Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Huệ Đỏ - Anatole France

“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bỗng Dưng Muốn Sống
Với bốn cuốn tiểu thuyết đã xuất bản dạng khổ lớn và ba cuốn dạng sách bỏ túi, Laurent Gounelle đã hai lần được ghi tên trong bảng xếp hạng 10 tiểu thuyết gia bán được nhiều sách nhất tại Pháp. Trong bảng top 10 năm 2014, do tuần báo Le Figaro bình chọn, anh đứng ở vị trí thứ 10 với 430.000 cuốn sách đã được bán. Là một chuyên gia về môn Khoa học nhân văn, được đào tạo tại Pháp và Hoa Kỳ, là diễn giả thường xuyên của các trường đại học, Laurent Gounelle đi khắp nơi trên thế giới để gặp gỡ, trò chuyện. Và trong mỗi dịp ấy, anh quan sát, ghi nhận từ mỗi người, theo cách của mình, đem đến những luồng sáng, những lời giải thích cho vấn đề cốt lõi nhất: làm sao để tinh thần thăng hoa và đem lại cho cuộc sống một ý nghĩa tích cực. Tôi đã rất ấn tượng và bị cuốn hút trước sự đam mê của anh đối với nền triết học phương Đông, mà theo tôi, anh đã thẩm thấu khá sâu đậm. Trong tác phẩm của mình, anh luôn nhấn mạnh đến sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời Tạo hóa ban tặng cho chúng ta. Laurent Gounelle phân tích một cách thuyết phục những bất cập của cuộc sống hiện đại luôn hối hả, xô bồ và chỉ ra mặt trái của sự toàn cầu hóa… Những phát triển của ngành công nghệ đã dần dần bào mòn đi khả năng cảm thụ và thấu cảm của con người. Cảm xúc trở nên lạnh lẽo, nhạt nhòa hơn khi ta bấm trên bàn phím một tin nhắn, một lá thư điện tử để hỏi thăm nhau thay bằng đến gặp nhau trò chuyện như trước kia. Nhiều thuần phong mỹ tục cũng bị cơn bão công nghệ cuốn dần đi. Anh cho rằng niềm vui, hạnh phúc, sung sướng hay khổ đau đều đến từ chính ta, ta suy nghĩ hay nhìn cuộc sống của mình như thế nào thì nó sẽ ra thế ấy. Trong cuốn sách Bỗng dưng muốn sống này, nhân vật chính Jonathan, là một người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống, nhưng đang gặp rắc rối trong cuộc sống gia đình và công việc. Anh là đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm. Công việc bề bộn cùng những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu, sa vào những mánh khóe chiêu dụ khách hàng để có được các hợp đồng. Và rồi anh cùng gia đình bé nhỏ của mình bị rơi vào một cái bẫy do chính cộng sự giăng ra hòng mua rẻ số cổ phần của anh trong công ty. Đúng lúc bẫy vừa chụp xuống lưng chừng thì anh nhận được lời dự đoán của một cô gái Bô-hem: “Anh sắp chết…!”. Từ chỗ hoang mang lo sợ, chán nản, buông xuôi rồi từ từ thay đổi góc nhìn, cách cảm nhận cuộc sống, xoay chuyển tư duy và mục tiêu kinh doanh, âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác, Jonathan đã “ngộ” ra được giá trị của sự an lạc. Khi hành động mang lại lợi ích, hạnh phúc cho người xung quanh, anh đã tự tạo ra được nguồn cảm hứng cho những ngày mới tràn đầy năng lượng. Anh đã không còn cảm thấy sợ cái chết. Nhưng hơn bao giờ hết, anh bỗng dưng khao khát được sống - một cuộc sống năng động mà an nhiên, từng giây từng phút gieo hạt giống yêu thương, từng khoảnh khắc nở nụ cười thân thiện, để đón trở về trong lòng mình sự thanh tĩnh, bình yên. Trải nghiệm những ngày đếm lùi để đối điện với bản án tử bí hiểm mà cô gái Bô-hem xa lạ báo trước, Jonathan cùng những phát hiện mới mẻ của mình sẽ mang lại cho bạn đọc nhiều điều bất ngờ, ẩn chứa những thông điệp kỳ diệu của cuộc sống và bạn sẽ hiểu vì sao nhân vật của chúng ta bỗng dưng muốn sống. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Paris tháng 11/2017 Hiệu Constant *** Review Yến Yến:   “Để sống thoải mái cuộc sống của mình, – Bác Margie tiếp tục lên tiếng, – điều cần thiết là lắng nghe những gi vọng tới từ sâu trong tâm hồn chúng ta. Lắng nghe những bức thông điệp thì thầm phát ra từ chính tâm hồn chúng ta. Nhưng tâm hồn chúng ta thì giống như một thiên thần, luôn thì thầm bằng một giọng quá dịu êm, quá nhỏ, đến nỗi ta phải dỏng tai lên. Cháu làm sao có thể nghe thấy nó khi cháu đứng giữa đám đông huyên náo không ngừng chứ?…” Jonathan được nhắc đến là một nhân vật chính của cuốn sách này. Có lẽ khi cầm cuốn sách này trên tay, hầu như tất cả những người trẻ đều thấy bản thân mình ở trong đó: Bị cuốn đi bởi những bận rộn của lối sống hiện đại mà không hề có thời gian cho tâm hồn được ngơi nghỉ. Jonathan là một điển hình cho một người như thế – người đàn ông trẻ đầy tham vọng và tràn trề nhựa sống. Anh đồng sở hữu một văn phòng bảo hiểm nhưng công việc bộn bề cùng với những áp lực về doanh thu, về thu nhập và nhu cầu trong cuộc sống đã khiến anh bị cuốn vào một đời sống đơn điệu. Gia đình anh bắt đầu rạn nứt và đổ vỡ. cuộc sống ngày một bế tắc thì anh lại nhận được lời dự đoán của cô gái xem đường chỉ tay Bô-hem: “Anh sắp chết!” Cuộc sống của anh ngày một lao đao hơn khi anh không thể nào thoát ra khỏi ý nghĩ về cái chết của bản thân mình. Cuối cùng anh đã quyết định nghỉ việc, tìm đến nghỉ dưỡng để tịnh tâm. Đây cũng chính là quãng thời gian anh gặp bác gái của mình – Bác Margie – người phụ nữ với những chiêm nghiệm về cuộc đời và nhân sinh đã giúp anh cảm thấy “bỗng dưng muốn sống”. Bác giúp anh hòa hợp với thiên nhiên, giúp anh hiểu được mỗi chúng ta “là những cá thể hoàn chỉnh và thiên nhiên dẫn dắt chúng ta cảm nhận điều đó một cách sâu sắc, trong khi xã hội tạo ra nơi chúng ta sự trống vắng thiếu hụt”. Bác giúp anh biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm trong tâm hồn mình, để hiểu rõ, cuối cùng thì điều thực sự mình muốn là gì? Bằng những chiêm nghiệm qua cách dẫn dắt của bác Margie về sự sống chậm, đến thiên nhiên, đến những gì mà từ ngàn đời tạo hóa ban tặng cho chúng ta đã giúp chúng ta hiều bản thân mình hơn một cách nhẹ nhàng. Từ đó, Jonathan đã cân bằng lại được cuộc sống vồn vã trước kia của mình. Anh