Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Một Nỗi Đau Riêng - Kenzaburo Oe

Kenzaburo Oe là nhà văn Nhật Bản thứ hai được trao giải Nobel Văn học (năm 1994). Buổi lễ mừng giải thưởng danh giá của Kenzaburo Oe là một ngày hội vô cùng đặc biệt. Các nhạc công hàng đầu của "đất nước mặt trời mọc" đã biểu diễn mười tác phẩm của nhạc sĩ trẻ Hikari Oe- người con trai tật nguyền, người đã khiến Kenzaburo Oe tìm được "lối đi" trong sáng tác văn chương và khiến ông cùng con trai như được "tái sinh"... Kenzaburo Oe thuộc lớp nhà văn hậu chiến, hiện tên tuổi đang được xếp hàng đầu trong danh sách các nhà văn Nhật Bản. Sinh ngày 31 tháng 1 năm 1935 tại đảo Shikoku, một trong bốn hòn đảo lớn nhất của Nhật Bản, cuộc đời ông đã chứng kiến và đồng hành cùng những thăng trầm của một đất nước được bao bọc bởi biển cả, với ba ngàn hòn đảo lớn nhỏ.  Năm Kenzaburo Oe lên 4 tuổi, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở khu vực châu Âu và năm sau lan sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đất nước của ông dưới thời Nhật Hoàng Hirohito là một thành viên của trục phát xít Berlin - Roma - Tokyo, đã gây ra biết bao tội ác đối với nhân dân các nước trong khu vực châu Á. Giống như hết thảy những người Nhật Bản cùng thế hệ, những hồi ức ảm đạm về cuộc chiến tranh phi nghĩa, về sự ngã gục của nước nhà khi Thế chiến hai kết thúc luôn đè nặng trong lòng Kenzaburo Oe. Nhưng nổi lên trên hết, trong tâm hồn nhạy cảm của một người có khiếu văn chương như Kenzaburo Oe, hình ảnh của hai cột nấm khổng lồ màu vàng cùng với hàng ngàn cột lửa đỏ lựng bùng lên ở Hirosima và Nagasaki vào cái ngày mồng 8 và mồng 10 tháng 8 năm 1945 ấy hình như mỗi ngày mỗi to hơn, rộng hơn, nóng bỏng hơn, khủng khiếp hơn. Hai cột nấm ấy đã hủy diệt sinh mạng của mấy chục vạn người dân Nhật vô tội. Những cơn mưa phóng xạ khởi nguồn từ hai cột nấm ấy đã làm cho không ít người chết dần, chết mòn trong vòng vài chục năm sau đó và một số người khác, trong đó có người con trai đầu của Kenzaburo Oe, ngay từ khi mới sinh ra đã mang trong mình những căn bệnh trầm kha mà y học đến nay vẫn phải bó tay. Trong Diễn văn trao giải Nobel Văn học cho Kenzaburo Oe, Viện Hàn lâm Thụy Điển khẳng định: "Một đề tài xuyên suốt các tác phẩm của Kenzaburo Oe là bi kịch gia đình cùng tình thương và trách nhiệm đối với người con trai cả Hikari sinh ra đã bị dị tật. Kenzaburo Oe đã sáng tạo ra một thế giới tưởng tượng đầy chất thơ, đã miêu tả tình trạng đau đớn trong khổ cảnh của con người thời hiện đại bằng sự ngưng kết những ngụ ngôn và sinh hoạt hiện thực. Đồng thời ông cũng miêu tả thành công quan hệ của con người trong một thế giới hỗn độn, một thế giới mà ở đó trí thức, tình cảm, giấc mơ, dã tâm, thái độ đã hòa quyện với nhau một cách kỳ diệu"… Trong diễn văn đáp từ, Kenzaburo Oe cũng thừa nhận "Phong cách viết của tôi khởi nguồn từ những vấn đề cá nhân, sau đó gắn kết chúng với xã hội, với cuộc đời và thế giới này. Với tư cách nhà văn, tôi phải thừa nhận rằng chủ đề trung tâm của các tác phẩm trong hầu hết văn nghiệp của tôi là cái cách gia đình tôi đã học cách sống với đứa con tật nguyền…". Có thể kiểm chứng những lời phát biểu này trong "Một nỗi đau riêng", "Sự cố cá nhân", "Sổ tay Hirosima", "Nước ngập hồn tôi", "Trận bóng đá năm Vạn diên thứ nhất", "Trò chơi đương đại", "Hãy đứng lên, hỡi những chàng trai của thế hệ mới"… Kenzaburo Oe bắt đầu sáng tác khi còn là sinh viên chuyên ngành Văn học Pháp tại Đại học Tokyo và năm 23 tuổi, với tiểu thuyết "Nuôi thù", ông đã nhận được giải thưởng Akutagawa, một giải thưởng mà các nghệ sĩ Nhật Bản hằng mong ước. Từ đó trở đi ông sáng tác đều đặn và coi viết văn là nghề mà ông trọn đời theo đuổi. Ba năm sau khi nhận giải thưởng Akutagawa, cuộc đời Kenzaburo Oe bắt đầu rẽ sang một lối khác. Sau khi kết hôn cùng Yukan, con gái của một đạo diễn điện ảnh danh tiếng,  vợ chồng Kenzaburo Oe sinh được một bé trai. Nhưng chẳng như mong đợi và kỳ vọng của đôi vợ chồng trẻ, Hikari là một dị nhân: đầu to quá mức bình thường, đôi mắt không có khả năng nhận biết ánh sáng. Cậu bé cũng không có khả năng nhận biết và nói tiếng người, chỉ có thể phát ra tiếng chiêm chiếp như loài chim. Sự chào đời của Hikari là một "cú giáng trí mạng" đối với Kenzaburo Oe. Đã có lúc ông nghĩ đến việc tự tử để trốn chạy đứa trẻ. Rồi có lần ông định giết Hikari để