Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Về Nơi Hoang Dã

"Có lẽ cũng như những đứa trẻ khao khát được khám phá thế giới hoang dã, tôi đã từng tưởng tượng mình đang ăn mặc như những nhà thám hiểm thường thấy trên TV, đầu đội mũ cứng, mặc quần áo kaki trắng ngà và đôi giày chuyên dụng. Tôi tưởng tượng ra mình đang đứng trước cây baobab, sờ vào vỏ cây thô cứng, áp tay vào thân cây mát rượi và ngước mắt lên nhìn ánh mặt trời chói chang của vùng đất châu Phi. Đối với tôi lúc bấy giờ, đó chỉ là ước mơ, và tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể thực hiện được ước mơ ấy. Vậy mà chỉ còn khoảng 20 tiếng nữa là tôi sẽ thực sự đến vùng đất đó, thực sự thực hiện ước mơ thưở nhỏ." Cuốn sách này ghi lại hành trình năm năm theo đuổi đam mê của nhà bảo tồn động vật hoang dã Trang Nguyễn. Từ lời hứa năm nào với chú gấu tội nghiệp bị nhốt lấy mật, cô gái 9x nhỏ bé quả cảm đã thực hiện những những chuyến đi xuyên địa cầu, đương đầu với những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, thậm chí cả căn bệnh ung thư khi đơn độc ở đất khách quê người. Đầy ắp thông tin về môi trường và tình cảm dành cho mẹ thiên nhiên, Trở về nơi hoang dã còn là một cẩm nang thiết thực về việc bảo vệ Trái đất thân yêu cho mỗi người. Cuốn sách được minh họa bởi họa sĩ Đào Văn Hoàng, một người tâm huyết và gắn bó sự nghiệp nghệ thuật với công tác bảo tồn động vật hoang dã. "Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm, và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp hết trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được." - Hồng Hoàng, Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) ***   Trang Nguyễn sinh năm 1990, là một nhà bảo tồn động vật hoang dã. Bắt đầu tham gia các hoạt động về bảo tồn động vật hoang dã vào năm 16 tuổi, Trang Nguyễn là người sáng lập và điều hành tổ chức WildAct tại Việt Nam. Hiện nay cô đang thực hiện các dự án bảo tồn động vật hoang dã ở Nam Phi, Campuchia và Việt Nam. Trang Nguyễn là đại sứ cho quỹ United for Wildlife của hoàng gia Anh. Năm 2018, cô nhận được giải thưởng Future for Nature cho các nhà bảo tồn động vật hoang dã quốc tế, lọt vào top 30 Under 30 Forbes Vietnam và Women of the Future – South East Asia. *** Điều phi thường làm nên một cuộc đời ý nghĩa Việc bảo tồn động vật hoang dã, việc nghiên cứu thực địa ở trong rừng đòi hỏi rất nhiều yếu tố về sức khỏe, sự kiên trì và lòng nhiệt huyết,… vượt qua mọi mặc cảm “Bọn con gái ở thành phố thì biết gì về rừng?”, “Con gái vào rừng thì làm được gì?”, “Có lội được sông không?” , “Nhìn gầy gò thế này thì làm được gì?” cơ hội được sống an nhàn như bao cô gái khác, Trang Nguyễn đã thực hiện lời hứa năm nào với chú gấu bị hành hạ, cô gái nhỏ quyết tâm bảo vệ động vật hoang dã. Những chuyến đi vô cùng khắc nghiệt, sự yêu thương động vật hoang dã được thể hiện qua từng câu chữ khiến người đọc vô cùng xúc động và khâm phục khả năng phi thường của tác giả. Đồng cảm hơn với thế giới tự nhiên Có thể với chúng ta, những màn xiếc thú, biểu diễn điêu luyện của những con vật ở sở thứ hay rạp xiếc đem lại sự thích thú thế nhưng bạn không biết đằng sau những màn biểu diễn ấy là những nỗi đau không ai thấu. Những con vật bị xiềng xích, đánh đập và thậm chí là bị bỏ đói trong quá trình luyện tập. Con người có cảm xúc và động vật cũng vậy. Thế tại sao chúng ta lại thờ ơ với những cảm xúc của động vật chỉ để có được giây phút vui vẻ cho chính mình? “Liệu chúng ta có sẵn sàng đánh đổi điều tuyệt vời mà thiên nhiên đang mang lại chỉ để mua vui bằng vài tiếng cười độc ác không?” Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý” (Albert Einstein) Thay vì chọn cuộc sống an nhàn như bao cô gái khác ở thành phố, những chuyến đi thực địa ở rừng, Trang Nguyễn hết sức đau lòng trước vấn nạn săn bắn động vật hoang dã trái phép, nạn chặt phá rừng, làm tổn hại nghiêm trọng đến mẹ thiên nhiên. Không chỉ những động vật hoang dã đứng trước nguy cơ diệt vong mà con người cũng sẽ phải trả giá cho những hành động làm tổn hại đến thiên nhiên. Những câu chữ mà Trang Nguyễn viết như truyền đến nguồn động lực cho chúng ta sống đúng đắn với thế giới tự nhiên. Cảm nhận của độc giả “Trang cũng quý hiếm như thiên nhiên hoang dã mà cô yêu, không chỉ bởi cô là một người Việt Nam với bộ hồ sơ đáng ngưỡng mộ với nền tảng giáo dục quốc tế và kinh nghiệm thực tế, mà còn bởi cô là phụ nữ. Không chịu khuất phục trước những định kiến xã hội, những gì Trang làm được có tính tiên phong và lan tỏa. Để nghành bảo tồn tiến xa hơn ở Việt Nam trong việc bảo vệ những loài quý hiếm đang bị đe dọa, không thể thiếu được những người như Trang.” - Josh Kempinski(Giám đốc Chương trình Việt Nam. Fauna & Folra International) “Cách viết, lối kể chuyện giản dị nhưng vẫn đầy màu sắc, đôi khi lại rất dí dỏm và đôi khi ngập tràn cảm xúc mãnh liệt, làm cho người đọc cứ bị cuốn hút để lật tiếp trang này tới trang khác, chắc chắn không phải là một kỹ năng mà nhà khoa học, nhà bảo tồn nào cũng có được” - Hồng Hoàng (Giám đốc Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển (CHANGE) Điều ý nghĩa mà cô gái nhỏ góp phần làm cho Thế giới thêm tốt đẹp Trích dẫn hay từ sách Hãy nhìn sâu vào thiên nhiên, bạn sẽ thấu hiểu mọi thứ rõ ràng hơn. (Albert Einstein) Tôi không muốn bảo vệ thiên nhiên, tôi muốn tạo ra một thế giới mà thiên nhiên không cần phải bảo vệ. (Khuyết Danh) Thiên nhiên lặng thầm mà tràn đầy tình yêu thương và khát vọng Tất cả đều biết nói, nếu lắng nghe bằng cả trái tim. Sự thật là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm. Lời kết Không chỉ là tinh thần dũng cảm theo đuổi đam mê mà chính sự phấn đấu để bảo vệ động vật hoang dã đã làm cho cuộc đời của Trang Nguyễn đáng sống hơn bao giờ hết. Hy vọng bạn sẽ không bỏ qua một cuốn sách ý nghĩa như thế này, hãy dừng một chút, lắng