bắt đầu dành thời gian cho bản thân mình hơn đồng thời âm thầm làm những điều thiện lành nho nhỏ để mang lại niềm vui bất ngờ cho người khác. Gửi một tách cà phê cho một cô gái ngồi âu sầu ở quán, tặng một bó hoa hồng ngẫu nhiên cho người thứ bảy bước xuống từ một chuyến tàu,… Cuối cùng, anh cũng đã ngộ ra được giá trị của sự an lạc và phá bỏ lời nguyền về cái chết của cô gái Bo-hem. Và đơn giản, ai chẳng không muốn “muốn sống” một cuộc sống tuyệt với như thế. Hiểu tận cùng nỗi đau Từ cửa sổ phòng tắm trên tầng lầu ngôi nhà nhỏ màu đỏ mà anh thuê từ gần ba tháng nay trong một con hẻm xinh xắn của thành phố San Francisco, Jonathan vừa cạo râu, vừa quan sát lũ cỏ ba lá tròn mọc nhanh một cách vô cảm trên bãi gazon*. Bãi cỏ thảm hại, vàng ủng dưới ánh nắng chói chang nghiệt ngã của mặt trời tháng Bảy, dường như đã sẵn sàng xin chào thua rồi. Dùng chất clopyralid* thì chẳng ăn nhằm gì. Từ đầu tháng phun cả một bình đầy mà không mang lại tác dụng nào. Phải nhổ thôi, từng cọng một, mình buộc phải làm thế, - Jonathan tự nhủ trong lúc bàn cạo râu điện rà rà mơn man dưới cằm trong một âm thanh rì rì không ngớt. Anh thiết tha chăm sóc khu vườn đến mức tốt nhất: khu vườn nằm sau nhà và quay hướng Nam, là sân chơi cho cô con gái nhỏ của anh, Chloé, trong kỳ nghỉ cuối tuần, khi nó về ở với bố, xen kẽ hai tuần một lần. • Gazon là dạng bãi cỏ mọc do được gieo hạt, không phải là bãi cỏ mọc tự nhiên. • Một loại thuốc diệt cỏ. Vừa tiếp tục cạo râu, Jonathan vừa kiểm tra thư điện tử trên chiếc điện thoại thông minh của mình. Những yêu cầu của khách hàng, một đơn khiếu nại, một bữa ăn trưa bị hoãn, bản báo cáo hàng tháng của ban Kế toán, một món quà tặng thương mại của Công ty Cung ứng điện thoại và vài bản thông tin mới. Quay lại trước gương, anh vớ một cây phớt nhỏ và một lọ thuốc nhuộm tóc màu đen. Rất tinh tế, anh thấm nước nhuộm lên những sợi tóc bạc đầu tiên trên đầu mình. Tuổi ba mươi sáu vẫn còn quá sớm để có thể chấp nhận dấu ấn thời gian. Anh hối hả chuẩn bị để kịp đến đúng giờ hẹn, cuộc gặp gỡ hàng ngày ở quán cà phê trên quảng trường diễn ra mỗi sáng kể từ khi thành lập công ty bảo hiểm từ 5 năm trước, ba cộng sự đều gặp nhau tại đó để dùng cà phê sáng, nhanh thôi, ngay trên mảnh sân hiên ngoài trời. Một trong ba người chính là bạn gái cũ của anh, Angela, và sự chia tay mới đây giữa anh và cô ấy đã không làm thay đổi thói quen hình như đã trở thành bất biến này. Văn phòng bảo hiểm của họ là cơ quan duy nhất trong thành phố chuyên về lượng khách hàng gồm các tiểu thương nhỏ của cả khu vực. Sau thời kỳ khởi đầu khá khó khăn, văn phòng hiện thời đã vận hành tốt và cho phép các cộng sự cùng trợ lý của họ được nhận lương tháng, dẫu khoản tiền lương ấy vẫn còn khiêm tốn. Văn phòng đã bén rễ và hứa hẹn những viễn cảnh tăng trưởng. Chắc chắn là còn phải chiến đấu và đôi khi Jonathan cảm thấy chút nản chí chợt thoáng qua tâm tưởng, nhưng anh tiếp tục tin rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra, và những giới hạn duy nhất chính là giới hạn mà ta tự đặt cho mình. Anh bước xuống bậc tam cấp và đi ra cổng. Không khí thơm nồng phảng phất mùi sương mù mùa hè. Tình trạng khu vườn nhỏ nằm giữa ngôi nhà và đường phố cũng chẳng khá khẩm hơn khu vườn đằng sau kia. Khu vườn này quay hướng Bắc, lại bị rêu mọc ở khắp nơi. Có thư tín nằm đợi Jonathan trong thùng thư. Anh bóc một phong thư do nhà băng gửi tới. Tiền thanh toán phí sửa xe đã khiến tài khoản bị báo động đỏ. Phải nhanh chóng cứu trợ thôi. Lá thư thứ hai đến từ nhà cung ứng điện thoại. Có lẽ lại là một hóa đơn nữa… - Xin chào! Cũng ra lấy thư tín như anh, người hàng xóm chào anh với dáng vẻ hoàn toàn thư thái, điệu bộ của kẻ mà hình như cuộc sống luôn mỉm cười với hắn. Jonathan cũng chào đáp lại. Một con mèo cọ vào chân anh và miệng kêu meo meo. Jonathan cúi xuống âu yếm nó. Đó là con mèo của một bà lão ở trong khu chung cư nhỏ bên cạnh. Jonathan thường xuyên thấy nó trong vườn nhà mình, Chloé vui thích vô cùng khi gặp nó. Trên phố, con mèo liền tiến lên đi trước Jonathan rồi kêu meo meo khi đến khu chung cư, mắt ngước nhìn anh. Jonathan đẩy cánh cửa và nó lao nhanh vào bên trong, trong lúc mắt vẫn không rời khỏi anh. - Mày muốn tao đi cùng với mày ư, đúng không? Tao đang vội lắm, mày biết đó, - Jonathan nói trong lúc mở cửa thang máy. Đi nào, nhanh lên đi! Nhưng con mèo cứ đứng lì ở chân cầu thang bộ, miệng kêu meo meo nhẹ nhàng. - Mày thích đi cầu thang bộ hơn, tao biết… nhưng tao không có thời gian. Nào, đến đây đi… Con mèo chớp chớp mắt nài nỉ. Jonathan thở hắt ra. - Mày quá đáng lắm rồi đấy… Anh ôm con mèo trên tay và bước nhanh qua các bậc cầu thang lên tận tầng ba. Anh bấm chuông rồi lại đi xuống ngay mà không đợi. - A! Mày đây rồi, đồ háo chiến! - Tiếng bà cụ già vang lên. Jonathan bước nhanh trong con hẻm giữa những ngôi nhà còn ngái ngủ, rồi rẽ phải vào phố buôn bán để đến khu quảng trường nhỏ, nơi anh có hẹn. Anh chợt nghĩ đến sự kiện diễn ra hôm trước mà anh đã tham dự: chống nạn phá rừng trong vùng Amazôn. Cuộc biểu tình đã quy tụ vài trăm người tham gia và thu hút được sự chú ý của báo chí địa phương. Thoạt đầu, được thế đã là tốt rồi. Đi qua trước cửa hiệu bán đồ thể thao, anh liếc nhìn đôi giày đã trêu ngươi anh từ ít lâu nay. Tuyệt hảo nhưng đắt quá chừng. Xa hơn chút nữa, mùi bánh ga-tô nóng thơm lừng quyến rũ thoảng tới quấy nhiễu mũi anh. Mùi thơm này bay ra từ những ô cửa sổ được trổ rất khéo trên mặt tiền một cửa hiệu bánh ngọt Áo. Anh đã suýt xiêu lòng, nhưng rồi cố gắng đi nhanh hơn. Quá nhiều chất cholesterol. Trong tất cả các cuộc chiến thường nhật, thì cuộc chiến đấu chống lại những ham muốn mà người ta luôn luôn cố tình làm nảy sinh trong chúng ta, liệu đã phải là tệ hại nhất không nhỉ? Vài người vô gia cư đang nằm ngủ rải rác đây đó, dưới những tấm chăn. Ông chủ hiệu bán đồ khô người Mê-hi-cô đã mở cửa, cũng như các sạp báo và xa hơn chút nữa là ông chủ hiệu làm đầu gốc Puerto Rico. Anh chạm mặt một số khuôn mặt thân quen đang trên đường đi làm, vẻ mặt họ lơ đễnh. Chỉ một giờ đồng hồ nữa thôi, khu phố này sẽ rất náo động. Mission District là khu cổ nhất thành phố San Francisco. Tất cả nơi đây đều tạp nham: những ngôi biệt thự thời Victoria đã hơi cũ nằm cạnh những tòa nhà cao tầng vô hồn, những tòa nhà hiện đại này lại nằm cạnh những khu chung cư cổ lỗ xập xệ. Những ngôi nhà cổ màu phấn phơn phớt cạnh những tòa nhà phủ đầy những hình vẽ tự phát với những gam màu lòe loẹt. Chính dân chúng nơi đây cũng sống rải rác giữa nhiều cộng đồng khác nhau. Họ chạm mặt nhau nhưng không thực sự giao du với nhau. Ta nghe thấy đủ các thứ tiếng như Trung Quốc, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ả Rập hoặc Nga. Ai nấy sống trong thế giới của mình mà không bận tâm đến những người xung quanh. Một người ăn mày tiến đến và chìa tay ra. Jonathan lưỡng lự giây lát rồi bước qua trong lúc cố tránh nhìn vào mắt ông ấy. Ta làm sao có thể cho tất cả mọi người được. Michael - cộng sự của anh - đã chọn bàn trên sân quán cà phê. Đó là một người đàn ông trạc tứ tuần, lịch lãm với nụ cười quyến rũ, nói rất nhanh và luôn tràn trề năng lượng đến nỗi ta phải tự hỏi liệu có phải anh ấy được gắn với các hộp pin cao áp hay đơn giản là đã được tiêm amphêtamin. Com-plê màu cát, áo sơ mi trắng và cà-vạt lụa màu vàng dệt nổi, anh ta ngồi trước một cốc cà phê to và phần bánh carrot cake, mà nó hình như được chọn để hợp với màu chiếc cà-vạt. Phần sân hiên quán cà phê chiếm dụng một khoảng lớn vỉa hè, đủ sâu để khiến ta quên đi luồng xe hơi đang chạy ngoài kia, đằng sau dãy cây thấp, được trồng trong những bồn gỗ lớn sánh ngang các vườn ươm trong các tòa lâu đài. Bàn ghế được làm từ song mây tạo thêm cảm giác rằng ta đang ở nơi khác, chứ không phải ở trung tâm thành phố. - Cậu ổn chứ? - Michael lên tiếng với một chất giọng đầy hưng phấn. Cảnh tượng gần giống với các màn diễn của Jim Carrey trong phim Mặt nạ*. • Phim The Mask với sự tham gia của nam diễn viên điện ảnh Mỹ Jim Carrey. - Còn anh thì sao? - Jonathan đáp lại hệt như thường lệ. Anh lấy trong túi ra một lọ nước tẩy trùng, nhỏ vài giọt lên những ngón tay và xoa thật mạnh. Michael nhìn anh với một nụ cười thích thú trên môi. - Tuyệt đỉnh! Cậu dùng gì hả? Hôm nay có bánh ga-tô ngon lắm. - Giờ anh lại ăn sáng bằng bánh ga-tô à? - Đấy là chế độ ăn mới của tôi đấy: một chút đường vào buổi sáng để khởi động, sau đó thì suốt cả ngày sẽ chẳng có gì hết. - Thế thì gọi bánh ga-tô đi. Michael ra hiệu cho người bồi bàn và gọi đồ ăn. Trong ba cộng sự thì Michael là người xử lý tốt nhất những mánh lới nghề nghiệp, Jonathan thường xuyên cảm thấy và dành cho anh ta một sự ngưỡng mộ nhất định. Anh thèm muốn sự lưu loát thuần thục mà Michael có được để dẫn dụ khách hàng vào một tình thế thích hợp để rồi bị thuyết phục. Khi đi cùng anh ta tiến hành thăm dò tư tưởng của những tiểu thương, Jonathan chứng kiến nhiều cảnh đáng kinh ngạc mà Michael đã có thể lật ngược tình thế để thuyết phục được một khách hàng tiềm năng nhưng hết sức khó tính. Sau một thời gian dài được đào tạo và huấn luyện các phương pháp bán hàng, Jonathan đã xoay xở khá thành công, nhưng anh vẫn cần phải có nhiều nỗ lực đáng kể ở những điểm mà Michael đã thực hiện với một sự thuần thục cao độ, thông thạo mọi chi tiết kỹ thuật để thuyết phục được khách hàng đồng ý ký hợp đồng mới, những chọn lựa mới, luôn luôn gia tăng các điều khoản bảo hiểm để bảo vệ mình hơn nữa, cho đến tận lúc cứ đồng ý mua các khoản mà không hề nhận ra rằng trên thực tế chúng bảo hiểm cho cùng một rủi ro… Trong lĩnh vực này - anh ta đã thổ lộ bí quyết với các cộng sự của mình - sợ hãi là cảm xúc chúa tể, đồng minh cốt lõi của người bán hàng. Cảm xúc đó mà nảy sinh trong ánh mắt của nhà buôn thì ngay lập tức gợi lên hình ảnh của một thảm họa, một vụ trộm, một vụ kiện tụng. Thoạt đầu rất nhỏ, nhưng rất âm ỉ, nó nhanh chóng thấm vào tận các hang cùng ngõ hẻm của trí óc cho đến lúc nó trở nên chiếm ưu thế trong tính năng quyết định. Khi ấy khoản lệ phí hàng năm sẽ được đưa ra, khoản này sẽ được so sánh với phí tổn của một trận hỏa hoạn, một tai nạn hoặc một vụ kiện tụng bởi một khách hàng tiêu dùng giận dữ? Các viễn cảnh tai nạn càng ảm đạm bao nhiêu thì các khoản đóng bảo hiểm hình như càng chẳng đắt đỏ gì… Jonathan là một người trung thực, nên anh thường cảm thấy hơi có lỗi. Nhưng tất cả các đối thủ cạnh tranh của anh đều vận dụng những kỹ thuật này, mà nếu một mình từ bỏ chúng thì e sẽ bị trừng phạt. Trong thế giới nhẫn tâm này, các quy tắc là đúng như chúng vốn thế, - anh tự nhủ. Tốt hơn là chấp nhận chúng và cố gắng lấy lại vốn liếng của mình nếu như ta không muốn đến nhập bọn cùng với những kẻ bị xã hội ruồng bỏ… - Cậu biết đấy, - Michael nói, - tôi đã suy nghĩ rất nhiều về tình trạng của cậu trong những ngày gần đây. - Tình trạng của tôi ư? Michael gật đầu nhẹ. Ánh mắt anh ta ngập tràn sự cảm thông. - Càng quan sát kỹ các bạn, thì tôi lại càng tự nhủ rằng quả là địa ngục đối với cậu khi cứ tiếp tục làm việc hàng ngày với người vợ cũ như hiện nay. Hơi bị bất ngờ, Jonathan ngước nhìn người cộng sự mà không đáp lại. - Các người cứ làm khổ lẫn nhau. Thật chẳng ra làm sao cả. Jonathan vẫn nín thinh. - Và chuyện ấy không thể kéo dài mãi được. Jonathan cụp mắt xuống. Michael nhìn anh gần như rất trìu mến. - Thế nên tốt hơn là thúc tiến trước đi… Anh ta cắn một miếng bánh carrot cake. - Tôi đã động não ghê lắm, lật ngược lật xuôi vấn đề, và cuối cùng tôi đã tìm ra đề xuất này cho cậu. - Một đề xuất à? - Ừ. Jonathan lại quay về với trạng thái yên lặng. - Cậu không