giải thoát cho chính mình và cho cả đứa con tội nghiệp. Cũng may mà ông đã không đủ điên rồ và gan không đủ lớn để làm cả hai việc đê hèn đó. Ông đã chọn cách chấp nhận, chấp nhận Hikari cùng những bất hạnh của số phận, đồng thời nỗ lực tìm kiếm cách làm cho đứa trẻ "tái sinh". Thường thì bậc làm cha làm mẹ chẳng bao giờ muốn nói về những khuyết tật cùng những thói hư tật xấu của con mình. Nhưng Kenzaburo Oe đã dũng cảm nói về đứa con tật nguyền của mình, không phải một lần, mà là rất nhiều lần. Ông muốn từ nỗi đau của riêng mình nói đến một điều lớn lao hơn: Cần phải học cách chấp nhận những nỗi đau của con người cùng với việc tìm kiếm những cách thức để "tái sinh" những con người bất hạnh.  Kenzaburo Oe đặt tên cho con trai đầu lòng là Hikari, tiếng Nhật có nghĩa là "ánh sáng". Quả thực, Hikari bé bỏng, luôn "cô đơn như hòn sỏi nhỏ trên đám cỏ" đã tạo ra luồng ánh sáng, những vầng hào quang rực rỡ cho những tác phẩm của người cha. Trả lời phỏng vấn một nhà báo nước ngoài, Kenzaburo đã thẳng thắn: "Năm tôi hai mươi tám tuổi, đứa con đầu của tôi chào đời. Lúc đó tôi đã là một nhà văn khá nổi tiếng và đang là sinh viên ngành văn chương Pháp. Nhưng từ khi con trai tôi ra đời với một chứng bệnh trầm kha về não, vào một đêm kia, tôi muốn tìm sự khích lệ từ cuốn sách đầu tiên. Vài ngày sau tôi nhận thấy mình không thể tìm được niềm an ủi trong quyển sách của chính mình, có nghĩa là độc giả cũng sẽ không tìm thấy sự an ủi từ tác phẩm của tôi. Tôi lâm vào tình cảnh chán nản. Nhưng sau chuyến đi thăm một bệnh viện dành cho những nạn nhân bom nguyên tử ở Hiroshima, tôi đã quyết định viết về Hikari, chia sẻ với độc giả những cảm giác của mình khi phải đối mặt với đứa con mang trên mình những di chứng của thảm họa Hiroshima...". Tất cả những gì tích tụ trong lòng từ khi Hikari chào đời được ông giãi bày trong "Một nỗi đau riêng". Kenzaburo Oe cho rằng, chỉ bằng cách ấy, ông và đứa con trai tội nghiệp mới thể "tái sinh". Cái "tầm" của "Một nỗi đau riêng" là ở chỗ, Kenzaburo Oe đã viết về thảm kịch Hiroshima theo một cách rất riêng. Đó là cái cách ông gắn hành trình "tái sinh" của đứa trẻ bị bại não với quá trình hồi sinh của dân tộc Nhật Bản sau thảm họa thất trận năm 1945. Không chỉ dừng lại ở "Một nỗi đau riêng", trong tập tiểu luận "Một gia đình tự chữa lành", Kenzaburo Oe đã miêu tả thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật Điểu khi muốn chối bỏ đứa con tật nguyền của mình, tìm quên trong gái, rượu và những chuyến đi xa. Điểu đã muốn chấm dứt đời của đứa con mang khối u não ác tính bằng một ly sữa độc. Nhưng trong một lần lái xe, khi cố tránh một con chim đã chết trên đường, Điểu ngộ ra rằng cần phải cứu đứa con trước khi quá muộn. Rốt cuộc, cái u ác tính kia chỉ là một cái u thường, sau khi cắt bỏ, đứa bé đã xuất viện bình an… Hành trình tái sinh của Điểu trong "Một nỗi đau riêng", mà thực ra là nỗi đau chung của đồng bào ông, chính là hành trình tái sinh của ông và Hikari. Trong 6 năm trời ròng rã, hai vợ chồng ông đã kiên nhẫn cho Hikari nghe đi nghe lại một cuốn băng ghi âm tiếng hót của các loài chim kèm theo lời thuyết minh về tên của từng loài chim đó. Và điều kỳ diệu đã đến sau ba năm nghe cuộn băng ấy. Khi lên sáu tuổi, Hikari đã bật nói câu đầu tiên: "Đó là chim sẻ", và sau đó là nói đến tên của từng loài chim mà cậu bé đã được nghe qua băng ghi âm trong suốt mấy năm trời. Hikari được cha mẹ đưa đến trường dành cho trẻ em thiểu năng trí tuệ. Ở đây cậu bé được nghe nhạc của Handel, Bach và đến năm 16 tuổi, Hikari trở thành một thiếu niên khỏe mạnh nhưng lại mất thị giác. Vì không thể chơi piano, Hikari đã học sáng tác dưới sự chỉ dẫn của người mẹ… Và đến độ trưởng thành, Hikari đã là một nhạc sĩ danh tiếng, cả ở Nhật và trên thế giới. Những CD nhạc của anh có mặt ở rất nhiều quốc gia, ngay cả nơi dành để bán những ấn phẩm nghệ thuật phục vụ cho lễ trao giải Nobel Văn học. Những bản nhạc của Hikari, theo lời Kenzaburo Oe, "có một nguồn năng lực chữa lành cho trái tim". Ông còn nói: "Khi ta thể hiện ra một cách rốt ráo nỗi tuyệt vọng của con người, ta sẽ chữa lành được chính mình và biết được niềm vui của sự hồi phục…". Trong lễ nhận giải Nobel, Kenzaburo Oe nói rằng, giải thưởng này đúng ra phải trao cho Hikari con trai ông. Ông cũng thông báo từ nay sẽ "gác bút" để tập trung cho Hikari tỏa sáng trên bầu trời âm nhạc. Ông cũng hy vọng âm nhạc của Hikari sẽ mãi là thứ thần dược để chữa lành nỗi đau nhân thế *** Kenzaburo Oe, sinh năm 1935 tại đảo Shikoku (Nhật Bản), đã sáng tác nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết và tiểu luận. Ông đoạt nhiều giải thưởng văn học giá trị tại Nhật như Giải Akutagawa với tác phẩm The Catch, Giải Tanizaki với Football in the First Year of Mannen, Giải Văn học Shinchosha với A Personal Matter (Một nỗi đau riêng).   