗn độn. Cỏ cây hai bên đường cũng bị tuyết phủ trắng. Trên quảng trường phía xa, đám trẻ con đang chơi ném tuyết, cười nói ầm ĩ. Tô Cẩm đứng trên thềm khách sạn, mặc áo lông có mũ, xấp tiền vẫn để trong túi áo, cộm lên qua chiếc áo mỏng bên trong khiến cô thấy đau. “Mình đã mất bạn trai.” Tô Cẩm hé mắt nhìn thế giới bên ngoài vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, buồn bã nghĩ, “Khi mình tự buông thả bản thân, muốn mượn rượu để giải sầu thì lại mất mát nhiều thứ hơn…”. Nghĩ vậy, Tô Cẩm không tránh khỏi cảm giác đau đớn, lạnh lẽo. Không phải đó chỉ là một người đàn ông sao? Không phải chỉ là một cuộc tình chết yểu sao? Vì sao lại phải đau khổ như vậy? Từ góc độ này thì việc xảy ra trong khách sạn rõ ràng là tự tạo ra một điều nghiệt ngã. Còn gã đàn ông kia không biết có mắc bệnh truyền nhiễm gì không… Đó cũng là mình làm mình chịu thôi. Tô Cẩm dụi dụi mặt, cố gắng vực dậy tinh thần. Cho dù nói như thế nào thì giây phút khó khăn nhất cũng đã qua rồi. Quay về phòng trọ ở Hải Công, cô bạn cùng phòng Thanh Thanh vẫn chưa về. Tô Cẩm thu dọn xong hành lý của mình, gọi điện cho Lâm Chi Chi, điện thoại vẫn tắt máy. Tô Cẩm hết cách, đành gọi điện thoại cho Bành Tiểu Ngôn. Ở thành phố T, hai người này là bạn tốt nhất của Tô Cẩm. Bành Tiểu Ngôn đang trong giờ làm, nghe cô hỏi Lâm Chi Chi, lập tức giống như thùng thuốc nổ bị châm ngòi, “Con nhỏ Chi Chi đó chẳng thèm kiêng nể gì, trắng trợn lừa mình. Nó nói nó có việc gấp, bảo mình đến khách sạn đón cậu. Khi mình chạy đến khách sạn, chả thấy ma nào ở đấy cả. Gọi điện cho nó thì lại tắt máy, gọi cho cậu thì cũng không nghe máy. Hai người đang chơi trò gì vậy? Làm lỡ mất cuộc hẹn vào đêm có tuyết của mình, hôm qua là lễ Tình nhân, mỗi năm chỉ có một lần…”. Tô Cẩm ngắt những lời trách móc của cô, “Chi Chi có nói nó có chuyện gì không?”. Bành Tiểu Ngôn rên lên một tiếng, “Giọng nó nghe có vẻ rất gấp gáp, nhưng không nói là chuyện gì. Đúng rồi, lúc gọi điện, mình nghe thấy tiếng còi ô tô, có lẽ nó đang ở trên đường. Có phải là chuyện của công ty không?”. Lâm Chi Chi là trưởng bộ phận an ninh của tập đoàn Hưng Hòa, có thể là việc của công ty thật… “Gọi điện thoại đến công ty rồi phải không?”, Tô Cẩm hỏi, “Công ty nói thế nào?”. “Gọi rồi!” Giọng của Bành Tiểu Ngôn có vẻ rất ấm ức, “Người ở công ty nói là không thể tùy tiện tiết lộ cho người ngoài”. “Vậy à…”, Tô Cẩm nhìn những bông tuyết rơi trên ngọn cây ngoài cửa sổ, bất giác chau mày, “Ngày mai mình phải đi làm dự án rồi, lần này ít nhất cũng phải hai tháng. Việc của Chi Chi… đợi cô ấy về nhất định bắt cô ấy phải giải thích rõ với cậu”. Bành Tiểu Ngôn đáp: “Cứ yên tâm đi đi, có việc gì nhất định mình sẽ thông báo cho cậu”. Tắt máy, Tô Cẩm xem lại nhật ký điện thoại tối hôm trước, ngoài hai cuộc gọi của Ngạc Lâm, còn lại đều là số điện thoại của Lâm Chi Chi. Tô Cẩm vô cùng ân hận. Chỉ vì một người đàn ông khốn nạn mà làm lỡ bao nhiêu việc. Lòng đầy ân hận, Tô Cẩm vỗ trán, rồi tự thề với lòng: Một là, từ bỏ Ngạc Lâm, xem con người bội bạc đó rốt cuộc thế nào; hai là, không bao giờ để rượu làm ảnh hưởng đến mình nữa. Nếu vi phạm lời thề thì cô sẽ trở thành kẻ không ra gì suốt đời. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Không Mật Mã của tác giả Kinh Hồng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Trẻ Và Cô Đơn
Demian (Tuổi Trẻ Cô Đơn, Vũ Đình Lưu dịch tiếng Việt năm 1968) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hermann Hesse (cùng với Siddartha, Narcissus and Goldmund, Steppenwolf, v.v.) Tác phẩm khắc họa một chân dung tâm lý (psychoanalysis portrait) (*) sống động nỗ lực thoát ly khỏi cái ước lệ của cuộc sống, vật lộn với tính nhị nguyên(**) thuộc bản chất con người, khai mở ý thức "sống" bên trong và cuộc hành trình tìm kiếm bản ngã và sự an bình nội tại. Người đọc sẽ luôn day dứt với nhân vật bí ẩn Max Demian (và mẹ anh ta, Frau Eva): đó là một con người bằng xương, bằng thịt (bạn/mentor của chàng thanh niên Emil Sinclair ngơ ngác) trong truyện hay là ẩn dụ của Hermann Hesse chỉ "cái bóng/cái siêu ngã" của mỗi con người chúng ta dẫn dắt chúng ta đi vào thế giới tội lỗi (**) để tự khám phá ra cái khả thể vô cùng? Ghi chú: (*) Tác giả đã từng qua trị liệu phân tâm học với môn đệ của Carl Jung và sử dụng nguyên mẫu cùng hình tượng của Jung trong tác phẩm này. (**) cái "thiện" và cái "ác", chỉ xã hội nước Đức sau Thế Chiến thứ I. *** Hermann Hesse đã từng viết: "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này”. Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. Hermann Hesse là tác gia hiện đại nổi tiếng của Đức, ông sinh ngày 2/7/1877 ở Calw vùng Wũrttemberg (Đức) và mất ngày 9/8/1962 ở Montagnola (Thụy Sĩ). Cha của ông đã sống ba năm ở Ấn Độ với tư cách là nhà truyền giáo, mẹ ông là con gái của nhà truyền giáo, nhà Ấn Độ học, tiến sĩ Hermann Gundert - một người có học vấn uyên thâm về Ấn Độ và có riêng một thư viện lớn. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân lọai sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse là một trong những nhà văn hiện đại viết tiếng Đức được đọc nhiều nhất trên thế giới. Ông được tặng giải Nobel vì những tác phẩm mang đậm truyền thống nhân đạo cổ điển, thể hiện bằng một văn phong sáng tỏ. Nhiều tác phẩm của ông được cả bạn đọc Phương Tây lẫn Phương Đông yêu thích.   Cha Hermann Hess là mục sư - nhà truyền giáo người Đức gốc Estonia, mẹ là con gái nhà truyền giáo gốc Schwaben (Thụy Sĩ); ông lớn lên ở Đông Ấn. Nền giáo dục tôn giáo và tính di truyền đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân sinh quan của nhà văn tương lai. Nhưng H. Hesse không theo nghiệp thần học, trốn khỏi chủng viện Maulbronn (1892); sau nhiều đợt khủng hoảng thần kinh lặp đi lặp lại, sau một lần toan tự tử và trải qua điều trị trong các bệnh viện, ông học nghề thợ cơ khí một thời gian ngắn, rồi buôn sách ở Kalva và Basel.   Năm 1899, H. Hesse phát hành tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn và viết nhiều bài phê bình, nhưng ít được chú ý. Tiểu thuyết tân lãng mạn giáo huấn Peter Camenzind (1904) là sự thành công mang tính nghề nghiệp đầu tiên; từ đó H. Hesse hoàn toàn cống hiến cho sự nghiệp sáng tác văn học, chủ yếu viết truyện vừa và truyện ngắn với những yếu tố mang tính tự thuật. Cũng trong năm 1904 H. Hesse kết hôn với cô Mari Bernoulli người Thụy Sĩ (có ba con trai) và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee.   Năm 1924, ông trở thành công dân Thụy Sĩ. Sau khi kết hôn lần thứ hai với ca sĩ Ruth Wenger người Thụy Sĩ, và sau một khóa tâm lí trị liệu, ông xuất bản tiểu thuyết Sói đồng hoang (1927), một cuốn sách thuộc hàng best-seller.   Tiểu thuyết Trò chơi với chuỗi hạt cườm (xuất bản năm 1943) như một bản tổng hợp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông và nâng lên một tầm cao chưa từng thấy vấn đề sự dung hòa đời sống tinh thần và thế tục. Trong thời kì đảng Quốc xã cầm quyền ở Đức, nhà văn sống "lưu vong" ngay trên đất nước mình. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1946.   Kể từ sau khi nhận giải ông không viết thêm được tác phẩm nào lớn, ngoài các tiểu luận, thư từ. Năm 85 tuổi ông mất khi đang ngủ vì xuất huyết não. Nhiều tác phẩm của H. Hesse đã được dịch sang tiếng Việt; có cuốn có đến hai ba bản dịch khác nhau; có cuốn được tái bản đến năm sáu lần.     * Tác phẩm:     - Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết.   - Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.   - Gertrud (1910), tiểu thuyết.   - Rosshalde (1914), tiểu thuyết.   - Knulp (1915), truyện vừa.   - Demian (1917), tiểu thuyết.   - Mùa hạ cuối cùng của Klingsors (Klingsors letzter Sommer, 1918), truyện vừa [Klingsor's last summer].   - Siddhartha. Bản trường ca Ấn Độ (Siddhartha. Eine Indische Dichtung, 1920), tiểu thuyết.   - Thơ (Gedichte, 1922), tập thơ.   - Từ Ấn Độ (Aus Indien, 1923), kí, thơ.   - Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.   - Narziss và Goldmund (Narziss und Goldmund, 1929), tiểu thuyết.   - Đêm an ủi (Trost der Nacht, 1929), thơ.   - Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết [The journey to the East].   - Trò chơi với chuỗi hạt cườm (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.   - Chiến tranh và hòa bình (Krieg und Frieden, 1946), kí [War and peace].     * Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:     - Một kiếp giang hồ, Võ Toàn dịch, tập san Văn, 1966.   - Đôi bạn chân tình (nguyên tác: Narziss und Goldmund, tiểu thuyết), Vũ Đình Lưu dịch, NXB Ca Dao, 1967; NXB Hội Nhà văn, 2001.   - Tuổi trẻ và cô đơn (nguyên tác: Peter Camenzind, tiểu thuyết), Vũ Đình Lưu dịch, NXB Ca Dao, 1968; 1972.   - Sói đồng hoang (truyện vừa), Chơn Hạnh - Phùng Thăng dịch từ bản tiếng Pháp Le loup des steppes, NXB Ca Dao, 1969.   - Tuổi trẻ thần tiên (nguyên tác: Schön ist die Jugend), Bùi Quang Đông dịch, NXB Bông Hồng, 1972.   - Tuồng ảo hóa (nguyên tác: Das Glasperlenspiel), Nguyễn Ngọc Minh dịch, NXB Nguồn Sáng, 1972.   - Nhà khổ hạnh và gã lang thang (nguyên tác: Narziss und Goldmund, tiểu thuyết), Phùng Khánh dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1994; 1998 và 2001.   - Narcisse và Goldmuld (tiểu thuyết), Viễn Nguyên dịch, NXB Lao Động, 2001.   - Câu chuyện của dòng sông (nguyên tác: Siddhartha, tiểu thuyết), Phùng Khánh - Phùng Thăng dịch, NXB An Tiêm, 1967; NXB Lá Bối, 1965-1966; NXB Hội Nhà Văn, 1988-1996-1998-2001.   - Huệ tím và những chuyện khác (nguyên tác: Iris und andere Märchen), Thái Kim Lan tuyển dịch, NXB Đà Nẵng, 1998.   - Tuổi trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian, tiểu thuyết), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1968-1971-1974; NXB Hội Nhà Văn, 1998.   - Hành trình sang Đông Phương (nguyên tác: Die Morgenlandfahrt, bút kí), Hoài Khanh dịch, NXB Ca Dao, 1967; NXB Hội Nhà Văn, 2001.   - Mối tình của chàng nhạc sĩ (nguyên tác: Gertrud, tiểu thuyết), Vũ Đằng dịch, NXB Ca dao, 1972; NXB Hội Nhà Văn, 2001.   - Tuổi trẻ, tuổi trẻ vàng son, Trần Phong Giao - Hoàng Ưng dịch, in trong Truyện ngắn Đức, NXB Lao Động, 2002.   - Bài học tình yêu hay chuyện chàng Augustus, Iris - Huệ tím, Chuyện hóa thân của Bích Thảo (3 truyện cổ tích viết theo lối mới), Thái Kim Lan dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3 năm 1998.   Mời các bạn đón đọc Tuổi Trẻ Và Cô Đơn của tác giả Hermann Hesse.
Chiến Trận
Chiến trận là tác phẩm mở đầu cho một loạt tiểu thuyết tiếp theo: Danh nhân (chân dung người cha), Thế giới rất gần (về đám tang người cha) và Quà tặng (chân dung người mẹ), kết thúc bằng Như ở trên trời (về cảnh chia li), tất cả hợp thành một bộ sách về gốc gác con người. Khi viết về chiến tranh người ta thường nhắc nhiều tới máu, súng đạn và nước mắt. Tác giả người Pháp nhìn chiến tranh từ một góc khác, không trực diện nhưng xuyên thấu nỗi đau. Giải Goncourt năm 1990 đã vinh danh tiểu thuyết Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) của Jean Rouaud để cổ vũ cho nỗ lực làm mới một đề tài tưởng như đã sáo mòn. Tác phẩm như một làn gió mới trong các sáng tác về đề tài chiến tranh của văn đàn Pháp lúc bấy giờ. Nỗi đau của cả nhân loại được cảm nhận từ khung cửa sổ của một gia đình trung lưu ở vùng ngoại ô theo cách riêng. Khi cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất đang trong giai đoạn khốc liệt cho đến cuối những năm 80 của thế kỉ 20 đã có rất nhiều tác phẩm viết về cuộc binh lửa tàn khốc này. Với những tác giả là người lính từ chiến trường trở về, họ mang cái nhìn trực diện về chiến tranh vào trong tác phẩm. Đôi khi hiện thực được lột tả sát tới mức chúng ta tưởng chừng có thể ngửi thấy mùi thuốc súng trên trang giấy.   Là một nhà văn sinh ra khi cả hai cuộc Đại chiến Thế giới đã trở thành quá khứ, Jean Rouaud không cố tình đóng vai là “người trong cuộc” để viết về cuộc chiến như cách mà một số nhà văn ở thế hệ ông đã làm. Tác giả viết về chiến tranh bằng tâm thế và góc nhìn của một con người sinh ra sau chiến trận. Những trang văn không nồng nặc mùi thuốc súng nhưng vẫn khiến người ta day dứt. Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) là cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh, mang âm hưởng của một cuốn hồi ký gia đình. Từ chính câu chuyện của gia đình mình, tác giả đã khắc họa sâu sắc nỗi đau dai dẳng của chiến tranh. Hơn nửa thế kỷ trước, dưới mái nhà mà ông đang sống, đã diễn ra những cuộc tiễn đưa khiến người ta hoảng sợ. Những người đàn ông và có cả những chàng trai trẻ khoác lên mình bộ quân phục và đi về phía bom đạn. Sự khốc liệt của chiến tranh đã vĩnh viễn cướp họ khỏi vòng tay người thân. Nhưng những người lính ấy không bao giờ chết. Họ vẫn sống trong ký ức của người thân. Một thứ ký ức buồn và dai dẳng như màn mưa dai dẳng của vùng Loire-Inferieure. Đọc những trang đầu của Chiến Trận (Chiến trường vinh quang), nhiều độc giả đặt ra câu hỏi: “Liệu đây có phải là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký về gia đình?”