nghe thiên nhiên nhiều hơn để góp phần làm những điều tốt đẹp cho thế giới tự nhiên nhé. *** Mình thật sự có cảm tình với những người “tay ngang” viết sách, như là chị Trang – nhà bảo tồn, Dương Minh Tuấn – bác sĩ, hay nhiều người viết tự truyện về cuộc đời mình. Mình thấy ngôn ngữ nó giản dị, chân thành, không cầu kỳ hoa mỹ. Từ trái tim đến với trái tim. Văn phong của chị Trang đúng là không có gì quá đặc biệt, nhưng chính những câu chuyện, những trải nghiệm, chính sự chân thành của chị đã đủ để thu hút người đọc rồi. Cuốn sách này kể về hành trình của chị Trang trong vòng 5 năm, từ lúc bắt đầu là một cô bé sinh viên thạc sĩ mới chỉ 21 tuổi, đến khi cuốn sách kết thúc là một “người lớn” trưởng thành hơn, và chững chạc hơn ở tuổi 26. Bên cạnh đó cũng có những câu chuyện về đời tư của chị như lúc điều trị ung thư và mối tình đáng yêu của chị và Brian. Đọc những câu chuyện của chị, mình cảm nhận được tâm huyết với ngành bảo tồn, tình yêu tha thiết của chị với thiên nhiên, với động vật hoang dã. Không cần những từ đao to búa lớn, không cần phải nói suốt mình yêu thiên nhiên như thế nào. Đọc những điều chị viết, thấy những việc chị làm, là tình yêu đó truyền được cả sang mình, tình yêu mãnh liệt với thiên nhiên ngập tràn trong những trang sách của chị. Đọc mà rạo rực, mà muốn làm ngay cái gì đó tốt cho môi trường, thiên nhiên. “Trở về nơi hoang dã” được viết bằng nỗi khát khao được trải lòng, được truyền lửa, được sẻ chia. Không chỉ truyền tình yêu, đam mê mà chị còn chia sẻ nhiều kiến thức bổ ích mà thú thật là nhiều điều trước giờ mình cũng không biết. Chính chị cũng viết rằng mình sợ nếu cuốn sách trở nên phổ biến lại có nhiều bạn trẻ vào rừng để ‘thử’ cảm giác đi rừng, mà không hề trang bị đủ kiến thức để sinh tồn cũng như hiểu biết để không làm hại môi trường hoang dã. “Bạn chỉ muốn bảo vệ những gì bạn yêu, và bạn sẽ chỉ yêu những thứ mà bạn có thể hiểu.” Đọc sách mình hiểu hơn về thực tế nạn săn bắn động vật hoang dã. Những con số đáng sợ về nạn săn trộm và buôn bán động vật hoang dã, cả những câu chuyện buồn về những con thú non mất mẹ hay những con thú bị nuôi nhốt, hành hạ… Đọc thấy rất ‘thật’, mà thật rồi lại xót xa, lại thấy con người tham lam đến nhường nào, lại thấy mình thờ ơ ra sao. Mình buồn thay những con người tự cho mình cái quyền chà đạp giống loài khác, cho mình cái quyền tàn phá thiên nhiên. Một cuốn sách non-fiction hiếm hoi làm mình khóc. Khóc vì nghị lực của chị Trang, khóc vì những nỗi đau mà con người gây ra cho thiên nhiên, cho động vật hoang dã. Khóc vì đến cuối cùng chị vẫn theo đuổi, và còn tìm được một người đồng hành trên chặng đường dài phía trước. Thế giới cần thêm những người phụ nữ như chị. Cảm ơn chị vì đã không từ bỏ, và cảm ơn chị vì đã kể câu chuyện của mình. Cuốn sách còn là định hướng cho những người muốn dấn thân vào ngành bảo tồn. Trong suốt những câu chuyện của chị, chị đã chia sẻ rất thật về những khó khăn khi làm bảo tồn, đặc biệt là với phụ nữ làm ngành này. Một con đường không dễ để đi, nhưng nếu bạn có tâm huyết và tình yêu đủ lớn, thì cứ vững vàng bước tới. Nếu như bạn là một người có quan tâm đến động vật hay thiên nhiên nói chung, đây là cuốn sách hoàn hảo dành cho bạn. Nhưng dù cho bạn không hứng thú lắm thì mình nghĩ cũng nên thử đọc xem sao, bởi vì chắc chắn nó sẽ làm cho bạn quan tâm thôi. Tin mình đi! “ Có lẽ chúng ta không thể cứu được tất cả các muôn loài, nhưng nếu không cố gắng, chúng ta sẽ mất đi tất cả.” (Sir Peter Scott) Trích dẫn nổi bật của sách Trở về nơi hoang dã 1, “Sự thực là những cánh rừng chẳng quan tâm tôi là nam hay nữ, béo hay gầy, da sạm nắng hay da trắng. Thiên nhiên không đánh giá tôi là người thế nào qua vẻ bề ngoài của tôi, nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh thẳm, và đánh giá tôi bằng hành động của tôi, bằng cách tôi sống và điều tôi làm.” 2, “Chiều tà ở Châu Phi quả thực rất đẹp. Con nắng gay gắt đã tắt, chỉ còn lại màu đỏ cam, vàng rực cả góc trời. Không khí dịu xuống, cũng là lúc những loài động vật bắt đầu hoạt động nhiều hơn: những loài hoạt động về đêm ‘khởi động’ để chuẩn bị cho những chuyến đi săn, những loài hoạt động vào ban ngày cố vớt vát những tia sáng cuối cùng để uống nước, tắm bùn, rồi í ới gọi nhau trốn vào những bụi cây lớn để tránh thú săn mồi.” 3, “Liệu chúng đã nghĩ gì khi giương cung tẩm chất độc chết người để bắn chú voi già tội nghiệp? Cảnh Satao phải vật lộn với sự đau đớn, tiếng kêu cứu thống thiết của Satao liệu chúng có nghe thấy? Có lẽ khi ấy, những kẻ săn trộm chỉ nhìn thấy cặp ngà to khỏe của Satao…Lòng tham cuối cùng cũng chiến thắng tình người.” 4, “Những chú voi con nghịch ngợm đang chạy quanh voi mẹ với đôi tai dang rộng vì phấn khích. Thế rồi, tôi nhận ra Jumbo, chú voi khoảng 3 năm tuổi từng bị những người khách du lịch vô trách nhiệm phóng xe quá tốc độ trong khu bảo tàng đâm phải. Chú voi tội nghiệp tự lết đi đằng sau cả đàn, thỉnh thoảng lại dừng lại để nghỉ chân rồi lại vội vã lết đi. Tôi có thể thấy cả đàn đều rất nhẫn nại chờ chú: thỉnh thoảng chúng dừng lại, ngoái về phía sau để chắc chắn rằng Jumbo vẫn đang theo kịp đàn. Những chú voi khác lúc lắc đầu, rướn vòi về phía sau như kêu gọi, động viên Jumbo cố lên. Cả đàn cứ di chuyển chậm như thế, cho đến khi Jumbo dường như đã mệt lắm rồi, chú đi chậm hẳn lại, vung vẩy chiếc vòi với vẻ cáu kỉnh. Những thành viên khác trong đoàn đều dừng cả lại, ngoái nhìn, có cô tỏ vẻ sốt ruột, dùng chân đá đất khô ở dưới tạo thành những đám bụi nhỏ. Tôi thắc mắc liệu chúng có bỏ mặc Jumbo không nhỉ? Thế rồi, điều kỳ diệu xảy đến: một bạn voi khác trong đàn, có lẽ chỉ hơn Jumbo vài tuổi, đi từ từ về phía Jumbo. Cô bé ấy nhẹ nhàng đặt trán mình đối diện với trán Jumbo, như để tỏ vẻ thông cảm, rồi dùng vòi của mình quấn lấy vòi của Jumbo, và dắt Jumbo tập tễnh từng bước một, từ từ, chậm rãi đi về phía cả đàn. Đó, là tình cảm gia đình. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng, mạnh mẽ nhất mà nhiều khi thế giới loài người, vì bận rộn mà bỏ quên.” *** Và thế là tôi ngồi đó, cùng với nào ba lô, túi xách, võng, lều, nồi niêu, xong chảo và ti tỉ những vật dụng khác nữa, trong khi dân làng, từ đám trẻ nhỏ, đến phụ nữ, thanh niên, nam giới và người già lần lượt kéo đến, cùng với một đám gà qué thả rông của ai đó, tạo thành vòng tròn lớn, không ngại ngần nhìn tôi chằm chằm. Khỉ thật, tại sao tôi lại tự làm khổ mình như thế này cơ chứ? Tôi có thể như đám bạn cùng lứa ở nhà, đi làm ở một nơi nào đó ổn định, có mức lương kha khá, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó, chụp vài bức ảnh selfie, có một cậu bạn trai cao ráo, yêu thương mình hết mực, có lẽ là chuẩn bị tính đến chuyện lập gia đình, lấy chồng và sinh con. Tại sao tôi lại không nghe theo lời khuyên của bố mẹ, đi một con đường bằng phẳng và sống đơn giản hơn… Thay vào đó tôi bị tắc ở đây, một cái làng bé nhỏ ở nơi khỉ ho cò gáy mà tôi còn chả biết là ở đâu nữa, với một đám người hiếu kỳ lạ mặt đang kéo đến ngày một đông, với đám quần áo và ba lô bẩn thỉu dính đầy bùn đất, với những vết gai cào đầy trên tay và chân, với vết bầm tím do bị ngã trên đùi. Vừa tức, vừa bực, vừa tuyệt vọng và căng thẳng, nước mắt tôi bắt đầu ứa ra, chảy thành dòng trên khuôn mặt. Và ngay lập tức tôi hối hận vì đã khóc - đám người bắt đầu chỉ trỏ, cười ngạo nghễ nhìn tôi như thể họ đang xem xiếc thú! * * * Bốn tháng trước đó… Tháng Tư năm 2012 là khoảng thời gian ban nhạc người Ireland - Westlife có những liveshow cuối cùng để chia tay khán giả ngay sau khi công bố về chuyện tan rã của nhóm. Vốn là một fan ruột của ban nhạc này từ năm 1998, dĩ nhiên tôi cũng đã tự mua cho mình một vé xem liveshow ở London vào đầu tháng năm. Thế nhưng, nếu muốn xem buổi diễn này thì tôi sẽ phải trì hoãn chuyến đi thực địa gần hai tuần. Một điều mà những nhà bảo tồn nghiêm túc sẽ không bao giờ làm! Thầy Giuseppe đã nhìn tôi một cách rất nghiêm khắc, khi tôi cầm cái vé xem ca nhạc một cách đau khổ, cố gắng trình bày với thầy rằng thì là mà, tôi đã phải canh chừng giờ bán vé như thế nào để mua được vé chỗ đẹp, đã phải tiết kiệm tiền ra sao, và trên tất cả - đây là buổi hòa nhạc cuối cùng của Westlife! Nhưng dĩ nhiên ông thầy người Ý vốn dĩ chỉ yêu chuộng cà phê thượng hạng, nhạc thính phòng và dành cả đời để nghiên cứu về vượn cáo của tôi không thể nào hiểu được vì sao tôi lại nhiệt tình với một ban nhạc “vớ vẩn” sắp tan rã đến như thế! Cuối cùng thì sau ngày hôm ấy, tôi đã suýt khóc khi phải nhượng lại cái vé này cho một fan khác ở tận Manchester. Mấy đứa bạn tôi đã cười phớ lớ và an ủi tôi rằng đó là “sự hy sinh cao cả cho khoa học”. Còn thầy Giuseppe thì nói đó là “sự lựa chọn đúng đắn” để “sử dụng thời gian cho việc có ích hơn”. Điều cần làm ngay sau đó là phải đi tiêm chủng để phòng bệnh. Đây là một trong những điều bắt buộc dành cho những sinh viên nghiên cứu tại Anh để đảm bảo về sức khỏe khi đi thực địa. Đến Madagascar thì không cần phải tiêm phòng bệnh vàng da, nhưng vẫn phải tiêm chủng chống uốn ván, viêm gan A, viêm gan B và phòng dại. Bên cạnh đó tôi cũng phải đến phòng y tế của trường để xin thuốc uống chống sốt rét. Loại thuốc này thật rắc rối, vì mỗi ngày tôi đều phải uống vào một giờ nhất định. Và vì tôi đi ba tháng nên phải uống đủ lượng thuốc của bốn tháng (uống 2 tuần trước khi đi và 2 tuần sau khi về). Vì là con gái, nên chúng tôi cũng được khuyên rằng nên uống thuốc tránh thai. Một là nếu uống liên tục không nghỉ, thì chúng tôi có thể làm tạm mất kỳ nguyệt san trong vòng hai hoặc ba tháng khi đang ở trong rừng, mặc dù vậy tôi cũng phải nhấn mạnh rằng đây là do bất khả kháng vì nó không có lợi cho sức khỏe. Khỏi phải nói có tháng bất tiện như thế nào trong điều kiện không có nhà vệ sinh và nước sạch. Hai nữa là nếu có chuyện không hay xảy ra trong rừng, thì ít ra chúng tôi cũng vẫn được “bảo vệ” bằng cách này. Mời các bạn đón đọc Trở Về Nơi Hoang Dã của tác giả Trang Nguyễn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi - Nguyễn Tuân
Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng". Nếu như tập tùy bút "Sông Đà" được xem là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân về đề tài xây dựng CNXH thì tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" lại được xem là tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cả hai tác phẩm đều giống nhau là có cái tên nghe rất mộc mạc, đọc lên là thấy ngay được chủ đề, khác xa với cách đặt tít điệu đàng của nhà văn - kiểu như "Vang bóng một thời" trước đây. Tuy nhiên, tên sách mộc mạc thì mộc mạc vậy, song dồn nén trong đó là biết bao tâm huyết, trí tuệ, tình cảm. Có trường hợp, như với cuốn "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", để thu thập, tìm kiếm tư liệu, tác giả đã không ngại ngần đối mặt với hiểm nguy... Tập tùy bút Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi gồm có: Ở mặt trận Hà Nội Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta Nôen Mỹ Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi Nhớ Huế Sài Gòn tống Mỹ Bên ụ súng Hà Nội, một đám cưới phòng không Nó bê-năm-hai phố Khâm Thiên Tái bút (12-1973) Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng Đất cùng trời toàn cõi ta, từ đây sạch hẳn bóng nó Vậy mà đã một năm chiến thắng B.52 Đêm xuân năm Hổ này, nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ Những ai từng có mặt tại 51 Trần Hưng Đạo, trụ sở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam trong 12 ngày đêm năm ấy (1972), hẳn không quên được hình ảnh một lão nhà văn: Mỗi lần nghe tin B52 Mỹ đánh bom, với chiếc mũ sắt đội đầu (do báo Văn nghệ cấp cho cộng tác viên), ông lại tìm đến tận nơi xảy ra chiến sự để hỏi han, ghi chép. Lão nhà văn mặc dù đã ở tuổi ngoại lục tuần song vẫn có cách tác nghiệp như thể một phóng viên mặt trận ấy chính là nhà văn Nguyễn Tuân - tác giả của tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" nức tiếng một thời.   Lý do gì mà một tên tuổi như Nguyễn Tuân - người luôn được xem là một vốn quý của văn học đất kinh kỳ - lại quyết bám trụ với Thủ đô tới cùng, quyết không chịu đi sơ tán theo chủ trương của cơ quan? Nhà văn Ngọc Trai, trong cuốn "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" (NXB Hội Nhà văn, 2010) đã ghi lại lời tâm sự của cụ Nguyễn như sau: "Mình sống được như thế này là lãi rồi, cần trốn tránh làm gì nữa! Bây giờ mình Sống mãi với Thủ đô thôi". Nhà phê bình Mai Quốc Liên, trong một bài viết về nhà văn Nguyễn Tuân in trên tạp chí Hồn Việt cách đây ít lâu cũng ghi lại lời cụ Nguyễn: "Mình là người viết văn, nhà văn Việt Nam. Trong khi Thủ đô - trái tim của cả nước - lâm nguy mà mình bỏ Hà Nội mình đi, thì còn viết cái gì, mình còn ra gì nữa ông?".   Không chỉ vì sự gắn bó, thủy chung với Hà Nội, việc lão nhà văn quyết ở lại "Sống mãi với Thủ đô" (như tên một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) còn bởi bấy giờ, ông đang ấp ủ việc hoàn tất tập bút ký "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi". Cuốn sách đã được Hội Văn nghệ Hà Nội cho xuất bản ngay sau trận bom Mỹ cuối cùng chấm dứt (ngày 30-12-1972). Bài cuối cùng của tập sách là bài "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên" được lão nhà viết ngay sau khi B52 Mỹ trút bom rải thảm hủy diệt một trong những khu dân cư đông đúc nhất Hà Nội lúc bấy giờ (vào đêm 26, rạng ngày 27-12-1972). Điều này chứng tỏ ngòi bút Nguyễn Tuân đã ứng trực rất kịp thời, và việc ra sách cũng nhanh đến… kỷ lục.   Thật ra, "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" không chỉ nói về việc quân dân Hà Nội đánh trả và đánh thắng không lực Mỹ trong trận "Điện Biên Phủ trên không". Nhiều bài trong tập được Nguyễn Tuân viết ra từ mấy năm trước. Tập sách cũng không chỉ nói riêng việc Hà Nội đánh Mỹ (trong tập còn có bài "Sài Gòn tống Mỹ" và bài "Nhớ Huế" nói về cuộc tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở Huế). Bản thân bài "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cũng được Nguyễn Tuân viết trước đó 5 năm. Tuy nhiên, nếu không có những bài viết đề cập tới cuộc chiến long trời lở đất diễn ra ngay tại "trái tim của cả nước" suốt 12 ngày đêm năm ấy, hẳn cuốn sách sẽ không có được sức nặng như nó cần phải có. Và nếu không được ra mắt bạn đọc đúng thời điểm ấy, thì hẳn cái tên của cuốn sách cũng phần nào giảm ý nghĩa. Đó như thể một thứ Huân chương Chiến công kịp thời đính lên ngực Thủ đô vậy.   Liên quan đến tên gọi của cuốn sách, có một giai thoại vui. Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu (trong trường ca "Theo chân Bác"): "Ôi! Nụ cười vui của Bác Hồ/ Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to". Hình như trong tâm lý mọi người, chữ "giỏi" là cách nói của người bề trên khi nhận xét về người bề dưới, chí ít thì cũng là người lớn nói với trẻ con, thầy cô nói với học trò. Việc nhà văn Nguyễn Tuân dùng chữ "giỏi" để ngợi khen Thủ đô Hà Nội nghe ra có vẻ gì đó không… thuận?   Quả y như rằng, thoạt nghe cái tên này, nhà văn Tô Hoài đã yêu cầu tác giả phải… đổi.   Bấy giờ nhà văn Tô Hoài là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, là nơi cấp giấy phép cho in cuốn sách. Theo ý Tô Hoài thì đặt tên "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cứ y như mình "đang đứng ở bề trên mà ban khen cho Hà Nội vậy". Nguyễn Tuân nghe vậy nổi đóa: "Ba cái anh duyệt bài là hay chúa suy diễn. Tôi không có đứng trên đứng dưới cái gì sất, chỉ có điều là tôi không chịu được cái gì chung chung. Tôi nói Hà Nội ta là Hà Nội của chúng ta đây! Hà Nội của ta đây! Tôi tự hào với cái Hà Nội của ta, thế có được không? Thế còn đánh Mỹ giỏi thì phải nói rõ ra là đánh Mỹ giỏi chứ chỉ đánh Mỹ thì ai biết ta đánh Mỹ như thế nào? Một cái tên sách, nó cũng là cái tên sách của tôi, sao ông cứ bắt tôi phải giống mọi người? Nếu ông làm biên tập mà cứ muốn gọt tôi cho tròn vo như vậy, không có cá tính không còn gì của riêng tôi nữa thì thôi, để sách đó, tôi không in nữa". Tô Hoài nghe vậy đành chịu (xem "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" của Ngọc Trai).   Tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" trong lần in đầu gồm cả thảy 11 bài, dài ngót hai trăm trang, nội dung cơ bản đề cập tới cuộc đối đầu của quân dân Hà Nội với không lực Mỹ (có tới hơn 30% tên bài chỉ đích danh giặc lái Mỹ như: "Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội", "Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái tết ta", "Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán", "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên"). Có bài, như bài "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào", tên thì vậy song nội dung cũng chủ yếu xoay quanh cuộc thẩm vấn của lão nhà văn với một phi công Mỹ - tức Thượng nghị sĩ John McCain hiện nay, người vào năm 2008 từng là ứng viên Tổng thống Mỹ. Đây là bài viết dài nhất trong tập và theo suy nghĩ của cá nhân tôi - cũng là bài viết đặc sắc nhất trong "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi".   Nhiều người đã biết, máy bay của phi công John McCain đã bị bắn rơi ngày 26 - 10 - 1967 khi thực hiện phi vụ đánh bom Hà Nội. Khi nhảy dù, John McCain rơi xuống hồ Trúc Bạch và được dân quân tự vệ của ta vớt lên, đưa tới bệnh viện. Sau này, ông John McCain từng có những phát biểu "tiền hậu bất nhất" về cách hành xử của các cán bộ quản giáo Việt Nam đối với ông thời kỳ ông là tù binh chiến tranh ở Việt Nam. Và đã có lần ông phải lên tiếng xin lỗi Chính phủ và nhân dân Việt Nam về những phát biểu đó.   