Điểu, nhân vật chính trong Một nỗi đau riêng, là một thanh niên có khuynh hướng chống đối xã hội Nhật, đã có lần khi đương đầu với một vấn đề khó giải quyết, anh tự “cho mình trôi dạt trong biển rượu mạnh như một Robinson Crusoe mất phương hướng”. Nhưng chưa bao giờ anh giáp mặt với một cuộc khủng hoảng cá nhân và nghiêm trọng về viễn cảnh một đời sống tù hãm trong lồng của đứa con mới sinh mang chứng thoát vị não. Liệu anh chạy chữa cho đứa bé được sống? Anh dám giết nó không? Trước khi đi đến quyết định cuối cùng, toàn bộ quá khứ sống dậy trong lòng anh, anh đã bừng tỉnh và nhận ra đó chỉ là một cơn ác mộng của sự lừa dối chính mình. Oe đã tạo nhân vật chính của mình trong tác phẩm này trở thành một trong những khuôn mặt đáng nhớ nhất trong tiểu thuyết hiện đại Nhật Bản.   Năm 1994, Kenzaburo Oe đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải Nobel Văn chương.  *** Điểu chăm chú nhìn tấm bản đồ châu Phi được phơi bày với vẻ thanh lịch kiêu kỳ của một chú nai rừng trong tủ hàng, anh cố nén tiếng thở dài. Các cô bán hàng không để ý đến anh. Bộ đồng phục họ mặc để lộ ra đôi cánh tay và chiếc cổ nõn nà. Đêm xuống dần. Cái nóng đầu hè, giống như nhiệt độ của một xác chết khổng lồ hạ hẳn xuống. Người ta di chuyển như đang mò mẫm từng bước trong bóng tối của tiềm thức, mong tìm lại ký ức về cái ấm áp ban trưa còn nấn ná chút hơi tàn trong da thịt: họ thốt lên tiếng thở dài mơ hồ. Tháng sáu, sáu giờ rưỡi: không một ai trong phố lại đổ mồ hôi vào lúc này. Nhưng vợ của Điểu thì nằm trần truồng trên một tấm nệm cao su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng đạn từ trên trời rơi xuống, và trong khi nàng than vãn cơn đau, bày tỏ nỗi âu lo cùng niềm mong đợi thì mồ hôi nhỏ giọt trên cơ thể nàng.   Điểu nhún vai, chăm chú vào những chi tiết của tấm bản đồ. B quanh lục địa châu Phi là màu biển xanh da trời mùa đông của buổi bình minh. Kinh độ và vĩ độ không phải là những đường nét máy móc của chiếc com-pa: những đường nét rõ ràng gợi lên sự phóng khoáng và thất thường của người vẽ. Lục địa trôi giống như chiếc sọ của một người bị treo đầu. Với đôi mắt sầu thảm, chán chường, một con người có cái đầu to tướng đang đăm đăm nhìn châu Úc, miền đất của gấu koala, thú mỏ vịt và kanguru. Bức tiểu họa châu Phi chỉ sự phân bổ dân số nằm dưới góc bản đồ, giống đầu người chết bắt đầu thối rữa. Một bức khác, hiện lên những con đường giao thông, giống đầu người bị lột da lộ ra những mao mạch đau đớn. Cả hai bản đồ châu Phi nhỏ bé này gợi lên sự chết chóc bất thường, nguyên sơ và quá tàn bạo.   “Tôi lấy tập bản đồ cho anh xem?”   “Không, đừng bận tâm,” Điểu nói. “Tôi đang tìm những tấm bản đồ chỉ đường của Tây Phi, Trung và Nam Phi do hãng Michelin in.” Cô gái cúi xuống chiếc ngăn kéo đựng đầy bản đồ Michelin và bắt đầu lăng xăng lục lọi. “Dãy số 182 và 185,” Điểu chỉ cho cô bán hàng, rõ ràng anh là một tay sành sõi về châu Phi.   Tấm bản đồ mà Điểu khao khát bấy lâu nay là một trang trong tập bản đồ bìa da, nặng ký. Một vài tuần trước, anh đã dò giá tập bản đồ và biết nó bằng năm tháng lương giáo viên của anh dạy tại một trường luyện thi. Nếu muốn có đủ tiền mua, anh có thể làm thêm công việc phiên dịch và phải mất ba tháng. Nhưng Điểu còn phải nuôi thân mình và nuôi vợ, vợ anh lại sắp sinh. Điểu là cột trụ của gia đình!   Cô bán hàng chọn hai tấm bản đồ bìa đỏ đặt lên quầy. Đôi tay nàng gầy và vấy bẩn, những ngón tay kỳ nhông bám trên cành cây. Mắt Điểu dán vào nhãn hiệu Michelin nằm dưới ngón tay nàng: một gã đàn ông hằng cao su trông giống như con cóc đang lăn cái ruột xe chạy xuống đường làm anh cảm thấy việc mua bản đồ là điều ngớ ngẩn. Nhưng đây là những tấm bản đồ mà anh muốn dùng vào mục đích quan trọng. ... Mời các bạn đón đọc Một Nỗi Đau Riêng của tác giả Kenzaburo Oe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bà Chúa Chè