. Trong những chương đầu, tác giả tập trung miêu tả các thành viên trong gia đình với một bút pháp tỉ mỉ và tinh tế đến lạ lùng, làm cho người đọc có cảm giác như đang xem một cuốn phim tư liệu.   Nhà văn dành một tình cảm đặc biệt cho bà cô Marie, một con người sùng đạo, cả đời không kết hôn và nguyện phụng sự cho Chúa. Đây cũng chính là nhân vật mở nút cho cuốn tiểu thuyết tưởng chừng không có kịch tính này. Trước lúc lâm chung, bà Marie liên tục nhắc đến cái tên Joseph. Cái tên gợi cho tác giả nhớ đến người cha tội nghiệp của mình, người ra đi vì bệnh tật khi chỉ mới 40 tuổi. Nhưng không, ông đã nhầm, trong đại gia đình còn một thành viên khác cũng mang tên Joseph. Đó là người anh trai tội nghiệp của bà Marie, người đã tử trận năm 1914, khi mới 26 tuổi. Một chàng trai chưa nếm vị ngọt của hôn nhân và còn nhiều hoài bão.  Vì đau lòng, vì không muốn những người lính thoát chết trong trận can qua cảm thấy tội lỗi, mọi người tránh không nhắc tới ông. Nhưng ông vẫn tồn tại theo cách của riêng mình. Cả đại gia đình đã thực hiện một cuộc hành trình về lại chiến trường xưa để tìm di cốt những người đã ngã xuống. Những người chiến đấu vì đất nước nhưng giờ đây không còn một nắm xương tàn. Với Chiến Trận (Chiến trường vinh quang) Jean Rouaud đã chọn một lối kể chậm rãi, chi tiết và tinh tế, tạo nên một văn phong không lẫn lộn. Nhà văn giống như một nhà điêu khắc đang tỉ mẩn đục đẽo từng con chữ. Càng về cuối tác phẩm, sự khốc liệt và tàn nhẫn của chiến tranh mới lộ rõ. Ở đó, không chỉ có súng đạn, máu và nước mắt. Bom hóa học và những quyết sách lạnh lùng của nhà cầm quyền còn khiến chúng ta ghê sợ hơn nhiều. Bằng một cách dẫn dắt rất riêng, nhà văn người Pháp không phơi bày tất cả hiện thực ra trước mắt người đọc. Ông kín đáo giấu nó vào sâu trong những câu chuyện tưởng chừng chẳng liên quan. Đó là cách Jean Rouaud định vị bản thân và làm mới những đề tài tưởng chừng đã cũ. Lịch sử của một quốc gia là một thứ rất vĩ đại, nhưng đôi khi nó được xây nên từ chính hồi ức của từng gia đình. *** Jean Rouaud sinh ngày 12/12/1952, ông nghiên cứu văn học hiện đại tại trường Đại học Nantes. Sau khi lấy bằng thạc sĩ, Jean Rouaud làm nhiều công việc khác nhau như bơm khí hay bán bách khoa thư y tế. Năm 1978, ông cộng tác với tòa soạn Presse – Océan. Sau khi chuyển đến Paris ông làm việc trong một hiệu sách rồi bán báo. Năm 1988, Jean Rouaud gặp Jérôme Lindon, giám đốc cũng là tổng biên tập của NXB Minuit, người đã phát hiện ra tài năng văn chương của ông. *** Tóm lại, đó là quy luật “Họa vô đơn chí” mà đột nhiên chúng tôi khám phá ra sự bí mật sắp đặt buồn thảm của nó – thực ra từ xưa điều bí mật này đã được phát hiện song mỗi lần bị che phủ lại được vén lên, vùi dập một cách phũ phàng, làm cho chúng tôi ngơ ngác, u mê vì buồn phiền. Chính ông ngoại đã bưng bít cái quy luật ấy theo phương cách chẳng mấy tác dụng: “Chúng mày hãy chôn nó vào góc sâu kín nhất trong đầu đi”. Nhưng sự việc thì tự nó cứ tiếp diễn, như học bài mãi mà chẳng thuộc. Và lời nói của ông như miếng đòn thừa chẳng ai để ý, song đối với ông thật cần thiết. Một buổi tối, chẳng có nguyên cớ gì, ông mắng chúng tôi một trận thậm tệ. Chuyện này có thể do tuổi tác, nhưng vào tuổi bảy mươi sáu, ai bắt ông phải nghe theo. Những dấu hiệu gần đây cho thấy ông đã lẩm cẩm so với vẻ ngoài ông cố tỏ ra. Một con người cổ lỗ, bí hiểm, khó gần và hay đãng trí. Sự lập dị cộng với vẻ cầu kỳ quá đáng trong cách ăn mặc cũng như phong thái khiến ông có gì đó giống người Tàu. Hình hài của ông cũng vậy, cặp mắt nhỏ nứt rạn, đôi lông mày dựng như góc các nóc chùa chiền, màu da vàng bợt không phải do gốc gác giòng giống Á châu mà vì hút quá nhiều thuốc lá, một loại thuốc cực hiếm chỉ còn thấy mỗi mình ông hút – gói thuốc xanh màu hạnh nhân, dòng chữ cũ rích, có lần chúng tôi hỏi thì ông trả lời là đã đem từ nước Nga xa xôi về, một lần khác, ông nói với một thái độ nghiêm túc là đã đưa về từ Pampelune[1]. Nhưng điều chắc chắn loại thuốc ấy không còn được sản xuất nữa vì sự độc hại chết người của nó. Song quả thực ông thích hút loại này, như chỉ dành cho riêng ông. Ông đốt hết điếu nọ đến điếu kia, cả khi đang lái chiếc 2 CV[2] chẳng khác nào một cuộc biểu diễn chế ngự dã thú ngẫu hứng. Cái đầu mẩu thuốc lá hút xong đang kẹp giữa hai ngón cái và trỏ thì điếu tiếp theo đã nằm ở khóe môi rồi.   