cần trả lời ngay lập tức đâu, hãy cứ bình tĩnh suy xét cho kỹ. Jonathan nhìn anh ta một cách chăm chú. - Tôi sẵn sàng, - Michael lên tiếng, - gắng sức để mua lại các phần của cậu, nếu như cậu muốn rút đi. - Các phần của tôi… thuộc văn phòng công ty ư? - Đúng thế, chứ không phải phần bánh ga-tô của cậu đâu. Jonathan không sao thốt được thành lời. Anh chưa bao giờ có ý định rời khỏi công ty mà họ đã cùng nhau sáng lập nên. Anh đã đầu tư vào đó biết bao nhiêu, cả thể xác lẫn tâm hồn, đến nỗi mà nơi đó đã trở thành… như chính một bộ phận của cơ thể anh vậy. Anh cảm thấy lòng quặn thắt. Rời khỏi công ty đồng nghĩa với việc tự cắt đi phần cốt lõi nhất của cuộc đời anh. Bắt đầu lại từ con số 0. Phải gầy dựng lại toàn bộ… Một màn hình ti vi gắn trên tường trong quán cà phê đang phát những hình ảnh về Austin Fisher, quán quân quần vợt đã giật được cơ man là giải thưởng. Sau khi đã tiếp tục chiến thắng giải Wimbledon vài tuần trước, cầu thủ này lại có mặt tại Flushing Meadow với rất nhiều triển vọng cho giải US mở rộng. Jonathan nhìn những hình ảnh, vẻ mơ màng. Bán lại các cổ phần cho Michael chắc cũng sẽ đồng nghĩa với việc từ bỏ ước mơ thầm kín của anh: vượt anh ta, để đến lượt anh sẽ trở thành người thu được thành quả kinh doanh tốt nhất. - Tôi sẽ phải đi vay thêm, - Michael tiếp tục lên tiếng - cũng nặng đô đấy, nhưng có lẽ đó là điều mà tất cả chúng ta nên làm. - Hello mọi người! Angela ngồi vào bàn cùng họ và ồn ĩ thở hắt ra để biểu lộ sự bực bội của mình, tuy nhiên vẫn có nụ cười thoáng trên môi. Jonathan biết rõ tâm tính cô ấy. - Cô khỏe chứ? - Michael hỏi. - Con gái anh đã không muốn đánh răng, - cô gái lên tiếng trong lúc hất cằm về phía Jonathan. - Đương nhiên là mẹ nó đã không nhân nhượng. Em đã phải chiến đấu trong suốt mười phút liền… Kết quả là khi đến nơi thì cổng trường đã đóng. Nó đã phải tự bấm chuông phòng người quản trường và đã bị mắng cho một trận. Đáng đời nó lắm! - Cà phê Mỹ, như thường lệ chứ hả? - Michael hỏi mà không đánh mất đi nụ cười của mình. - Không, một cà phê đúp đi, - Angela đáp và lại tiếp tục thở hắt ra. Michael gọi cà phê. Angela đưa mắt nhìn Jonathan kèm theo một nụ cười a-xít. - Anh có vẻ bình thản nhỉ. Thư giãn… Anh không phản ứng. Cô luồn bàn tay vào mái tóc hạt dẻ sáng màu và dài chớm vai của mình. - Anh đã trách em, - cô nói, - dành thời gian chăm sóc đám cây cối hơn là chăm con gái nhưng mà… - Anh chưa bao giờ trách em điều ấy, - Jonathan phản kháng bằng một chất giọng đã kịp mang màu cờ trắng rồi. - Nhưng đám cây cối của em, như anh thấy đấy, chúng chẳng bao giờ lăn lộn ra đất và kêu toáng lên cả. Jonathan cố kìm một nụ cười, rồi uống tách cà phê của mình mà không nói gì. Họ chia tay nhau đã ba tháng nay, nhưng cô tiếp tục trách cứ anh hệt như trước đây. Và kỳ lạ, đột nhiên anh cảm thấy thích điều ấy. Bởi nó gây cho anh cảm giác quan hệ giữa anh và cô, dẫu đã chia cắt, nhưng vẫn tiếp tục. Anh chợt ngộ ra điều mà anh đã chưa bao giờ thú nhận: tận sâu trong tâm khảm mình, tia hy vọng sẽ nối lại tình xưa vẫn đang ngủ gà ngủ gật đâu đó. Bán các cổ phần của anh trong công ty cho Michael là dập tắt cả tia hy vọng đó trong anh, khi hủy bỏ mối quan hệ hàng ngày cuối cùng giữa anh và Angela. Anh quáng quàng đi đến buổi hẹn làm việc đầu tiên trong ngày, bỏ mặc các cộng sự trên sân hiên quán cà phê. Bản danh sách những khách hàng tiềm năng cần gặp gỡ thì dài. Sẽ là một ngày vất vả đang chờ đợi đấy, nhưng hôm nay là ngày làm việc cuối cùng trước kỳ nghỉ cuối tuần. Anh sẽ còn thời gian để nghỉ ngơi. Anh còn lâu mới hình dung rằng chỉ hai ngày sau, cuộc đời của anh sẽ thay đổi hoàn toàn. Mời các bạn đón đọc Bỗng Dưng Muốn Sống của tác giả Laurent Gounelle.
Hôi Của Đông Lăng
Danh gia cổ vật là bộ tiểu thuyết lấy đề tài giám định và sưu tầm đồ cổ tiêu biểu cho các sáng tác của Mã Bá Dung, ngay sau khi ra mắt đã được đông đảo bạn đọc yêu thích đón nhận. Cuối năm 2018, tác phẩm được Tencent Pictures chuyển thể thành phim dài tập cùng tên với sự tham gia diễn xuất của Hạ Vũ, Kiều Chấn Vũ… TẬP 3: Giám định cổ vật, thực ra là đo lòng người đấy thôi. Báu vật càng trân quý càng soi thấu lòng người đáng sợ. Ngược dòng thời gian về năm Dân Quốc thứ mười bảy, ông nội Hứa Nguyện là Hứa Nhất Thành bấy giờ đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa, bất ngờ nhận được nửa bức thư in dấu tay máu của một người bạn cũ. Chữ “lăng” trơ trọi trên mảnh giấy dường như ám chỉ một âm mưu nhắm tới những lăng tẩm đế vương đang bị quên lãng giữa thời cuộc rối ren, nhưng ai sẽ là kẻ ra tay thủ ác và mục tiêu sau cùng là gì? Lần theo những manh mối mơ hồ, những sự kiện tưởng chừng rời rạc, Hứa Nhất Thành dần tìm ra từng mảnh ghép của một âm mưu chấn động. Song thế lực y phải đương đầu không chỉ có một, trong khi hậu phương là Minh Nhãn Mai Hoa lại chỉ như con rùa rụt cổ… DANH GIA CỔ VẬT (trọn bộ 4 tập): - Kỳ Án Đầu Phật - Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ - Hôi Của Đông Lăng - Minh Nhãn Mai Hoa VỀ TÁC GIẢ: MÃ BÁ DUNG sinh năm 1980, tại Xích Phong (Ulankhad) thuộc khu tự trị Nội Mông. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc với bút lực dồi dào, văn phong đa biến. Phạm vi sáng tác trải từ phê bình, tản văn, tiểu phẩm đến tiểu thuyết vừa và dài, thể loại sáng tác phong phú, bao gồm khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lịch sử, trinh thám v.v… Năm 2005, ông đạt giải thưởng Ngân Hà dành cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Trung Quốc. Năm 2010, ông đạt giải thưởng Văn học Nhân dân, một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của văn đàn Trung Quốc. *** Review DANH GIA CỔ VẬT - HÔI CỦA ĐÔNG LĂNG. Bài đăng của bạn Nguyen Viet Ha trên Nhã Nam reading club. Tác giả: Mã Bá Dung Warning: Review có spoil. _ Chuyện xảy ra vào năm Dân quốc thứ mười bảy. Năm ấy Bắc Kinh vô cùng hỗn loạn, các phe cánh chính trị đối chọi nhau gay gắt, giới cổ vật cũng nổi lên sóng gió. Người Nhật sang Trung Quốc dưới danh nghĩa khảo cứu và bảo tồn văn vật, nhưng thực chất là muốn mang văn vật Trung Quốc về Nhật Bản; còn chính người Trung Quốc thì cũng lại lén lút đánh cắp, bòn rút cổ vật có giá trị hòng bỏ túi riêng. Trong không khí đượm mùi chết chóc và hỗn loạn của Bắc Kinh bấy giờ, Hứa Nhất Thành nhận được nửa mảnh giấy in năm dấu tay máu và chữ “lăng” mơ hồ từ một người bạn cũ. Người ấy trước lúc chết đã gắng sức níu lấy một ông lão qua đường, khẩn cầu ông ta báo tin đến y, như thể chỉ cần chậm trễ một chút thôi là cả tấn bi kịch sẽ đổ xuống Bắc Kinh vốn đã chẳng bình an gì mấy này. Hẳn Hứa Nhất Thành khi ấy cũng sẽ không ngờ, mảnh giấy ấy sẽ dẫn y tới một vụ án chấn động không chỉ giới cổ vật, mà còn liên quan đến vận mệnh quốc gia. Ban đầu, Hứa Nhất Thành vốn tưởng chỉ có người Nhật có liên quan đến bí ẩn sau mảnh giấy dính máu mà bạn mình để lại, nào ngờ trên đường tra án, y nhận ra càng ngày càng xuất hiện thêm nhiều thế lực khác, mới có cũ có, mà mục đích cuối cùng, đều là nhắm vào lăng tẩm của các đế vương Trung Quốc, hay nói đúng hơn, là đồ tuỳ táng được chôn cùng chủ nhân những lăng tẩm ấy. Nhưng mà, có thật là những thế lực kia chủ ý muốn sở hữu cổ vật trong Đông lăng không, hay đó chỉ là bước đầu để che giấu một âm mưu khác đáng sợ hơn nhiều? Rốt cuộc trong Đông lăng có thứ gì, mà phải khiến người ta lao tâm khổ tứ giăng bẫy hòng đặt chân vào ngôi mộ ấy như thế? Các triều đại luôn có sự liên kết với nhau, hình thành nên sợi dây lịch sử kéo dài không dứt. Đến lúc này, khi có kẻ muốn lật đào lịch sử lên, mối liên hệ giữa những ngôi mộ lặng yên đã hàng trăm năm ấy cũng dần được hé lộ... ___ “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” không nối tiếp câu chuyện của Hứa Nguyện ở tập 1 và tập 2, mà là kể lại chuyện xưa của ông nội Hứa Nguyện - Hứa Nhất Thành, khi vẫn đang theo học ngành khảo cổ ở đại học Thanh Hoa. Kiến thức về văn hoá và cổ vật vẫn được cài cắm xuyên suốt tập truyện, song mình đánh giá tập 3 này vụ án khó hơn và tình tiết cũng bất ngờ hơn hai tập trước. Ngay từ cái tên và vết tích cuối cùng trên mảnh giấy mà Hứa Nhất Thành nhận được, người đọc có thể dễ dàng đoán ra trung tâm của tập này là “lăng”, còn “hôi của Đông Lăng” thì ám chỉ về một vụ trộm mộ. Đông Lăng là lăng mộ của vua chúa nhà Thanh, nơi chôn cất hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị và các phi tần, hoàng tử, công chúa. Từ xưa việc quật mồ mả người chết vẫn luôn là việc không nên, rất tổn hại âm đức, thế nhưng những đồ tuỳ táng chôn theo ở lăng tẩm vua chúa không chỉ có giá trị lịch sử, mà giá trị vật chất thực cũng không ít món hời, do vậy không ít kẻ vẫn bất chấp tất cả mà tìm đường vào lăng hòng “hôi của”. Tình cảnh năm ấy thật sự rất loạn, ngay cả Minh Nhãn Mai Hoa tiếng tăm lẫy lừng cũng phải khúm núm nhún nhường trước tiền bạc và quyền lực, nhưng Hứa Nhất Thành lại không màng nguy hiểm mà quyết tâm tìm ra bí mật sau mảnh giấy kia đến cùng. Thứ nhất là bởi y muốn hoàn thành uỷ thác mà người bạn quá cố đã giao cho mình, thứ hai là bởi y không thể trơ mắt nhìn văn vật Trung Quốc cứ vậy mà rơi vào tay người Nhật. Y không thể chịu nổi cảnh người Trung Quốc bị “đào trốc rễ”, văn hoá lịch sử bị ngoại quốc lấy sạch chẳng còn gì. Có lẽ tính tình cố chấp, cương trực thẳng thắn của Hứa Nguyện di truyền từ Hứa Nhất Thành. Đúng là con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, Hứa Nhất Thành tài giỏi như vậy, đến đời Hứa Nguyện cũng không hề thua kém. Chỉ khác là Hứa Nhất Thành có vẻ chín chắn và dứt khoát hơn Hứa Nguyện. Ngoài những đoạn phá án hồi hộp thì tập này có khá nhiều những phân cảm xúc, ví như đoạn Hứa Nhất Thành bất lực nhìn Đông lăng bị xới tung lên, con người nổi lòng tham mà ào vào vơ vét đồ tuỳ táng, dẫm đạp lên lịch sử văn hoá và người đã khuất. Vào thời buổi rối ren bấy giờ, mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, còn Hứa Nhất Thành, dù trải qua bao phen hiểm nguy gian khổ, y vẫn trước sau như một giữ trọn tấm lòng sáng như gương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ nguồn cội của dân tộc. Đúng là một người rất đáng quý. Nói chung “Danh Gia Cổ Vật - Hôi của Đông Lăng” hay lắm. Tập này có thể coi là một ngoại truyện, vì vậy nếu tách ra đọc riêng thì vẫn có thể hiểu được. Mình thật sự mong chờ tập 4 - cũng là tập cuối cùng trong series này được xuất bản để xem hành trình của “Danh Gia Cổ Vật” sẽ tiếp diễn và kết thúc thế nào. *** Một gia tộc truyền đời cũng giống như một món cổ vật thượng hạng vậy. Trải bao đời giữ gìn và đánh bóng, âm thầm tích lũy giữa dòng thời gian đằng đẵng, dần dà, nó sẽ khoác lên mình một lớp hồ bọc đậm đà tinh thuần, ôn nhuận trầm lặng, toát lên vẻ cổ kính. Cổ vật hữu hình, truyền thừa vô hình, không nhìn thấy, không chạm tới được song lại thấm vào xương máu con cháu đời sau trong gia tộc, trở thành sợi dây ràng buộc tinh thần giữa các thành viên trong gia tộc với nhau, thậm chí trở thành một phần trong tính cách và số phận họ. Trên đường tới gặp Lão Triều Phụng, tinh thần của nhà họ Hứa đã ẩn tàng cả nghìn năm nay trong cơ thể tôi bắt đầu thức tỉnh. Nó rục rịch, sôi trào như muốn nói gì đó với tôi. Đó không phải sự biểu đạt bằng ngôn ngữ, mà là sự cộng hưởng vượt lên cả hạn chế của thời gian. Câu chuyện nó muốn kể rất dài, song khi truyền đạt cho tôi lại chỉ mất một cái chớp mắt. Những con người quá khứ, những câu chuyện xa xưa cùng những món cổ vật truyền kỳ đã ngưng kết lại thành cảm xúc trong một khoảnh khắc, khiến tôi đang đi chợt dừng bước, đặt tay lên ngực, ngẩng đầu nhìn trời. Tuy không thấu triệt, nhưng tôi cảm nhận được, đây là một câu chuyện liên quan đến ông nội Hứa Nhất Thành của tôi. Một truyền kỳ tôi chưa bao giờ được biết.   