Cuộc đời của tuyên phi Đặng Thị Huệ và bối cảnh đất nước thế kỉ 18. Những biến cố, những cuộc ganh đua quyền bính. Dưới góc nhìn của nhà văn Nguyễn Triệu Luật, hình ảnh của Đặng Thị Huệ hiện lên khác hẳn với rất nhiều tác phẩm đương thời. Bên cạnh Bà Chúa Chè là tác phẩm Rắn báo oán, viết về cuộc đời và số phận của Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vụ án Lệ Chi viên và số phận oan khiên của Nguyễn Trãi. Nguyễn Triệu Luật đã tự mình mở ra một dòng sáng tác tiểu thuyết lịch sử rất đáng trân trọng. Đương thời ông là nhà văn được độc giả yêu thích. Chẳng thế mà các nhà văn tài danh như Nguyễn Tuân, Hiền Chy, Đái Đức Tuấn... cũng như các nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng như Vũ Ngọc Phan, Trúc Khê, đều có những bài viết ca ngợi ông. Ngày nay, truyện của Nguyễn Triệu Luật vẫn rất đáng được đọc để hiểu về lịch sử Thăng Long một thời xa xưa, cũng như kĩ thuật viết văn của tiểu thuyết gia Việt Nam một thời cách nay cũng đã ít nhất là hai ba thế hệ. *** Nguyễn Triệu Luật (1903-1946), bút hiệu: Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; là nhà giáo, nhà văn, nhà báo và là thành viên sáng lập Việt Nam Quốc dân Đảng vào năm 1927 tại Việt Nam. Ông là người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội). Ông là cháu nội của Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản (1823 - 1890) và Cử nhân Nguyễn Án (1770 – 1815), thuộc một dòng họ có nhiều người đỗ đạt và nhiều người làm quan lớn. Thuở trai trẻ, Nguyễn Triệu Luật học tại Trường nam Sư phạm Hà Nội, đến khi tốt nghiệp, lần lượt đến dạy tại một số trường công ở Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Phòng. Năm 1927, ông cùng Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài tham gia thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng...Sau khi cuộc tổng khởi nghĩa thất bại, mười ba đồng chí của ông, trong đó có lãnh tụ Nguyễn Thái Học, bị thực dân Pháp xử chém ở Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930; thì ông cũng bị thực dân cầm tù cùng với hai nhà văn khác là Nhượng Tống và Trúc Khê. Một thời gian sau ông được tha, nhưng bị buộc thôi nghề dạy học. Kể từ đó, ông quay sang làm báo, viết cho nhiều tờ như: Nam Phong, Trung Bắc tân văn, Ích hữu, Tao đàn, Tiểu thuyết thứ Bảy, Nhật Tân...Trong những năm 1937-1939, ông được mời vào giảng dạy tại trường tư thục Lê Văn ở Vinh. Chính thời gian này, ông viết nhiều tác phẩm nhất. Năm 1940, ông bị thực dân Pháp đưa đi an trí, và qua đời năm 1946, lúc 43 tuổi [3]. Hiện nay, ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, có con đường mang tên Nguyễn Triệu Luật. Tác phẩm chính Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, vào năm 1935, nhân đọc cuốn Vua Hàm Nghi của Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật viết cuốn Ông Phan Trần Chúc bôi nhọ quốc sử, rồi sau đó ông soạn một loạt sách truyện ký lịch sử bao gồm: Hòm đựng người (in từng kỳ trên báo Nhật Tân vào năm 1936, 1938 in thành sách)[4] Bà chúa Chè (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1938) Loạn kiêu binh (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1939) Ngược đường Trường thi (Phổ thông bán nguyệt san số 46, 1939) Chúa Trịnh Khải (Nhà xuất bản Tân Dân - Hà Nội, 1940) Rắn báo oán (1941) Thiếp chàng đôi ngã (in chung với Rắn báo oán, 1941) Bốn con yêu và hai ông đồ (1943) Chúa cuối mẻ (đăng dở dang trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy từ số 1, tháng 6 năm 1944 đến số 9, tháng 3 năm 1945). Ngoài ra, ông còn có nhiều tiểu luận, tạp luận đây đó trên nhiều báo và tạp chí đương thời, kể từ tờ Nam Phong tạp chí (1923), tờ Phụ nữ thời đàm mà ông là Chủ bút kế nghiệp nhà văn Phan Khôi trong 4 số cuối cùng, các tạp chí Tri tân, Tao đàn... Cho đến nay vẫn chưa sưu tập được đầy đủ. Năm 2011, Các tiểu thuyết lịch sử của ông đã được tập hợp in lại trong cuốn Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành. *** Năm ấy là năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời vua Lê Hiển Tông Vĩnh hoàng đế, nhà chúa vào năm thứ năm đời chúa Tĩnh đô vương Trịnh Sâm, lịch tây vào năm 1771. Một buổi trưa tháng năm, giữa mùa hạ. Hai bên cầu, hai cánh đồng ruộng chiêm nước ngập liền bờ, chạy thẳng tít đến lận chân núi Nguyệt Hằng và núi Chè. Giá không có những ngọn cây gáo nước lơ phơ trên mặt nước để phân bờ ruộng, giá không có mấy con trâu đương bừa bì bõm, nước chấm đến bụng, thì chiếc cầu và con đường người ta tưởng như vắt ngang một cái hồ rộng hoặc một cánh đồng lụt ngút ngàn. Trong cầu, một bọn vài chục người đương ngồi nghỉ mát, quang gánh không vứt bừa bãi giữa sàn cầu. Giữa cầu một bà già đương ngồi múc nước và chan canh riêu vào bún bán cho khách đi chợ về giải khát và đã đói. Ngoài ruộng, mặt nước mỡ cua hắt ánh nắng hạ đầu mùa, đưa lên toàn hơi lửa. Bọn ngồi trong cầu đều là bọn người tổng Ném đi bán chè ở chợ Lũng Giang chân núi Nguyệt Hằng về. Mời các bạn đón đọc Bà Chúa Chè của tác giả Nguyễn Triệu Luật.