Ông chú mục vào cái điểm đỏ đầu điếu thuốc hơn là bận tâm đến con đường, điều khiển xe phong thái nhẹ nhàng, từng lọn khói nhỏ ra, lan tỏa, hội tụ thành làn mỏng và chả mấy chốc trở nên đậm đặc, như một đám mây dày, đặc quánh bao quanh. Đầu hơi ngả ra phía sau, tránh lóa mắt, tay xua tan bớt khói thuốc, dương cùi chỏ nâng tấm kính cửa phía dưới, ném mạnh mẩu thuốc ra ngoài, mắt vẫn chẳng ngó ngàng tới lòng đường, ông tiếp tục điều khiển vô lăng một cách tùy tiện làm đám người đi đường chạy tán loạn: sự cẩn thận đã bị tuổi già làm cùn nhụt, hay sau một cuộc đời từng trải, đầy biến động, ông tự cho mình có cái quyền được miễn trừ nào đó. Rồi kết cục là chẳng mấy ai dám đi cùng xe với ông nữa. Mấy người anh em họ trẻ tuổi có lần đã bày trò (việc này đâu chỉ xảy ra vài lần) là cuốn quanh đầu một chiếc khăn phu-la hay chiếc cà-vạt mượn các ông bố và ngồi vào bên cạnh ông cụ, gào to lên rằng “Phi công cảm tử muôn năm”[3]. Dùng khăn vẫy cùng với những giọt nước mắt vờ vĩnh bày tỏ sự tử biệt có lẽ là tốt nhất. Mọi người nghĩ rằng xe chạy chậm thì chẳng có gì nguy hiểm cả, ấy thế mà mối nguy lại ở chỗ xe cứ liên tục chạy lấn vào vạch vàng, lảng sang tận phía đường bên trái, trườn cả lên bờ đường lở nham nhỏ. Chiếc 2 CV rung lên chuyển động một cách nặng nhọc qua ngã ba, ngã tư cực kỳ nguy hiểm để cuối cùng mọi người xuống xe mặt mũi tái xám như một lũ ma.   Những biện pháp tế nhị như dùng đèn chiếu ra hiệu cho ông phải đi cẩn thận chẳng có tác dụng gì sất. Vì cái vai trò ấy đã bị coi là không cần thiết, người ta thấy ở đây thái độ bất chấp mọi điều khiển - rồi điệu bộ quay chiếc vô lăng tưởng tượng trong không khí của người đi đường như nhắc ông thận trọng thật khôi hài. Chúng tôi biết ông có đủ mọi tính nết của một kẻ lăng xăng, nên chỉ mất thì giờ bắt ông phải cẩn thận. Chúng tôi kịp khoát tay ra hiệu cho ông rằng chướng ngại vật hiện chỉ còn cách vài centimét, ông chán nản nhìn qua làn khói thuốc, bình tĩnh chờ cái “pa-rơ-sốc” báo hiệu mối hiểm họa. Vì trò chơi ấy mà thùng xe bị bẹp dúm dó nhiều chỗ, méo mó cả cánh cửa. Chiếc xe mang biệt danh Bobosse đã từng chiến thắng vì thành tích méo mó. Dù luôn biết điều đó, ông vẫn tỏ ra hết sức thờ ơ lãnh đạm để không bị xúc động, trong suy nghĩ, ông đã coi chúng tôi chỉ là lũ trẻ ranh thò lò mũi xanh hay một cái gì đại loại như vậy. Có lẽ ông đã chế giễu thật sự.   Trời mưa như trút, một hiện tượng hiếm thấy ở vùng ven biển Đại Tây Dương,chiếc xe 2 CV nặng nhọc trườn lên trong gió thốc, lắc giật trong mưa gió tứ bề, như chiếc tàu buôn gặp nạn trên đại dương vì đã không tin vào dự báo thời tiết. Mưa xối ào ạt trên mui xe, tạo nên cảm giác chênh vênh, lo lắng. Sấm sét ầm ầm đe dọa, làm rung chuyển cái buồng lái nhỏ hẹp, như tiếng gọi từ đáy âm ty. Mới đầu là một giọt rồi đến hàng loạt giọt nhỏ li ti thấm qua trần xe, kết thành màng nước lớn dần lên nhanh chóng, dần dần, lung linh, rơi thẳng xuống đầu, tay, đầu gối chúng tôi. Và nếu như còn chỗ trống trên mặt ghế, nước mưa đọng lại, chảy thành rãnh, phải dùng khăn lâu khô mới ngồi được. Hệ thống đồng hồ cổ đo thời gian chạy bằng nước cứ loạn xị vì nước từ mọi phía chảy xuống tạo thành giọt không đều và rôi không đúng lúc. Nước mưa tóe ra từ các vết nứt nham nhỏ ở khe cửa. Cố gắng bắt chước ông, chúng tôi tỏ vẻ thờ ơ với cơn mưa bụi nhưng làm ướt đẫm chẳng khác một trận mưa rào, cùng ông điềm tĩnh xông pha trong bão táp như vượt qua một bức tường vô hình, xác minh “tất cả những cái ấy” (Thỉnh thoảng ông vẫn có lối diễn đạt nước đôi chán ngắt như vậy) thực ra xét cho