Bài tùy bút "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào" của nhà văn Nguyễn Tuân đã phơi mở cho chúng ta thấy chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam trong việc đối xử với tù binh nói chung và với cá nhân Thiếu tá phi công John McCain nói riêng. Trong bài tùy bút, Nguyễn Tuân gọi McCain theo cách ông phiên âm ra tiếng Việt là Mích Kên. Ông kể, khi ông đến để "hỏi chuyện" Mích Kên, bác sĩ đã dặn ông là Mích Kên còn mệt, cần cho an dưỡng nên bớt cho ông ta những câu hỏi hóc búa, chưa nên để Mích Kên "phải động não suy nghĩ nhiều". Và nhà văn già "tôn trọng lời dặn của bác sĩ, tôi đành tạm cất đi mấy câu đó" (tức mấy câu phỏng vấn "chát chúa").   Khi Mích Kên ngỏ ý "Xin ông một điếu thuốc lá", thì nhà văn lớn của Việt Nam trực tiếp cắm thuốc và bật diêm cho Mích Kên hút. Theo mô tả của Nguyễn Tuân thì hành động của ông đã khiến viên phi công Mỹ phải nhiều lần nghển đầu cảm ơn. Cũng tại cuộc "chất vấn" này, Nguyễn Tuân đã nói cho Mích Kên hay, việc ông ta còn sống sau lần máy bay bị bắn hạ không phải vì "Chúa Trời nào đã cứu sống anh đâu mà chính là vì những người dân Hà Nội chân chính đó đã hết sức tôn trọng phép nước đối với tù binh Mỹ bị bắt sống".   Theo phân tích của Nguyễn Tuân, những người bơi ra vớt Mích Kên ở hồ Trúc Bạch hôm ấy hoàn toàn có thể giết chết ông ta vì họ từng là nạn nhân của bom đạn Mỹ. Cuối buổi trò chuyện, Mích Kên thổ lộ "Có lẽ sau này tôi sẽ xin đi làm quản lý ở một công ty nào" và "Tôi là một người đang thấy cần phải có hòa bình và mong chiến tranh kết thúc". Ra về, Nguyễn Tuân đã để cả chỗ thuốc lá còn lại cho Mích Kên.   Đọc tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", điều ta nhận thấy trước nhất là tác giả rất chịu khó thu thập thông tin khiến cho câu chuyện luôn đầy ắp các dữ liệu và rất sinh động. Nghệ sĩ nhân dân Đình Quang, trong bài "Nâng chén rượu xuân, nhớ nhà văn Nguyễn Tuân" (sách "Tạp văn", NXB Sân khấu, 2012) cho hay: Một lần cụ Nguyễn chống ba toong đến nhà ông chơi. Cụ đưa ra cho Đình Quang một tờ báo tiếng Đức, bảo Đình Quang dịch xem người ta nói về khách sạn Hilton thế nào. Cụ Nguyễn hỏi đi hỏi lại từng chi tiết rồi lặng suy nghĩ. Chỉ tới khi "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" ra đời, Đình Quang mới hiểu: Cụ Nguyễn muốn tìm hiểu ngọn ngành một địa chỉ trước khi nhắc tới nó trong trang sách của mình. Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng"  *** Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) quê ở Hà Nội, là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, sở trường về tùy bút và kí, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụngtiếng Việt. Hà Nội có một con đường mang tên ông. Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). Mời các bạn đón đọc Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi của tác giả Nguyễn Tuân.
Sen Nở Trời Phương Ngoại
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh. Kinh Pháp Hoa là một kinh rất nổi tiếng, có thể nói là một kênh nổi tiếng nhất của đạo Bụt Đại Thừa. Tư tưởng tôn xưng kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh đã có từ lâu. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và biến thành một Giáo hội thực sự với việc tuyên thuyết hai thông điệp chính: (1) Tất cả chúng sinh đều có thể thành Bụt, (2) Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh buổi ban đầu. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sinh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Ðiều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp. Với Sen nở trời phương ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong từng Phẩm, để quý vị độc giả có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên Thiền sư sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, Người cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này. *** Tóm tắt Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm giảng giải kinh Pháp Hoa, một trong những kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa được xem là "vua của tất cả các kinh" và chứa đựng những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, bao gồm: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Cuốn sách được chia thành 25 chương, tương ứng với 25 phẩm của kinh Pháp Hoa. Mỗi chương sẽ tóm lược nghĩa chính của từng phẩm, khai triển và diễn dịch những điều căn bản trong từng phẩm, để giúp độc giả có một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Review Cuốn sách được viết theo một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với cả những người mới bắt đầu tìm hiểu Phật giáo và những người đã có kinh nghiệm. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng nhiều ví dụ và hình ảnh minh họa để giúp người đọc dễ dàng hiểu được những khái niệm trừu tượng của giáo lý Phật giáo. Cuốn sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về kinh Pháp Hoa. Người đọc sẽ hiểu được những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, cũng như cách áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày. Một số đánh giá của độc giả "Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" đã giúp tôi hiểu được những giáo lý cao đẹp của kinh Pháp Hoa. Tôi đã áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày và thấy cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa hơn."  "Cuốn sách giúp tôi hiểu được con đường tu học Phật giáo Đại thừa. Tôi đã quyết tâm đi theo con đường đó để đạt được giác ngộ."  "Cuốn sách là một tác phẩm tuyệt vời. Nó đã giúp tôi mở mang tầm hiểu biết về Phật giáo."  Kết luận Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" là một tác phẩm đáng đọc đối với tất cả những ai quan tâm đến Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa. Mời bạn đón đọc Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Châu Âu Có Gì Lạ Không Em?