Cư Kỉnh
Văn học nghệ thuật của một đất nước thì mang những đặc trưng riêng của đất nước đó. Tuy nhiên trong quá trình phát triển văn học nghệ thuật cũng chịu những tác động của các yếu tố bên ngoài, vì thế khi thì nó phát triển theo con đường đúng đắn, có khi lại đi lệch hướng. Và sự lệch lạc đó trong văn học nghệ thuật nó cũng gây những tác động tiêu cực tới nếp sống và cách suy nghĩ của con người. Trong tiểu thuyết “Cư kỉnh” tác giả Hồ Biểu Chánh đã nói lên được thực tế đó ở Việt Nam thời gian đầu thế kỷ XX. Nhân vật Chí Cao trong “Cư kỉnh” là một điển hình cho sự băng hoại đạo đức của một bộ phận trí thức thế kỷ XX. Chí Cao – một tiểu thuyết gia tên tuổi được nhiều độc giả biết tới, nhưng anh đã lợi dụng văn chương để làm u muội và lừa gạt tình cảm độc giả của mình. Cuối cùng anh đã phải trả giá cho những việc không tốt mà anh đã gây ra. Với cách hành văn giàu chất Nam Bộ, lối nói nhẹ nhàng thủng thỉnh, ngôn từ giản dị, trong khoảng hơn năm mươi trang nội dung Hồ Biểu Chánh đã cho ta thấy được phần nào sự phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đầu của thế kỷ XX và sự suy đồi nhân cách của một bộ phận trí thức thời kỳ đó. Tiểu thuyết giàu giá trị phê phán đồng thời cũng giúp ta sáng tỏ một chân lý sống: Gieo nhân nào thì hái quả đó, gieo gió thì phải gặp bão. Vì thế mà Chí Cao lừa gạt tình cảm của cô Túy đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Tiểu thuyết của ông, gồm hơn 60 quyển, chủ yếu xoay quanh các vấn đề đạo đức, nhân nghĩa, tình đời bị cuốn trôi, bị xen lẫn, phải vùng vẫy trong làn hương mê muội của tiền bạc. Đọc về Nam Bộ xưa là tiếp xúc với những ngôn từ có phần chân quê, lạ lẫm thêm cách nói chuyện hưỡn đãi, nhưng cũng không kém phần tinh tế vì những khía cạnh của một câu chuyện tưởng như chân chất bình thường lại được xoáy vào ở mọi góc cạnh, và bất giác khiến ta giật mình khi những gai góc của nó lộ ra. Đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, cũng là một bước nhìn lại quá khứ, không phải của tôi, mà là của con người, của thiên hạ, đế thấy con tạo xoay vần, nhân gian biến đổi, nói thiệt, không khỏi có chút chạnh lòng. *** Chủ bếp hầu đang ngồi lim dim ngoài cửa, trông cho mau được về trại ăn cơm, thình lình tên Tú bước vô đưa phong thơ của ông Huyện và mượn trình liền cho quan lớn. Chủ bếp thấy quan lớn đang viết nên lấp ló không dám vô. Cách một hồi, quan Chủ quận ngước lên thấy chú bếp thì hỏi: - Muốn chi đó, chú bếp? - Bẩm quan lớn, có thơ của ông Huyện hàm dặn đưa gấp cho quan lớn. - Đem vô đây. Quan Chủ quận lấy thơ mở ra xem, thì thấy thơ như vầy: "Kính bẩm quan lớn, Tôi kính bẩm cho quan lớn rõ: tôi mới nghe dường như trong nhà tôi có manh mối xa gần về vụ án mạng mà quan lớn đương tra xét đó. Tiếc vì tôi không có thể hỏi mà phân manh mối ấy được, vậy tôi cúi xin quan lớn vui lòng dời gót đến nhà tôi đặng tra xét tường tất cho ra chơn lý. Cúi xin quan lớn nhậm lời Huyện Hàm TÂN Kính bái thơ" Quan Chủ quận đọc thơ rồi ngài lắc đầu thở ra, thủng thẳng xếp thơ bỏ vào hộc tủ rồi đứng dậy bước ra cửa mà đi, không nói cho bà lớn hay, mà cũng không dạy bếp hầu đi theo. Bước vào cửa ngõ của ông Huyện Hàm Tân, quan Chủ quận thấy ông đương thơ thẩn trong vườn hoa, thì đi riết vô. Ông Huyện thấy quan Chủ quận đi một mình thì cũng bươn bả đón rước. Chủ khách chào nhau và dắt nhau đi vô nhà. Ông Huyện thấy một tên bạn làm vườn đang lui cui nhổ cỏ gần đó thì kêu mà biểu nó đi mời Hương quản. Quan chủ quận thì nghiêm nghị, còn ông Huyện thì tư lự, cử chỉ ấy làm cho cuộc hội diện chiều nay đã không vui vẻ, mà còn có không khí nặng nề khó chịu. Quan chủ quận vừa ngồi, thì bà Huyện ở trong bước ra chào, nét mặt quyết đoán chớ không có vẻ buồn lo. Quan Chủ quận không nói tới việc ngài mới đọc trong thơ, có ý nhường cho