cùng đó là một chuỗi định kiến, mà mưa gió chỉ là một lý do, đúng hơn là một nỗi gian truân, một tia sáng lấp lánh ảo ảnh toàn năng. Điều này chỉ phù hợp với những lúc tinh thần đạt đến độ hưng phấn tột đỉnh, thân xác nhẹ bềnh bồng lâng lâng - hay ít ra cũng ở trong những chiếc xe đầy đủ tiện nghi êm ru, không thấm nước mưa, tạo nên cảm giác như đang chu du trong một đám mây. Nhưng trong xe này, từ những cánh cửa hoen gỉ, rỉ sắt sùi lên, bắn vượn vãi những vết lấm ố vàng trên đệm ghế, phải thừa nhận trong suốt hàng chục kilômét thái độ của ông thật lì lợm và chỉ sau vài phút định thần theo lối ngồi thiền Yoga, ướt sũng, thấy thực tại quá tồi tệ, phũ phàng, ông mới chịu đựng những thứ quyền uy lễ giáo qua những việc đần độn đại loại như vậy tuổi thơ chúng tôi bị xô đẩy, mất thăng bằng trong sự phân rã mỏi mòn của cơ thể sống.   Những giọt nước nhỏ li ti thấm qua trần, bay xiên trong lòng xe làm tức tối khó chịu, kích thích trí tò mò và tạo nên không khí thật hài hước. Đợi chờ cái điều kỳ diệu là giọt nước bứt ra bay sướt qua người như trôi trên đầu vịt, kích động chúng tôi nghĩ ra trò đùa tinh nghịch với những giọt nước. Chúng bắn nhanh thẳng căng hoặc mềm mại, ngưng đọng thành giọt trước khi tham gia vào cuộc chơi. Những giọt nước rơi không chủ định vào khóe mắt, thái dương, gò má, hoặc nhằm thẳng vào lỗ tai, không thể tính được bao nhiêu giọt, một tham số cực kỳ phức tạp đến mức không có cách gì phòng ngừa trước được hay chí ít tìm cách chui đầu vào một chiếc túi. Cuộc chơi như trận thủy chiến thô sơ, đơn giản là khi một giọt nước mạnh hơn chạm vào làm chúng tôi giật bắn lên, mọi người chỉ cùng hét lên: “Chạm rồi”. Trận thủy chiến ấy tạo ra cảm giấc chúng tôi như những cái bia của một thiện xạ vô hình nào đó. Luật chơi duy nhất là trung thực, không được né tránh, phải tỏ rõ sức chịu đựng dày dạn trước những giọt nước vô hại. Và rồi một cuộc tranh cãi đã nổ ra xung quanh trò chơi này, tất nhiên vẫn giữ thái độ trong một giới hạn nhất định, không được bốc cao giọng. Vì trong chiếc 2 CV của ông là một nơi rất quan trọng - cho dù vỏ xe đã rách mướp thảm hại, khoang thì như một xà lim.   Chỉ một lần duy nhất ông tham dự vào cuộc chơi của chúng tôi, ấy là lúc một giọt nước rơi xuống treo trên đầu mũi ông trông như tàn hoa nến, rồi từ trong im lặng bật ra một câu nói ẩn ý, pha lẫn tính cách đe nẹt, một thứ giọng hiếm khi dùng: “Cái mũi hỏng quá”[4]. Ngay lập tức, chúng tôi nín bặt, mới đầu cảm thấy khó chịu vì bị người lớn gây phiền nhiễu can thiệp vào cuộc chơi, nhưng rồi khi ngạc nhiên qua đi, như tin tốt lành mách bảo rằng cậu bé già nua hư hỏng trong ông đã trở về nhà: ông chẳng có gì xa lạ, cũng đã có những trò chơi như chúng tôi, chúng tôi tưởng tượng đến tuổi thơ của ông với những kỷ niệm cũ càng - thế là để giảm bớt không khí nặng nề và cũng có thể để biểu thị một thứ uy lực trong lúc ông đang lơ đễnh, chúng tôi cười phá lên, phải thoát, song cái cười ấy cũng là để giấu diếm sự chậm hiểu của chúng tôi đối với trò chơi chữ: cái mũi này đã chấm dứt một cách lý tưởng chiến trận của chúng tôi, rồi khi không lý giải được mục đích cuộc chơi, chúng tôi đành chịu bó buộc lặp đi lặp lại mãi cái quy tắc đáng thương ấy. Trò nghịch nước ngẫu hứng trong chớp mắt, lời nói của ông đã làm cho cạn kiệt, tỏ rõ dứt khoát là không được tiếp tục nữa. Từ lâu, những mệnh lệnh kiểu ấy là một thứ biên bản ghi nhận những điều tỉnh ngộ của chúng tôi nhân các tai họa xảy ra trong gia đình: sữa trào ra khỏi xoong, đèn không đủ sáng, xe tuột xích, đồng hồ không lên cót. Lời nói ấy còn nhằm ngay cả với những người có trách nhiệm: “Cái mũi hỏng quá” với cha là lúc xe còn cách thị trấn vài kilômét thì hết xăng. Trước khi đi, ông đã trù liệu chuyện xăng dầu phải đủ đi đến nơi về đến chốn dù có phải chạy ngoằn ngoèo. Nếu ông đã đi du lịch chứng kiến nhiều việc thì ngôn từ diễn đạt của ông chắc hẳn đơn giản thông dụng hơn. Có lẽ phải tài tình lắm may ra một trăm năm tôi mới phục hồi được nguồn gốc ý nghĩa của cái nhóm từ ấy.     Mời các bạn đón đọc Chiến Trận của tác giả Jean Rouaud & Phạm Văn Ba (dịch).
Khát Vọng Đổi Đời
Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.