Cuốn sách là những ghi chép và mô tả của tác giả về hành trình du lịch của bản thân qua một số quốc gia châu Âu, từ đó chia sẻ những trải nghiệm chân thực và mới mẻ về văn hóa, lịch sử, ẩm thực và con người nơi xứ lạ.  Châu Âu có gì lạ qua đôi mắt của Misa Gjone? Đó là một châu Âu cổ kính với những công trình kiến trúc lâu đời. Đó là một châu Âu đáng yêu với những sắc màu rực rỡ của chậu phong lữ, trái rừng chín mọng. Đó là một châu Âu sôi động với hội hè miên man; những lần đi hytte, những buổi fika cùng gia đình và bạn bè. Đó còn là một châu Âu đầy “tội lỗi” với những cô nàng mang ánh mắt khắc khoải trên phố đèn đỏ, những mảng sáng – tối đối lập chan chát của cuộc sống hiện đại… *** Review của #RinBaBa về sách Châu Âu Có Gì Lạ Không Em:   Cuốn sách này ngọt ngào hơn mình tưởng. Làm mình nhớ tới bộ phim "Me before you". Tự dưng thế thôi! Mình đã đi Châu Âu bao giờ đâu, nhưng xem phim ảnh thì cũng thấy vài nơi. Tuy vậy, xem và trải nghiệm khác nhau lắm. Qua đôi mắt của tác giả thì Châu Âu trong cảm nhận của mình không còn mang vẻ lạnh lùng và xa lạ nữa. Châu Âu lạ lắm, lãng mạn, êm đềm và say say lòng như những cơn gió thu. Mới đọc vài bước trong hành trình của tác giả thôi. Yêu lắm! Tối nay ôm đọc hết. *** Đã từng có một thời, tôi mê mẩn những cuốn sách du ký của các tác giả hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Thế giới hiện lên một cách sống động, chân thực và đầy góc cạnh sáng tối qua ngòi bút của họ. Bây giờ, tôi vẫn đọc những cuốn sách như thế, của các cây bút trẻ hơn và tôi cũng bắt đầu dành sự quan tâm lớn hơn cho các tác giả Việt. Sách của họ bắt đầu dày lên, chiếm nhiều diện tích hơn trong những thư viện, hiệu sách, ở khu mà tại các hiệu sách lớn của nước ngoài luôn là khu rất lớn, phía trên có gắn dòng chữ “travel”. Không nghi ngờ gì nữa, người Việt ngày càng đi nhiều ra thế giới. Họ không chỉ đi, ngắm nghía, trải nghiệm, thu nhận những điều hay ho, tích cực (và cảm nhận cả những điều tiêu cực), họ còn viết nữa. Đương nhiên, không phải ai trong số họ cũng là nhà văn. Nhiều trong số họ là du học sinh hoặc người Việt sống ở nước ngoài và họ viết rất khác với những tác giả du ký phương Tây. Bởi họ là người Việt, họ nhìn thế giới qua góc nhìn, văn hóa, ngôn ngữ và cảm nhận của người Việt. Đấy không phải là những cuốn sách nghiên cứu về thế giới mà là tập hợp các ghi chép lại về những nơi họ đã đi qua, những gì họ đã ăn, những người họ đã yêu hoặc ghét, những kỷ niệm họ đã có. Họ chính là cầu nối giữa người Việt ở trong nước với thế giới, đưa độc giả theo chân họ ra nước ngoài và truyền cho độc giả cảm hứng đi. Lê Thị Ngọc Quyên hay Misa Gjone, cũng không phải là một nhà văn. Nhưng cô gái trẻ này từ lâu đã được nhiều người biết đến qua blog mang biệt danh của cô. Đấy không phải là một nơi post ảnh đẹp và những dòng văn hay mà là một cửa sổ đưa độc giả ra thế giới, cũng là một kênh để cô trải lòng mình sau những chuyến đi. Tôi đã có lần vào đọc blog của cô và nghĩ: Thật tiếc nếu Quyên không in những câu chuyện của mình thành sách nhỉ? Bây giờ thì câu hỏi ấy đã có lời đáp. Quyên đã in sách và đó chính là cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay, viết về những hành trình mà cô đã đi trong nhiều năm, qua rất nhiều nơi ở châu Âu - nơi hiện cô đang sống cùng với gia đình nhỏ của mình. Tôi, người cũng đã sống và làm việc ở châu Âu nhiều năm và phải thừa nhận rằng: Quyên không thể có những ghi chép sâu sắc đến thế về châu Âu, nếu không yêu nơi này bằng cả trái tim. Đấy là những thành phố ở Đức; là ngày hội ở Ý, trong những thành phố nhỏ; là đêm không ngủ ở Budapest; là thành phố ánh sáng Paris; là dòng Vltava ở Czech; là Na Uy, quê hương thứ hai của cô... Rất, rất nhiều những hành trình đã được viết ra, được kể một cách chi tiết, để độc giả có thể thấy, có thể cảm nhận được những hơi thở của cuộc sống ở đó, thông qua hình ảnh về những con người, những hoạt động văn hóa nghệ thuật. Điều ấy cho thấy tác giả không chỉ là người yêu thích cuộc sống ở khắp nẻo châu Âu mà còn khá am hiểu về những nơi cô đã đi qua. Không phải ai cũng làm được điều ấy. Không phải tác giả Việt nào, kể cả các nhà văn đã từng viết về châu Âu, cũng có được cái nhìn sâu sắc đến thế. Nếu bạn tìm kiếm trong cuốn sách này những chỉ dẫn du lịch, chắc chắn bạn sẽ không thấy. Những chỉ dẫn đó bạn có thể thấy trong blog Misa Gjone của cô. Quyên là một người thích chia sẻ kinh nghiệm du lịch cho người Việt trên blog cá nhân, nhưng cuốn sách này là một tập hợp những bài viết thể hiện cảm nhận của tác giả về những nơi cô đã đi qua, đã in đậm các cảm xúc trong trái tim cô, một người đã đi trên những cung đường châu Âu từ những năm còn rất trẻ. Tôi cũng đi từ khi còn trẻ, nhưng tôi đến châu Âu vẫn còn sau Quyên và tôi cũng hơi ghen tị với Quyên về những cung đường và cảm nhận mà cô đã có ở đó, khi mới tuổi 20...   - TRƯƠNG ANH NGỌC Nhà báo, tác giả du ký   *** Một ngày cuối tháng 10 năm 2007, tôi lúc đó đang học năm nhất đại học, được mẹ chở đến nhà sách Xuân Thu trên đường Đồng Khởi, Quận 1 để mua hai quyển sách: Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương và Oxford thương yêu. Những chuyến đi ngang dọc châu Âu của cô sinh viên Giáng Uyên cùng câu chuyện tình lãng mạn của Kim và anh chàng Fernando “bạn trai nhà người ta” đã nuôi lớn giấc mơ du học của tôi từ lúc đó. Suốt những năm đại học, tôi vùi đầu vào sách giáo khoa cùng các đầu sách tiếng Đức vừa hiếm vừa đắt đỏ để nâng cao kiến thức và vốn từ vựng chuyên ngành. Công sức học hành cuối cùng cũng được đền đáp. Tôi lần lượt tham dự các khóa học trao đổi ngắn hạn ở Đức và Ý, đều là học bổng toàn phần do chính phủ các nước cấp cho sinh viên nước ngoài. 22 tuổi, lần đầu tiên tôi biết đến châu Âu, biết đến những thành phố cổ kính, làng mạc thanh bình và những chuyến xe lửa cao tốc chạy êm như ru xuyên qua biên giới các nước. Ở Đức, tôi sống ở ngoại ô thành phố Düsseldorf, trong căn phòng nhỏ cùng hai cô bạn - một Thái Lan, một Phần Lan. Hằng ngày, tôi cùng một anh chàng Phần Lan cao lêu nghêu ở phòng bên cạnh chạy đua với chuyến xe lửa luôn đến trễ đúng năm phút để đến lớp học. Ở Ý, tôi sống ba tháng với một cô bạn người Ấn Độ trên căn gác xép một ngôi nhà cũ ở Porta Pesa, trải đủ mọi vui buồn hờn giận với cô bạn khác màu da và bất đồng ngôn ngữ. Ngày chia tay, tôi đi trước vào buổi sáng, bỏ lại cô nàng ngồi ôm gối khóc hu hu như đứa trẻ. Trở về Việt Nam vào tháng 9 năm 2011, tôi bắt đầu cuộc sống của một cô gái văn phòng sáng xách túi đi, chiều tối muộn xách túi về. Một buổi trưa nọ, lúc đang ngồi ăn cơm, mẹ tôi bỗng kể: “Hồi trước lúc con còn ở Ý, bà bán tàu hũ ngày nào cũng đi ngang qua đây, có bữa hỏi mẹ sao không thấy con cháu đâu, chỉ có hai ông bà già ngồi ăn cơm một mình như vầy”. Bữa trưa hôm đó, tôi ăn cơm mà lòng buồn rười rượi. Giấc mơ du học vẫn chưa nguôi ngoai, phần vì bốn tháng ngắn ngủi ở châu Âu chưa thể gọi là đủ để tôi trải nghiệm cựu lục địa, phần nữa vì tôi có ý định học tiếp cao học để củng cố kiến thức và chuẩn bị cho con đường tương lai. Tôi âm thầm tìm kiếm thông tin học bổng toàn phần của các nước châu Âu để tìm được khóa học thích hợp nhất với mình. Tháng 4 năm 2014, tôi là một trong tám sinh viên Việt Nam nhận học bổng toàn phần cho khóa học cao học tại Thụy Điển. Vậy là tôi lại khăn gói lên đường. Cuộc sống sinh viên ở nước ngoài không hề dễ dàng như tôi tưởng dù không phải lo toan về vấn đề tài chính. Cách học thụ động ở Việt Nam khiến tôi mất một khoảng thời gian mới có thể đuổi kịp phong cách năng động và dân chủ ở châu Âu. Tôi kết thân với vài người bạn: chị H. là đồng hương Việt Nam cũng là bạn chung nhà với tôi suốt thời gian ở Gothenburg, M. là người Palestine lấy chồng cũng là đồng hương ở Thụy Điển và một số bạn bè người Đức, Thụy Điển khác. Những tháng ngày sinh viên vô âu vô lo cộng với túi tiền rủng rỉnh giúp tôi có cơ hội du lịch một số nước trong khu vực Schengen. Sau mỗi chuyến đi, tôi gom góp thông tin và hình ảnh rồi viết bài đăng báo ở Việt Nam. Trước khi sang Thụy Điển, tôi từng làm biên tập viên mục Du lịch cho tòa soạn báo Thế giới văn hóa online. Vì vừa là người biên tập vừa viết bài nên tôi thấu hiểu tâm trạng của các cộng tác viên báo giấy: Người viết thì đầu tư nội dung thật nhiều, viết thật dài nhưng khi tới tay biên tập thì bài bị cắt cho... thật ngắn để vừa với “đất” của chuyên mục. Sau bao nhiêu năm vừa làm “kẻ cắt” vừa làm “người bị cắt”, tôi quyết định lập một trang web du lịch cho chính mình, nơi tôi có thể viết thoải mái mà không lo bị cắt chữ. Website ban đầu chỉ là nơi đăng lại những bài du ký, sau trở thành nơi tôi chia sẻ kinh nghiệm du lịch đây đó, các hàng quán ngon hay những típ hay ho mà tôi học được trên đường thiên lý. Khi nhận được lời mời hợp tác xuất bản từ Sống, tôi mới có dịp để xem lại hết toàn bộ gia tài viết lách của mình từ năm 2012 đến nay. Khi biên tập lại những bài viết này, tôi ngỡ ngàng bởi sự thay đổi trong cuộc sống của chính mình được thể hiện qua nhiều chi tiết rải rác và câu chữ trong các bài viết ấy. Từ một cô sinh viên mới ra trường “chân ướt chân ráo” đến châu Âu lần đầu cho đến khi tôi lập gia đình và trở thành mẹ, từ những ngày ngơ ngác đi sai trạm xe lửa ở Đức cả nửa tháng trời cho đến khi trở thành blogger du lịch rong ruổi khắp châu Âu với chiếc ba lô tím sờn và chiếc máy ảnh Olympus cũ mèm. Để lưu lại hành trình ấy, các bài viết trong du ký Châu Âu có gì lạ không em? sẽ được sắp xếp theo trình tự thời gian được viết thay vì theo quốc gia. Mời bạn, cùng tôi đi qua những miền đất lạ.   - MISA GJIONE Na Uy, 4/4/2019   
Hồi Ký Chiến Tranh - Charles de Gaulle