Hạ tuần tháng Năm năm Dân Quốc thứ mười bảy*, Bắc Kinh đương lúc chuyển mùa giữa xuân và hạ, khắp thành nở đầy hoa hòe. Đây là lúc trời nóng dần lên, dễ xảy ra đại dịch nên dân gian kiêng kị rất nhiều. Kiêng dán cửa, kiêng chuyển nhà, không cắt tóc, không phơi giường, ai nấy đều mong tới Đoan Ngọ giết sâu bọ xong mới bắt tay sửa sang dọn dẹp. Dân gian thường gọi là tháng Năm độc, hễ đến tháng này, nhất định sẽ có chuyện. Năm nay chưa nóng đã có gió lớn. Trận gió này cực lớn, cuốn theo cát bụi đầy trời phủ lên chùa Đàm Giá, trùm lấy núi Hương, cuồn cuộn ập vào thành, liên tục suốt mấy ngày. Quả là bụi lấp mặt trời, đâu đâu cũng một màu vàng của cát, cả thành Bắc Kinh như một bức ảnh cũ, trời mù mịt đất mù mịt tường mù mịt, người ngựa đi trên đường đều mù mịt, khiến lòng người ta cũng mịt mờ. Hằng năm Bắc Kinh đều nổi bão cát, nhưng chủ yếu vào mùa xuân. Năm nay trận bão này lại oái oăm, đến vào tháng Năm độc. Người già kể rằng loại gió này rất có lai lịch, gọi là gió Hoàng sát, chuyên khắc hoàng thượng. Năm Sùng Trinh treo cổ, Bắc Kinh đã nổi gió này; năm Viên Thế Khải qua đời, cũng nổi gió; về sau khi Tuyên Thống đế bị Phùng Ngọc Tường trục xuất khỏi Tử Cấm thành, gió này cũng đến. Bởi thế năm nay gió vừa nổi, lại gặp ngay tháng Năm độc, người già ở Bắc Kinh đều nhủ bụng, e rằng… lần này lại thay triều đổi đại rồi đây. Hoàng Khắc Vũ ôm tay nải xanh, liêu xiêu chạy men theo chân Thiên Đàn về phía Tây. Giữa mịt mù bão cát lại chạy ngược gió, dù đang trai tráng bẻ gãy sừng trâu, cậu cũng phải khom lưng cúi đầu nín thở. Hễ chạy nhanh là miệng đầy cát, vừa hít thở đã sặc sụa vì bụi. Nhưng việc gấp như lửa đốt, Hoàng Khắc Vũ làm gì còn tâm trạng oán trách thời tiết, đành kéo sụp vành mũ xuống, chạy không ngơi nghỉ. Vừa qua cầu Hổ Phường, trời đã nổi gió lớn, đất vàng mịn hơn cả phấn cuồn cuộn bốc thành làn sương bụi che mờ cả đất trời. Đừng nói đến mái tháp phía xa và biển hiệu treo trên rào chắn ở gần, ngay người ngựa bên kia đường, cách mấy bước chân cũng chẳng trông rõ được. Hoàng Khắc Vũ nheo mắt cúi đầu chạy như bay, ngờ đâu phía trước lại mọc ra một bóng người sau làn sương bụi, khiến cậu không kịp dừng bước, đâm sầm vào người ta. Hoàng Khắc Vũ có võ, lập tức lùi lại mấy bước, túm lấy cây cột đứng vững, song người kia thì ngã nhào. Hoàng Khắc Vũ vội cúi xuống đỡ, vừa khom người đã thầm than không ổn, người kia mặc quân phục xanh xám, đầu buộc một dải băng lem luốc, tay còn cầm cây súng Mauser 13, ra là lính Phụng Thiên! Lính Phụng Thiên là quân Đông Bắc do Trương Tác Lâm dẫn vào quan nội, kỷ luật cực kém, dân chúng vẫn gọi vụng là quân thổ phỉ. Từ đầu năm, khi hai phe Nam Bắc lại giao tranh, tổng thống Trương vẫn sa lầy trong chiến sự ở một dải Sơn Đông, Hà Nam, quân Bắc phạt đánh thẳng lên phía Bắc, lính Phụng Thiên bị thương trong thành Bắc Kinh ngày càng nhiều. Bề trên bỏ bê lương thưởng nên trong tay đám thương binh này chẳng có gì ngoài cây súng, chúng bèn tụ hợp lại, gặp người là cướp, thấy hiệu là phá, cảnh sát cũng chẳng dám động đến. Hoàng Khắc Vũ không muốn rầy rà, vội chắp tay xin lỗi rồi quay người toan lẩn vào màn cát bụi chuồn thẳng. Nào ngờ tên lính Phụng Thiên kia lồm cồm bò dậy, lên đạn cách một tiếng, chĩa súng vào Hoàng Khắc Vũ quát lớn, “Đâm vào ông mày còn định chạy à?” Hoàng Khắc Vũ đành đứng lại. Tên lính Phụng Thiên kia khập khiễng đi đến, giáng ngay cho cậu một bạt tai, “Thằng ranh này! Mắt ném cho chó ăn rồi hả?” Hoàng Khắc Vũ nghiến răng nhìn trừng trừng họng súng không đáp. Tên lính Phụng Thiên thấy cậu khoác tay nải thì sáng mắt lên, ra lệnh, “Ông nghi mày là tay trong của quân phản loạn, đưa đây! Mở ra ông kiểm tra!” Đoạn vươn tay định giật. Tay nải này hết sức quan trọng, Hoàng Khắc Vũ đời nào để hắn chạm vào, bèn xoay người né tránh. Tên lính nổi điên chửi “Rõ là đéo biết điều” rồi giơ súng lên định kéo cò. Tình thế cấp bách, Hoàng Khắc Vũ đành sấn lên nửa bước, tay phải nắm lấy họng súng hất lên, tay trái nhanh như chớp chặt mạnh vào gáy hắn. “Đoàng” một tiếng, đạn bay sượt qua đầu Hoàng Khắc Vũ bắn vào khoảng không, tên lính kia cũng ngã xuống đất ngất lịm. Hoàng Khắc Vũ sờ đầu, mặt tái xanh. Nếu chậm nửa bước, e rằng cậu đã bị bắn chết tươi ngay trên phố. Giữa kinh đô nổi tiếng là đất lành, vậy mà chẳng biết từ bao giờ lại hỗn loạn tới mức này? Cậu thần ra mấy giây, rồi sực nhớ mình đang có việc quan trọng, vội ném cây súng xuống, thắt chặt tay nải, quay người lẩn vào màn cát bụi mù trời. Chẳng bao lâu sau, lại thấp thoáng mấy bóng người đi đến, thấy tên lính Phụng Thiên nằm mê man, chúng liền xúm lại lột sạch quần áo hắn, cuỗm luôn cả cây súng. Hoàng Khắc Vũ thoát được tên lính, chạy một mạch qua cổng Tuyên Vũ, tới cửa hội quán Thái Nguyên nằm ở đầu Đông ngõ Trữ Khố Doanh mới dừng lại. Chạy cả một quãng dài, cậu thấy phổi nóng rát như bị giội nước sôi, buộc phải nghỉ chân, chống gối thở hổn hển. Vừa ngẩng lên, cậu đã thấy một cậu trai trắng trẻo đeo kính tròn đứng dưới gốc hòe già vẹo vọ đầu ngõ, rõ ràng đã đợi khá lâu. “Đem đến rồi à?” Kẻ kia hỏi. Hoàng Khắc Vũ thận trọng cầm tay nải lên tay, nâng niu vuốt ve, “Dọc đường gặp nhiều rắc rối, suýt nữa làm hỏng.” Hoàng Khắc Vũ đang định cởi tay nải ra thì cậu trai kia đã đưa mắt ra hiệu đừng nói chuyện. Hoàng Khắc Vũ nhìn quanh, phát hiện gần hội quán Thái Nguyên có rất nhiều cảnh sát đi tuần, họ túm năm tụm ba đứng giữa bụi mù, như hồn ma ngoài nghĩa địa giữa đêm hôm, chẳng thấy rõ được dáng dấp và mặt mũi, song vẫn rờn rợn ác ý. “Đi từ từ thôi, đừng chạy, cũng đừng ngoái lại.” Cậu trai hạ giọng dặn, đoạn hai người sánh vai đi vào trong ngõ. Mời bạn đón đọc Danh Gia Cổ Vật Tập 3: Hôi Của Đông Lăng của tác giả Mã Bá Dung.