Không Chốn Nương Thân
Cuốn sách chứa đựng những vấn đề đương thời về cuộc chiến dai dẳng của loài người chống lại tội ác; sự cám dỗ, hy sinh và tồn tại; tình yêu và hy vọng… ngay lập tức thu được thành công đáng kể. Câu chuyện bắt đầu khi Llewelyn Moss tình cờ tìm thấy chiếc xe tải chất đầy ma túy và hơn 2 triệu USD tiền mặt. Khi Moss quyết định lấy đi số tiền cũng là lúc anh ấn nút khởi động cho guồng quay tội ác mà thậm chí cả luật pháp – thứ luật pháp còn tồn tại bên trong cơ thể già nua của viên cảnh sát trưởng Bell– cũng không thể ngăn cản. Cũng vì số tiền đó Moss phải trốn chạy sự săn đuổi của những tên trùm ma túy và Chigurh, tên tội phạm máu lạnh vô cùng độc ác thích quyết định số phận nạn nhân bằng trò chơi tung đồng xu. Moss có thể dừng cuộc truy đổi lại bằng cách giao nộp tiền cho cảnh sát hoặt chấp nhận sự giúp đỡ của Wells nhưng sự cán dỗ và sự nghi ngờ đã khiến anh tiếp tục dấn thân vào cuộc chạy chốn sự truy đuổi mặc dù anh biết điều gì sẽ xảy ra phía trước cho anh và gia đình của mình. “… Khi đứng lên khỏi chiếc ghế, anh rút ra xâu chìa khoá phòng giam. Anh đang cúi hơi thấp người thì Chigurh ngồi xổm luồn hai bàn tay bị còng phía dưới thân người mình cho đến phía sau đầu gối. Cùng lúc, hắn ngồi bật ra sau, luồn sợi dây xích dưới hai chân mình rồi lập tức đứng dậy mà không phải dùng nhiều sức. Đấy giống như là động tác hắn đã tập luyện nhiều lần. Hắn giáng hai bàn tay bị còng xuống đầu viên cảnh sát rồi nhảy lên, tống hai đầu gối vào sau gáy anh và kéo sợi dây xích lại. Cả hai ngã xuống nền nhà. Viên cảnh cố đưa hai bàn tay vào bên trong sợi dây xích nhưng không được. Chigurh chỉ nằm đấy dùng hai đầu gối giữa hai cnáh tay kéo lên hai chiếc còng và quay mặt đi. Viên cảnh sát đang dãy dụa, bắt đầu xoay lòng vòng ngang người, hai chân đá văng giỏ rác, đá chiếc ghế bay đi. Anh đá cánh cửa cho đóng lại, quấn tấm thảm nhỏ quanh hai người. Miệng anh phát tiếng ùng ục vì máu đang chảy ra. Anh đang bị bóp nghẹt bởi chính dòng máu của mình. Chigurh chỉ cần giật cho mạnh thêm. Đôi còng mạ kền cấn thấu đến xương. Động mạch chủ bên phải của viên cảnh sát vỡ tung, một vòi máu phun ra, chạm đến tường rồi chảy ròng xuống. Hai chân viên cảnh sát cử động chậm dần rồi ngưng lại. Thân người anh co giật. Rồi trở nên bất động. Chigurh nằm thở nhè nhẹ, hai tay giữ lấy người viên cảnh sát. Rồi hắn đứng dậy, tháo chùm chìa kháo từ thắt lưng viên cảnh sát mà mở khoá còng cho mình, giắt khẩu súng lục của viên cảnh sát vào lưng quần, rồi đi vào buồng tắm. Hắn cho vòi nước lạnh chảy trên hai cổ tay cho đến khi máu ngưng chảy, dùng răng xé tấm khăn lau tay băng bó hai cổ tay, rồi trở ra văn phòng. Hắn ngồi trên mặt bàn, dùng băng keo văn phòng băng bó vải khăn ở cổ tay, nhìn qua người đã chết đang há hốc mồm nằm trên sàn nhà. Xong xuôi, hắn rút chiếc ví của viên sảnh sát, lấy hết tiền cho vào túi áo mình rồi ném chiếc ví xuống sàn. Hắn nhặt lấy lọ khí của mình và khẩu súng gây bất tỉnh rồi đi ra ngoài cánh cửa, bước lên xe của viên cảnh sát, nổ máy, chạy ra con đường…” (Trích đoạn Không chốn nương thân) - “Những sắc thái của Dostoyevsky, Hemingway, và Faulkner cộng hưởng với sự hoà quyền của McCarthy trong cách thuật truyện gây say mê, lời đối thoại dấm dẳn và những màn hành động đầy lửa đạn và máu” – Booklist - Hội Thư viện Hoa Kỳ - “Tác giả là nhà văn đương thời vĩ đại nhất, và đây là quyển tiểu thuyết mà người ta phải đọc và nhớ mãi” – Houston Chronide - “Một câu chuyện kể chạy hết tốc lực như điên cuồng trên những bánh xe trong một cuộc đua với quỷ dữ trên sân khấu rộng như bang Texas” – The New York Times - “Tác phẩm giống như sự chẩn đoán cho một căn bệnh hậu thiên niên kỷ, một sự soi rọi hãi hùng của khoảng tăm tối đang lan đến” – Time - “No Country for Old Men khiến người ta muốn đọc không ngừng nghỉ. Đây là một tiểu thuyết có tính giải trí cao của một trong những nhà văn hay nhất” – The Washington Post. *** Tuần trước tui đã có bài review cho các bạn về cuốn sách “Ông Trăm Tuổi Trèo Qua Cửa Sổ Và Biến Mất” được viết bởi Jonas Jonasson. Tuần này tui sẽ viết về cuốn tiểu thuyết No country for old men, tên tiếng Việt được dịch thành “Không chốn nương thân” và được viết bởi tác giả Cormac McCarthy. Cuốn sách còn được chuyển thể thành phim vào 2007 và giành được giải thưởng Oscar danh giá. Giới thiệu sơ vậy thôi, quay lại với nội