ông Huyện khởi đầu, đặng dọ coi việc nhà của ông Huyện chuyển biến ra thể nào. Công việc đến đây, dường như ông Huyện hối ngộ sự ông viết thơ mời quan Chủ quận. Ông ngó bà với cặp mắt buồn hiu và ngồi im lìm không nói chi hết. Biết chủ nhà khó mở miệng, và quyết đem sự tín nhiệm để thay sự ngần ngại ấy, quan Chủ quận mới chẫm rãi hỏi ông Huyện: - Ông Huyện nghe việc chi mà ông nói vụ án mạng dường như có manh mối? Câu hỏi ấy dường như xô đẩy ông Huyện bước tới, lại cũng chặn đường không cho ông thối lui, bởi vậy ông ngó bà rồi thủng thẳng nói: - Bẩm quan lớn, việc đó như vầy: hồi sớm mơi nầy tôi nghe người ta nói kín cho tôi biết lúc vợ chồng tôi đi Sài Gòn ở trển 10 bữa, thì ở nhà một đêm nọ, lối 10 giờ, có bóng người mặc đồ trắng, không rõ đàn ông hay đàn bà, ở phía sau vườn tôi vạch rào chỗ đám trầu mà qua bên vườn Chí Cao rồi hơn một giờ sau cái bóng ấy trở lại. Đêm sau cũng thấy như vậy nữa, mà lần nầy bên vườn Chí Cao lại có thêm một cái bóng nữa, hai bóng lần lần đi vô nhà Chí Cao, đến gần sáng mới trở ra tới rào, rồi một cái đi qua bên vườn của tôi.    Mời các bạn đón đọc Cư Kỉnh của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Đứa Con Gái Hoang Đàng
"Tiếp nối cuốn tiểu thuyết nổi tiếng HAI SỐ PHẬN về William Kane và Abel Rosnovski, Đứa con gái hoang đàng là một câu chuyện được chắp bút của thế hệ tiếp theo. Câu chuyện đầy trớ trêu, trắc trở nhưng đầy nhân văn. TƯƠNG LAI CỦA CÔ LÀ THAM VỌNG Florentyna Rosnovski – con gái Abel – với một ý chí sắt đá di truyền từ người cha, cô quyết tâm theo đuổi mục tiêu và lý tưởng của mình, đó là trở thành nữ Tổng thống Mỹ đầu tiên. Tuy thế, cuộc đời của cô, cũng giống như người cha của mình, cũng gặp vô cùng nhiều trắc trở mà người phụ nữ tham vọng này nhất định phải vượt qua. Với hình tượng được lấy cảm hứng từ những nhân cách lớn như “bà đầm thép” Margaret Thatcher, Golda Meer, hay Indira Gandhi, Jeffrey Archer đã trả lời cho độc giả những câu hỏi về cuộc đời và số phận, về ý nghĩa của cuộc sống này. Vượt qua cơn giông tố, vươn đến những vì sao chính là thông điệp mà cây bút tài ba muốn truyền tải." 3. Ý NGHĨA NHAN ĐỀ Tiểu thuyết Đứa con gái hoang đàng được dịch từ tên gốc The Prodigal Daughter. Cái tên này được Jeffrey Archer đặt theo một Dụ ngôn trong Kinh Thánh – The Prodigal Son. Ở Việt Nam, tích này được biết đến với cái tên Người con hoang đàng, hay Đứa con hoang đàng trở về. Cách đặt tên này tạo ra một sự kết nối chặt chẽ vói phần 1 – Hai số phận. Tiểu thuyết Hai số phận với tên gốc là Kane and Abel – vốn dĩ cũng là một biến thể của Cain and Abel – một Dụ ngôn khác trong Kinh Thánh. 4. SỨC HẤP DẪN CỦA CUỐN SÁCH ĐỐI VỚI ĐỘC GIẢ “Một trong mười nhà văn có tài kể chuyện hay nhất thế giới.” – Los Angeles Times “Mạch truyện nhanh và lôi cuốn.” – Library Journal “Một bậc thầy trong việc pha trộn các yếu tố quyền lực, chính trị và danh vọng vào trong một cuốn tiểu thuyết.” – Entertainment Weekly “Một người kể chuyện ở đẳng cấp của Alexander Dumas, với kỹ năng vượt trội, Archer khiến độc giả không ngừng tự hỏi điều gì đang đón đợi phía trước.” – Washington Post *** THÔNG TIN VỀ SERIES “KANE VÀ ABEL” Series về Kane và Abel của Jeffrey Archer xoay quanh những nhân vật của gia đình Rosnovski và Kane. Phần một với nhan đề Kane and Abel được xuất bản với tên tiếng Việt Hai số phận đã và đang là một cuốn sách bán chạy bậc nhất tại Việt Nam. Cuốn sách nói về William Kane và Abel Rosnovski – hai người anh em nhưng lại sinh ra ở hai hoàn cảnh trái ngược; cuốn sách là một câu chuyện cảm động về hành trình đi lên và vượt qua những thử thách. Đứa con gái hoang đàng (The Prodigal Daughter) tiếp nối câu chuyện giữa hai gia đình, có thể nói đây là phần hậu truyện của Hai số phận, cuốn sách nói về cuộc đời và số phận của thế hệ thứ hai, cụ thể hơn là Florentyna Rosnovski – con gái của Abel, khi gia đình Rosnovski đã định cư tại Mỹ. Và cuối cùng là phần 3 – Bà Tổng Thống Trước Họng Súng (Shall we tell the President), tiếp nối câu chuyện dang dở của Đứa con gái hoàng đàng. *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/4/1940) là một tiểu thuyết gia người Anh, cựu chính trị gia và là người tiên phong trong làng tiểu thuyết Anh Quốc. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông ghi dấu ấn với rất nhiều tiểu thuyết nổi tiếng, có thể kể đến : Hai số phận, Đứa con gái hoang đàng và các cuốn cùng series Biên niên Clifton: Chỉ thời gian có thể cất lời, Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất… Ông được mệnh danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Kẻ Mạo Danh - Jeffrey Archer Ấn Tượng Sai Lầm - Jeffrey Archer Quyền Lực Thứ Tư - Jeffrey Archer Bước Ngoặt Trong Câu Chuyện - Jeffrey Archer Hai số phận - Jeffrey Archer Luật Giang Hồ - Jeffrey Archer Điều Lệnh Thứ 11 - Jeffrey Archer Vượt Lên Hàng Đầu - Jeffrey Archer Chỉ Thời Gian Có Thể Cất Lời Tội Lỗi Của Người Cha Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu Bà Tổng Thống Trước Họng Súng ... *** Nếu đã yêu thích “Hai Số Phận”, chắc chắn bạn cũng sẽ yêu thích phần hai mang tên “Đứa Con Gái Hoang Đàng”. Bởi nó cũng cuốn hút và hấp dẫn như tập truyện trước đó, cũng như có cả những sắc thái riêng. Hai Số Phận là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và được yêu thích của nhà văn Jeffrey Archer. Câu chuyện xoay quanh William Kane và Abel Rosnovski, hai con người có cùng ngày tháng năm sinh, nhưng xuất phát điểm khác nhau. Nếu William Kane sinh trưởng trong sự giàu có, thì Abel Rosnovski lớn lên trong nghèo khổ. Cuộc đời của họ vô tình mà đan xen lẫn nhau, với bao hạnh phúc và thăng trầm, oán thù và lòng biết ơn, mang đến bao cảm xúc mạnh mẽ dội thẳng vào người đọc cho đến tận trang cuối cùng. Đứa Con Gái Hoang Đàng được biết đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận. Nhân vật chính của phần này là Florentyna Rosnovski, cô con gái của Abel Rosnovski. Cũng giống như cha mình, cuộc đời của Florentyna trải qua nhiều thử thách, thăng trầm trắc rở, ngay cả khi tuổi thơ của cô ấm no hơn của cha mình. Có lẽ đó là số phận của những người sẽ leo lên tới đỉnh, ai cũng phải trèo qua rất nhiều trở ngại để đến được đích. Được nói đến là phần tiếp theo của Hai Số Phận, Đứa Con Gái Hoang Đàng gợi nhớ đến tinh thần của cuốn tiểu thuyết trước đó, đặc biệt là qua sự kế thừa giấc mơ và ý chí của Florentyna từ người cha Abel. Nhưng ngay cả khi chưa đọc Hai Số Phận, người đọc cũng sẽ nắm được cốt truyện của Đứa Con Gái Hoang Đàng. Jeffrey Archer không hổ danh là một trong những nhà văn có tài kể chuyện hay nhất. Kết cấu cuốn tiểu thuyết chặt chẽ, đầy ắp các tình tiết, những chi tiết nhắc lại và những chi tiết mở rộng được sắp xếp mượt mà để độc giả mải cuốn theo chúng. Và rồi khi đang mải mê như thế, Jeffrey Archer sẽ tạo ra những cú rẽ khiến người ta không thể không sửng sốt, bất ngờ, cảm thán nhưng không thể ngừng đọc. Theo dõi từng trang Đứa Con Gái Hoang Đàng là theo dõi từng bước chân của Florentyna Rosnovski. Khi Florentyna còn bé, cô từng có một chú gấu bông Franklin D. Roosevelt - cựu Tổng thống Mỹ, bập bẹ từ đầu tiên là “Tổng tống” (“Tổng thống” - cô bé lúc này vẫn phát âm chưa rõ). Và rồi khi lớn lên, cô muốn trở thành chú gấu bông đó, trở thành một Tổng thống. Jeffrey Archer dành nhiều bút lực để miêu tả cuộc đời của Florentyna từ lúc mới sinh ra, trở thành thiếu nữ, cho đến ngày cô theo đuổi giấc mơ trở thành Tổng thống. Vẫn là một nhân vật giàu ý chí và nghị lực, nhưng khác với câu chuyện của cha mình là Abel, câu chuyện của Florentyna mang dáng dấp của nữ quyền - nơi giới tính không quyết định ý chí và sức mạnh của người mang một giấc mơ lớn. Ở Florentyna, độc giả thấy hình ảnh của những “bà đầm thép” như Margaret Thatcher - cựu Thủ tướng Anh hay Indira Gandhi - cựu Thủ tướng Ấn Độ… nhưng đồng thời vẫn khá gần gũi. Không chỉ có những giấc mơ lớn cùng ý chí đáng ngưỡng mộ, Đứa Con Gái Hoang Đàng còn mang đến những mảnh ghép khác của cuộc đời Florentyna. Đó là mái ấm gia đình đầy vững chãi - dù không thể tránh được những lúc bất đồng, đó là sự thấu hiểu và chắp cánh của một cô gia sư tận tụy. Và tình bạn - bắt đầu từ tranh đua, rồi trở thành sẻ chia hỗ trợ; dĩ nhiên không thể thiếu tình yêu - điều đã khiến Florentyna thăng hoa, thậm chí đau khổ, nhưng chưa bao giờ ngừng hạnh phúc. *** “Tổng thống Hoa Kỳ.” Cô gái nhắc lại. “Ba có thể nghĩ ra một lí do đáng giá hơn cho việc tự làm mình phá sản đấy.” Người cha vừa nói vừa tháo chiếc gọng kính nửa vầng trăng trên đầu mũi và nhìn chăm chú cô con gái từ phía trên tờ báo đang đọc. “Ba đừng phi lý vậy chứ. Tổng thống Roosevelt đã chứng minh với chúng ta rằng không có sự cống hiến nào vĩ đại hơn việc phục vụ cộng đồng đó thôi.” “Điều duy nhất mà Roosevelt đã