Bệnh Án Của Thần Linh Tập 2
Một mùa xuân mới. Tấm bảng hiệu “Khám chữa bệnh 24 giờ, 365 ngày” vẫn ngạo nghễ trước cổng bệnh viện Honjou, một chiến trường tàn khốc với những phòng chờ đông nghẹt bệnh nhân, luôn náo loạn trong tiếng rú liên hồi của xe cấp cứu. Tình thế xoay chuyển khi Shindou Tatsuya - một bác sĩ nội huyết học tài năng nức tiếng đến nhậm chức tại bệnh viện. Vui mừng vì sẽ được trợ giúp khỏi những ca trực xuyên đêm và chứng đau nửa đầu dai dẳng bởi làm việc quá sức, bác sĩ Kurihara không ngờ người đồng nghiệp mới còn mang theo một bí mật động trời… Tiếp tục kể câu chuyện về những bác sĩ và y tá trẻ trong một bệnh viện tỉnh lẻ, Bệnh án của thần linh 2 đưa ta qua những cung bậc cảm xúc vui buồn, gợi ra những triết lý đời thường về sự sống và cái chết, thắp lên niềm hy vọng về lòng tốt và tình yêu thương của con người… Về tác giả: Natsukawa Sosuke sinh năm 1978 tại Osaka. Anh là bác sĩ làm việc tại một bệnh viện của tỉnh Nagano. Năm 2009, Natsukawa Sosuke ra mắt tác phẩm đầu tay Bệnh án của thần linh, cuốn sách đã mang lại cho anh giải Shogakukan mảng tiểu thuyết lần thứ 10. Bệnh án của thần linh 2 được xuất bản vào tháng 9 năm 2010 và cũng đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2014. *** Bệnh án của thần linh là quyển sách cuối cùng mà mình đọc trong năm 2018 (hoàn thành ngay trong đêm 31 luôn) và là quyển sách đầu tiên mình review của năm 2019. Lý do mình biết đến tác phẩm này thì phải quay ngược một chút về mấy năm trước, khi mình tình cờ biết đến nhóm sub phim Gothcafe. Hồi ấy mình theo bộ phim "Quán ăn đêm" mà nhóm thầu, xong thích luôn cách dịch và cách chọn phim để sub của các bạn ấy. Xong đến khi Nhã Nam thông báo sắp xuất bản quyển này và thấy status thông báo dịch giả chính là bạn chủ fanpage thì mình quyết định mua luôn, không đắn đo gì. Một là có niềm tin tuyệt đối về gu của bạn ấy, hai là cái tên truyện nghe đáng yêu quá chừng, và thứ ba là do bìa sách đẹp mê hồn, nhìn phát đã phải lòng luôn. Phải nói đây là quyển sách có bìa đẹp nhất mà mình từng đọc luôn.    Truyện kể về cuộc sống của bác sỹ trẻ tuổi Ichito Kurihara tại một tỉnh nhỏ Honjo. Tuy bị đánh giá là tính tình hơi lập dị nhưng với sự dày dặn kinh nghiệm y học và tấm lòng hết mình vì người bệnh và bạn bè mà anh được tất cả mọi người vô cùng kính trọng và thương mến. Đặc biệt trong tình trạng thiếu bác sỹ trầm trọng tại tỉnh lẻ thì người luôn thức đêm thức hôm làm việc suốt 40 tiếng đồng hồ như anh lại càng trở nên quan trọng. Có thể tóm gọn mô tả con người này trong 1 câu là y đức toàn  tài. Ngoài các mối quan hệ tốt trong công việc, Ichito có một người vợ không những luôn thấu hiểu, bao dung mình mà còn luôn khéo léo, tháo vát săn sóc căn hộ nhỏ bé của hai người. Anh còn có hai người bạn tốt đầy mơ mộng hàng xóm cùng khu nhà trọ cũ kỹ, lúc nào cũng sẵn sàng giúp anh giải tỏa bớt nỗi căng thẳng, mệt mỏi trong lòng. Nhìn qua thì có vẻ êm đềm là vậy nhưng vẫn có những lúc anh cảm thấy hoài nghi không biết con đường mình lựa chọn có đúng đắn hay không. Cho đến một ngày anh nhận được thư mời tham gia viện y tế tại trường đại học và...... Quyển sách chia thành 4 câu chuyện nhỏ xoay quanh công tác thường nhật của Ichito, đồng thời cũng nối tiếp nhau trở thành cuộc hành trình tìm ra ý nghĩa thực sự của nghề y cũng như quan niệm về sự thành công, sự sống của Ichito. Với thể loại Slice of life thế này thì thực sự là muốn spoil nội dung cũng không biết nên spoil thế nào cho phải, vì chỉ khi cầm quyển sách trên tay, yên tĩnh ngầm nghiễn từng trang sách thì người đọc mới thực sự tìm ra được điều mà tác giả muốn truyển tải. Thú thực là khoảng 50 trang đầu của quyển sách khiến mình hơi hụt hẫng một chút, vì giọng văn tự sự và tưng tửng vốn không phải là gu của mình. Nhưng càng kiên nhẫn đọc về sau mình càng tìm được cảm giác "A, đây chính là quyển sách dành cho mình." Lời văn càng về sau càng rất dịu dàng, mềm mại, đúng chất Nhật Bản mà mình yêu thích. Chưa kể ngoài những dòng tâm sự, triết lý thì những câu tả cảnh sắc và chuyển cảnh vô cùng uyển chuyển cũng cực kì hợp ý mình.  Mình thích những cuộc nói chuyện dí dỏm mà cũng vô cùng sâu sắc giữa những người sống trong khu nhà trọ ấy. Giữa những bộn bề cuộc sống, thật kì diệu khi đâu đó vẫn còn tồn tại những tình bạn đẹp, chân thành đến thế. Có những người bế tắc suốt bao năm trời luôn thất bại liền liều mình kết liễu bản thân nhưng chỉ một đêm tỉnh dậy, được thức tỉnh bởi hơi ấm tình bạn và gia đình lại tiếp tục tiến về phía trước. Đó chính là kiểu tình bạn mà mình luôn luôn tìm kiếm và ngưỡng mộ. Không cần phải quá thân thiết, dành quá nhiều thời gian cho nhau hay can thiệp đến cuộc sống của nhau nhưng đủ quan tâm và chân thành để làm cuộc sống đối phương hạnh phúc hơn, dù chỉ là những điều cỏn con nho nhỏ. Bên cạnh đó thì mối quan hệ giữa vợ chồng bác sỹ và tình đồng nghiệp giữa các bác sỹ với nhau cũng cực kì đáng yêu, là những điểm sáng của truyện nữa. Mình cũng cực kì thích cách tác giả truyền tải lí tưởng nghề y và nhiếp ảnh vào câu chuyện. Có thể vì giấc mơ hồi bé của mình là mua được một chiếc máy ảnh để lưu giữ mọi khoảnh khắc tự nhiên trên thế giới này nên mình cực kì thích thú khi đọc những phân đoạn về vợ của Ichito. Thật đáng tiếc là đến giờ mình vẫn chưa đủ đam mê, dũng cảm cũng như tài năng để làm được điều này. Với cá nhân mình thì dù tương đồng đề tài nhưng Bệnh án của thần linh có lẽ sẽ dễ đọc hơn là Người đan thuyền xếp chữ. Nếu ai đang tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng đậm chất Nhật với độ dài vừa phải thì đây sẽ là một lựa chọn hợp lý. Tổng kết: 8.5/10 (Định cho 8/10 nhưng thôi cho thêm 0.5 vì cái bìa sách quá sức xinh đẹp - đẹp nhất trong số các tác phẩm của Nhã Nam từ trước tới nay với mình -  và văn phong dịch trau chuốt của dịch giả) Người Review: Blue Faith *** Khúc dạo đầu Thuở xưa ở xứ Shinshu*, có một chốn được mệnh danh là “Mái đầu của Vua”. Nơi ấy tọa lạc một đỉnh núi cao sừng sững 2034 mét so với mặt nước biển, mang tên gọi chính thức là Ougatou*, trải dài qua ba miền Matsumoto, Ueda, Nagawa. Người xưa đặt cho nó cái tên đó chẳng rõ vì kính sợ hay ngưỡng vọng. Nhưng dẫu thế nào, hẳn khi ngước nhìn ngọn núi cao ngất phủ tuyết trắng ấy, cõi lòng họ đã chứa chan những xúc cảm lạ thường. Ngày nay, tên gọi Ougatou không còn phổ biến mà thay vào đó là một cái tên kiểu cách nhưng lại kém tinh tế hơn chút đỉnh là Utsukushigahara*. Dẫu vậy, ngọn núi đẹp lộng lẫy với những áng mây trắng bồng bềnh kia so với thuở xa xưa vẫn chẳng hề thay hình đổi dạng, mãi cao ngạo trông xuống Matsumotodaira. Khi mùa đông đến, từ sườn núi lên tới đỉnh đều phủ tuyết trắng ngần. Dù ngắm nhìn từ nội thành Matsumoto, ta vẫn có thể thấu rõ vẻ uy phong của nó. Tôi đứng tại nhà ga Matsumoto trong tiết sơ tuần tháng Ba giá rét, hơi thở hóa khói trắng muốt, ánh mắt đăm đắm hướng về ngọn lệ sơn phía xa kia.   