dung của cuốn tiểu thuyết này nhé. Câu chuyện xoay quanh những diễn biến giữa ba nhân vật Llewelyn Moss, kẻ sát nhân máu lạnh Anton Chigurth và viên cảnh sát trưởng Ed Tom Bell. Vào thời điểm những năm 1980 khi ma túy trở thành loại tội phạm nguy hiểm nhất, khi mà ranh giới giữa thiện và ác, giữa tốt và xấu bị xóa mờ, cũng là lúc mà câu chuyện bắt đầu. Mở đầu với khung cảnh sa mạc tây Texas, một kẻ giết người bí ẩn đang truy tìm lại số tiền 2 triệu đô bị mất trong một phi vụ mua bán ma túy. Llewelyn Moss, một cựu chiến binh ở chiến trường Việt Nam, người đang có một cuộc sống bình lặng, lại vô tình tìm thấy chiếc va li chứa 2 triệu đô tiền mặt giữa những chiếc ô tô và những thi thể sau một cuộc thanh trừng giữa các băng nhóm. Khi Moss lấy đi chiếc va li, cũng chính là lúc anh khởi động guồng quay tội ác mà ngay cả thứ công lý, luật pháp của viên cảnh sát trưởng già nua Bell cũng không thể ngăn cản. Từ giây phút đó, Moss trở thành con mồi của Anton Chigurth, kẻ sát nhân được thuê để lấy lại số tiền, người mà giết người không một chút ghê tay. Tiết lộ một chút về cốt truyện thế thôi. Các bạn hãy đọc để có thể tưởng tượng, cảm nhận rõ hơn về từng nhân vật, cũng như cuộc truy đuổi chéo giữa ba nhân vật Moss, Chigurth và cảnh sát trưởng Bell. Cuốn sách “Không chốn dung thân” hiện đang được đặt trong tủ sách SAHA ở thư viện trường mình nhé. *** Tôi đã đưa một tên trai trẻ vào phòng hơi ngạt ở Huntsville. Chỉ một người duy nhất là tên trai trẻ ấy. Việc tôi bắt giữ và khai báo. Tôi đi lên đấy, và đến gặp tên trai trẻ hai hoặc ba lần. Ba lần. Lần cuối cùng là khi hắn bị thi hành án tử hình. Tuy không vì nhiệm vụ bắt buộc nhưng tôi vẫn đi. Chắc chắn là tôi không thích đi chút nào. Hắn đã hạ sát một cô bé mười bốn tuổi và bây giờ tôi có thể nói với bạn rằng mình không hề muốn đến gặp hắn chứ đừng nói đến việc đi xem hắn bị thi hành án. Nhưng tôi vẫn đi. Báo chí tường thuật đấy là một vụ án mạng vì tình nhưng hắn lại bảo với tôi rằng không có tình yêu trong vụ này. Hắn đã hẹn hò với cô gái ấy, cô còn rất trẻ. Hắn mười chín tuổi. Hắn bảo tôi rằng từ lâu lắm rồi, mà hắn không nhớ từ lúc nào, hắn đã trù định giết ai đấy. Bảo rằng nếu không bị phát hiện thì hắn sẽ làm chuyện này lần nữa. Hắn bảo hắn biết mình sẽ sa xuống địa ngục. Chính cửa miệng hắn nói với tôi như thế. Tôi không hiểu sự thể ra sao. Chắc chắn là tôi không hiểu. Tôi nghĩ mình chưa bao giờ gặp một người như thế, khiến cho tôi tự hỏi phải chăng hắn là một mẫu người mới. Tôi nhìn người ta buộc hắn vào thành ghế và đóng cánh cửa lại. Dường như hắn lộ vẻ âu lo một tí về việc này nhưng chỉ có thế thôi. Tôi thật sự tin hắn biết rằng hắn sẽ sa xuống địa ngục. Tôi tin như thế. Và tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Hắn không phải là người khó bắt chuyện. Gọi tôi là Cảnh sát trưởng. Nhưng tôi không biết nói gì với hắn. Bạn nói gì với một người tự nhận là mình không có linh hồn? Tại sao bạn lại phải nói gì cơ chứ? Tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện này. Nhưng hắn chả là gì cả so với những chuyện sẽ xảy ra tiếp theo. Người ta nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Tôi không biết đôi mắt nào là cửa sổ đối với ai và tôi nghĩ còn lâu mình mới biết được. Nhưng ngoài kia có một nhãn quan khác về cuộc đời, có những đôi mắt nhìn theo nhãn quan ấy, và đấy là nơi sự việc xảy ra. Nó đã mang tôi đến một nơi chốn trong cuộc đời mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ đi đến. Ở nơi nào đấy ngoài kia có một nhà tiên tri sống mà tôi không muốn giáp mặt. Tôi biết nhà tiên tri ấy có thật. Tôi đã thấy hành động của ông ta. Một lần tôi đi ngang qua trước mắt ông ta. Tôi sẽ không bao giờ làm chuyện này nữa. Tôi sẽ không phó mặc mọi chuyện mà đi tìm ông ta nữa. Đấy không phải là do tôi đã già. Tôi mong thế. Tôi không thể nói rằng thậm chí đấy là việc bạn tự nguyện làm. Bởi vì tôi luôn biết rằng bạn sẽ sẵn lòng chết để làm chuyện này. Luôn là thế. Nghe ra không vẻ vang gì trong chuyện này nhưng bạn phải làm. Nếu bạn không làm, họ sẽ biết. Họ sẽ thấy ngay trong tích tắc. Tôi nghĩ nó giống như việc bạn muốn mình trở thành như thế nào. Và tôi nghĩ người ta sẽ phải đem tâm hồn vào chốn hiểm nguy. Tôi sẽ không làm thế. Bây giờ tôi nghĩ có lẽ mình sẽ không bao giờ làm thế. Mời các bạn đón đọc Không Chốn Nương Thân của tác giả Cormac Mccarthy.