chứng minh là...” Người cha cất lời, rồi ông ngừng lại và quay trở về với tờ báo của mình khi nhận ra cô con gái có thể nghĩ lời nhận xét của ông là đùa giỡn. Cô gái tiếp tục câu chuyện bởi rất muốn biết điều gì đang diễn ra trong đầu cha mình. “Con nhận thấy là mọi việc sẽ vô nghĩa nếu con theo đuổi những đam mê như thế mà không được ba ủng hộ. Vấn đề giới tính của con đã thừa đủ rắc rối mà không cần thêm sự bất lợi bởi việc có xuất thân là người Ba Lan đâu.” Tờ báo ngăn giữa người cha và cô con gái đột ngột bị hạ xuống. “Đừng bao giờ nói một cách khinh thường như vậy về người Ba Lan.” Ông nói. “Lịch sử đã chứng minh chúng ta là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Ba của ta từng là một Nam tước...” “Vâng, con biết. Đó cũng là ông nội của con còn gì, nhưng ông làm gì có ở đây để giúp con trở thành Tổng thống.” “Điều đó lại càng đáng tiếc hơn” cha cô thở dài, “bởi vì ông chắc chắn sẽ trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời cho cộng đồng chúng ta.” “Thế sao cháu gái ông lại không nên làm điều đó cơ chứ?” “Chẳng tại sao cả.” Abel nói và nhìn xoáy vào đôi mắt màu xám kim loại của đứa con độc nhất. “Vậy thì ba à, ba sẽ ủng hộ con chứ? Bởi vì con không hi vọng thành công nếu không có sự hỗ trợ tài chính của ba.” Người cha lưỡng lự đôi chút trước khi trả lời. Ông đặt gọng kính lên mũi và chậm rãi gập tờ Chicago Tribune1 lại. “Ba sẽ có một thỏa thuận với con, con yêu xét cho cùng thì chính trị cũng chính là những chuyện như vậy. Nếu kết quả của cuộc bầu cử cơ sở tại New Hampshire chuyển sang hướng có lợi, cha sẽ ủng hộ con hết khả năng. Ngược lại, con phải dẹp bỏ ngay ý tưởng đó đi.” “Ba định nghĩa hướng có lợi là thế nào?” Ngay lập tức cô con gái đáp lời. Một lần nữa, người đàn ông lại do dự, cân nhắc những lời nói của mình. “Nếu con thắng cuộc bầu cử cơ sở, hoặc giành được hơn 30% số phiếu bầu, ba sẽ đi với con đến vòng bầu chọn nội bộ Đảng cho vị trí ứng viên Tổng thống, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc ba sẽ khánh kiệt.” Cô gái thả lỏng người lần đầu tiên trong suốt cuộc nói chuyện. “Cảm ơn ba. Con không đòi hỏi gì hơn thế được nữa.” “Không, tất nhiên là không rồi” ông đáp lại. “Giờ thì ba có thể quay lại với việc tìm hiểu xem làm thế nào mà The Cubs2 lại có thể để thua trận thứ bảy trong mùa giải bởi The Tigers3 được chưa?” “Họ là đội yếu nhất, không còn nghi ngờ gì nữa, với cái kết quả thua tận 9-3.” “Quý cô trẻ tuổi à, con có thể cho rằng mình biết một, hai điều gì đó về chính trị, nhưng ba có thể khẳng định với con là con chẳng biết chút gì về bóng chày cả.” người đàn ông nói trong khi mẹ cô gái bước vào phòng. Ông quay thân hình nặng nề của mình về phía vợ. “Con gái chúng ta muốn chạy đua vị trí Tổng thống Hoa Kỳ đấy. Em thấy điều đó thế nào?” Cô gái ngẩng lên nhìn mẹ, háo hức đợi câu trả lời. “Em sẽ nói cho anh điều em nghĩ nhé” người mẹ trả lời. “Em nghĩ là đã quá giờ đi ngủ của con bé rồi, và đấy là lỗi của anh vì đã cho phép nó thức khuya như vậy.” Abel nhìn đồng hồ. “Em nói đúng.” Ông thở dài. “Về giường ngủ thôi, bé con.” Cô gái đến bên cạnh cha, hôn lên má ông và thì thầm. “Con cảm ơn ba.” Ánh mắt người đàn ông dõi theo bước chân của cô con gái mười một tuổi lúc cô bé rời khỏi phòng và ông nhận thấy những ngón tay trên bàn tay phải của cô đang nắm lại với nhau, tạo thành một nắm đấm nhỏ và chặt, một điều mà cô bé luôn làm khi tức giận hoặc quyết tâm. Ông tin rằng cô đang có cả hai cảm xúc đó lúc này, nhưng ông biết là sẽ vô ích nếu cố gắng giải thích cho Zaphia – người vợ của mình – rằng đứa con duy nhất của họ không phải người tầm thường. Abel lâu nay đã từ bỏ cố gắng làm cho vợ có cùng đam mê với mình, và ít nhất hãy cảm ơn Chúa là bà ấy cũng không can thiệp sâu vào sở thích của con gái họ. Ông quay lại với tin tức về đội bóng Chicago Cubs cùng thất bại của họ ở mùa giải này, và phải thừa nhận đánh giá của con gái ông có lẽ là đúng trong chủ đề này. Florentyna Rosnovski không đề cập đến cuộc đối thoại ngày hôm đó thêm một lần nào nữa trong suốt hai mươi hai năm sau, nhưng khi cô nhắc lại chuyện này, cô cho rằng cha mình sẽ thực hiện phần của ông trong thỏa thuận giữa họ. Xét cho cùng, như cách ông luôn nhắc nhở cô, người Ba Lan là một dân tộc đáng tự hào với những con người chưa bao giờ nuốt lời. Mời các bạn đón đọc Đứa Con Gái Hoang Đàng của tác giả Jeffrey Archer.