Charles de Gaulle là một vị tướng kiêm chính trị gia người Pháp; ông là người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do trong Thế chiến II và là nhà kiến trúc đại tài, người đã xây dựng nên Đệ ngũ Cộng hòa. Tư tưởng chính trị của ông – được gọi là “Gaullism”(chủ nghĩa De Gaulle) – đã và vẫn có những ảnh hưởng to lớn lên chính trường Pháp. Charles de Gaulle sinh ngày 22 tháng Mười một năm 1890 tại Lille và lớn lên tại Paris, nơi cha ông làm giáo sư sử học. Tuy nhiên, de Gaulle không nối nghiệp cha mà lựa chọn binh nghiệp. Ông đã chiến đấu can trường trong Thế chiến I. Trong thập kỷ 1930, de Gaulle viết sách và báo về các chủ đề quân sự, qua đó ông phê phán việc nước Pháp quá phụ thuộc vào Phòng tuyến Maginot để phòng thủ trước quân Đức và kêu gọi thành lập các quân đoàn thiết giáp cơ giới hóa. Nhưng những lời kêu gọi của ông đều rơi vào chân không. Tháng Sáu năm 1940, các lực lượng Đức Quốc xã đã đánh bại Pháp một cách dễ dàng. Không cam chịu chấp nhận thỏa thuận đình chiến của chính phủ với Đức, de Gaulle chạy sang London. Tại đây, ông đọc lời kêu gọi nhân dân Pháp đứng lên đánh đuổi quân xâm lược và tuyên bố thành lập chính phủ Pháp lưu vong. Ông trở thành người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do. Sau khi Paris được tự do vào tháng Tám năm 1944, de Gaulle trở về và được chào đón như một vị anh hùng dân tộc. Trong những năm tháng tiếp theo, ông là trụ cột trong công cuộc khôi phục vị thế nước Pháp trên trường quốc tế cả về mặt kinh tế và quân sự. Bộ ba cuốn Hồi ký chiến tranh là những tâm sự chân thành của Tướng Charles de Gaulle về con đường ông đã trải qua để vực dậy nước Pháp. Qua ngòi bút bậc thầy, hiện thân của nền văn học hiện đại Pháp, chúng ta cảm nhận được lòng yêu nước sắt son của de Gaulle, sự đơn độc mà ông đã trải qua khi những dự đoán, phân tích và đề xuất thống thiết của ông với nhà nước đều bị chối bỏ, nỗi gian truân và cả sự thất vọng trong những ngày tháng tha hương. Với những ảnh hưởng lớn về tư tưởng mà ông đã để lại trên chính trường nước Pháp cho đến ngày nay, cuốn sách này là một kho tư liệu quý nhằm diễn giải những lý do đằng sau những hành động của vị tướng đồng thời cũng là một vị chính khách tài ba này. Không giống với những nhân vật của công chúng khác, de Gaulle tự tay viết nên cuốn hồi ký này. Và lối viết tao nhã đầy tính văn chương của một vị tướng từng vào sinh ra tử đã lập tức khiến Hồi ký chiến tranh được công nhận là cuốn sách kinh điển trong nền văn học hiện đại Pháp; không những thế, cuốn sách còn được đề cử giải thưởng Nobel Văn học năm 1963. Alpha Books trân trọng giới thiệu! *** Trọn đời tôi, tôi luôn nghĩ về nước Pháp với một niềm đinh ninh được vun bồi bằng cả tình cảm lẫn lý trí. Một cách tự nhiên, con người tình cảm trong tôi hình dung rằng nước Pháp, giống như nàng công chúa trong những câu chuyện cổ tích hay Đức Mẹ trên những bức bích họa, đã được định sẵn một số phận cao quý và phi thường. Bằng trực giác, tôi có cảm tưởng rằng Đấng Sáng Thế đã tạo nên Người cho những thành công tuyệt đích hoặc những nghịch cảnh tận cùng. Nếu trong hành động của Người có dấu vết của sự tầm thường thì với tôi, đó là một ngoại lệ kỳ quặc do lỗi của người Pháp gây nên chứ không nằm ở linh hồn Tổ quốc. Nhưng con người lý trí trong tôi cũng lại cho tôi thấy rằng nước Pháp chỉ thật sự là chính mình khi ở hàng đầu; rằng chỉ có những sự nghiệp lớn lao mới có thể bù đắp cho những mầm mống chia rẽ nơi bản thân dân tộc; rằng đất nước tôi, như Người vẫn thế, ở giữa những quốc gia khác, như họ vẫn vậy, trước những hiểm nguy chết người vẫn phải hiên ngang đứng thẳng và vươn cao. Tóm lại theo tôi, nước Pháp không thể là nước Pháp thiếu sự vĩ đại. Niềm tin này đã theo tôi lớn lên trong môi trường tôi ra đời. Cha tôi, con người của tư duy, của văn hóa, của truyền thống, đã thấm nhuần ý thức về phẩm cách của nước Pháp. Ông đã mở ra cho tôi lịch sử của tổ quốc. Mẹ tôi dành cho tổ quốc một niềm đam mê không gì lay chuyển nổi, sánh ngang với lòng sùng đạo. Đối với ba anh em trai của tôi, chị gái tôi, và bản thân tôi, lòng tự hào rộn ràng đối với tổ quốc tồn tại như một bản năng thứ hai vậy. Là chú bé gốc tỉnh Lille sống tại Paris, không gì gây ấn tượng cho tôi bằng những biểu tượng vinh quang của dân tộc chúng tôi: đêm xuống trên nhà thờ Đức Bà, vẻ huy hoàng của buổi chiều Versailles, Khải Hoàn Môn dưới ánh mặt trời, những lá cờ thuộc địa run rẩy trên vòm điện Invalides. Không gì khiến tôi xúc động hơn những bằng chứng về thành công của dân tộc chúng tôi: sự nhiệt tình của dân chúng lúc sa hoàng nước Nga đi qua, cuộc duyệt binh ở Trường đua Longchamp, những kỳ quan trong cuộc Triển lãm Quốc tế, những chuyến bay đầu tiên của các phi công của chúng tôi. Không gì khiến tôi buồn sâu sắc hơn những yếu đuối và sai lầm của dân tộc mà tuổi thơ tôi cảm nhận được qua những khuôn mặt và những câu chuyện của người lớn: sự kiện Fashoda [1], sự kiện Dreyfus [2], những xung đột xã hội, những bất đồng về tôn giáo. Không gì làm tôi xúc động bằng câu chuyện về những nỗi bất hạnh của chúng tôi trong quá khứ: cha tôi kể về cuộc phá vây vô vọng ở Le Bourget và Stains [3], nơi ông bị thương; mẹ tôi nhớ về nỗi thất vọng của bà khi còn là một đứa trẻ đứng nhìn cha mẹ nghẹn ngào: “Bazaine đã đầu hàng rồi [4]!” Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Chiến Tranh của tác giả Charles de Gaulle.