Trước cảnh sắc thiên nhiên hữu tình tuyệt mỹ xứ Shinshu, trong tâm trí tôi chợt ngân lên một câu trứ danh: Vận mệnh đã có trời cao định. Làm người thì sống xứng với chữ “người” là đủ. Khi xã hội Nhật Bản thời Minh Trị đang tiến lên hối hả, có một văn hào đã tĩnh tại động bút viết nên câu ấy. Chính là Natsume Souseki tiên sinh. Tôi, Kurihara Ichito, một trang nam tử cô độc cao khiết, đã bị câu văn ấy lay động tâm can. Tôi nghiền ngẫm mọi tác phẩm của Souseki, lời lẽ cũng ảnh hưởng chất cổ phong của ông. Thế nhưng, khẩu khí có kỳ lạ đến đâu thì trong thâm tâm tôi vẫn là một thanh niên hiện đại thuần túy. Dẫu có vỗ ngực tự xưng là kẻ “cô độc cao khiết” đi chăng nữa, thật ra tôi vẫn chỉ là gã trai non nớt vụng về, không biết cách hòa hợp với nhân gian. Đương nhiên tôi cũng không có dây mơ rễ má gì với Souseki tiên sinh hết. Tôi chỉ là một bác sĩ khoa nội ngày ngày chạy đôn chạy đáo khắp vùng Matsumotodaira xứ Shinshu này thôi. Bây giờ đang là tháng Ba âm lịch, đã qua lễ hội Đào*. Vào khoảng thời gian cuối năm tài chính* này, có lẽ những người làm công ăn lương khắp nơi đều bận lu bu đủ thứ việc, nhưng với các cơ quan y tế thì đây lại là thời điểm có thể xả hơi một chút. Nguyên do là khí hậu lạnh giá đã dịu đi, số người bị viêm phổi trong mùa đông giảm dần nên việc khám chữa bệnh cũng bớt được phần nào vất vả. Bệnh viện Honjou, nơi tôi công tác, cũng không là ngoại lệ. Đối với một bệnh viện địa phương - lại còn là cái bệnh viện treo tấm bảng mang dòng chữ huênh hoang “Khám chữa bệnh 24 giờ, 365 ngày”, nơi mà lịch làm việc cả năm đều kín mít, chẳng có lấy một ngày nghỉ - thì quãng thời gian này quả thật vô cùng quý giá. Ngay giữa thời điểm ấy, tôi đã nhận được hai ngày nghỉ phép. Đó là món quà nhỏ mà bác sĩ Chồn Bự - trưởng khoa nội, thầy hướng dẫn của tôi - thưởng cho tôi vì đã quyết định từ sau tháng Tư sẽ tiếp tục công tác tại bệnh viện Honjou. Khi năm tài chính mới bắt đầu, sẽ có các tân binh còn thiếu kinh nghiệm tới bệnh viện làm việc, lúc ấy tôi không thể nghỉ được nữa. Vậy nên tôi đã giao lại ba mươi bệnh nhân mà mình phụ trách cho bác sĩ Chồn Bự, rồi cảm kích nhận lấy hai ngày hạnh phúc tột bậc này. Tròn năm năm làm bác sĩ, đây là lần đầu tiên tôi có được một kỳ nghỉ cho ra nghỉ.   Mời bạn đón đọc Bệnh Án Của Thần Linh Tập 2 của tác giả  Natsukawa Sosuke & Quỳnh Quỳnh (dịch).
Gọi Em Bằng Tên Anh
Gọi em bằng tên anh là câu chuyện tình yêu bất ngờ và mạnh mẽ nảy nở giữa thiếu niên 17 tuổi tên Elio với Oliver, một học giả Mỹ là khách trọ mùa hè ở căn biệt thự của ba mẹ Elio tại vùng duyên hải Riviera nước Ý thập niên 1980. Trong những tuần mùa hè sôi động ấy, dòng chảy cuồn cuộn ám ảnh và đam mê bị kìm nén càng làm mãnh liệt thêm tình yêu giữa hai chàng trai trẻ. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của André Aciman là một khúc bi ca chân thành và cảm động dành cho tình yêu con người. Một cuốn sách không thể nào quên. *** André Aciman sinh ngày 2 tháng 1 năm 1951) là một nhà văn người Mỹ. Sinh ra và lớn lên ở Alexandria, Ai Cập, ông hiện là giáo sư nổi tiếng tại Đại học Trung tâm Đại học Thành phố New York, nơi ông dạy lịch sử của các lý thuyết văn học và các tác phẩm của Marcel Proust. Aciman trước đây đã từng dạy viết văn bản sáng tạo tại Đại học New York và văn học Pháp tại Princeton và Bard College. Năm 2009, ông là nhà văn đặc biệt tại Đại học Wesley. Ông là tác giả của một số tiểu thuyết, bao gồm cả Call Me by Your Name (chiến thắng trong hạng mục Gay Fiction tại Lambda Literary Award 2007) và một hồi ký năm 1995, Out of Egypt, đoạt giải Whiting Award. Mặc dù ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Call Me by Your Name, nhưng Aciman đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2019, cuốn sách hay nhất của ông là cuốn tiểu thuyết Eight White Nights. Aciman được sinh ra ở Alexandria, Ai Cập, con trai của Regine và Henri N. Aciman, người sở hữu một nhà máy dệt kim. Mẹ của ông ấy bị điếc. Aciman đã lớn lên trong một gia đình nói tiếng Pháp, nơi các thành viên gia đình cũng thường nói tiếng Hy Lạp, tiếng Anh, và tiếng Ả-Rập. Cha mẹ ông là người Do Thái Sephardic, có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ và Ý, từ những gia đình đã định cư tại Alexandria vào năm 1905. Là thành viên của một trong những Mutamassirun ("nước") cộng đồng của mình, các thành viên trong gia đình của ông ấy đã không thể trở thành công dân Ai Cập. Như một đứa trẻ, Aciman nhầm lẫn tin rằng ông là một công dân Pháp. Ông đã đi học trường của Anh tại Ai Cập.[cần dẫn nguồn] Gia đình ông đã thoát khỏi cuộc di cư và những lần trục xuất từ ​​Ai Cập những năm 1956–57. Tuy nhiên, căng thẳng gia tăng với Israel dưới Tổng thống Gamal Abdel Nasser đưa người do Thái trong một vị trí bấp bênh và gia đình của ông ấy đã rời khỏi Ai Cập chín năm sau đó vào năm 1965. Sau khi cha ông có quốc tịch Ý cho gia đình, Aciman chuyển đến sống với mẹ và anh trai của mình như những người tị nạn đến Rome trong khi cha ông chuyển đến Paris. Ông ta nhận được một B.A. bằng tiếng Anh và Văn học so sánh từ trường Lehman College năm 1973, và bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ về Văn học so sánh của Đại học Harvard năm 1988. *** “Gặp sau!” Hai chữ đó, giọng nói đó, thái độ đó. Trước giờ, tôi chưa từng nghe ai dùng hai chữ “gặp sau” để tạm biệt. Nó có vẻ khắc nghiệt, cụt lủn, xua đuổi, thốt lên với sự bất cần ẩn giấu của những người không quan tâm là sẽ gặp lại hoặc nghe tin về ta nữa hay không. Đó là điều đầu tiên tôi nhớ về anh, và đến tận hôm nay tôi vẫn còn nghe câu đó. Gặp sau! Tôi nhắm mắt, nói câu đó, và trở lại nước Ý vào nhiều năm trước, bước dọc con lộ rợp bóng cây, nhìn anh xuống xe taxi, áo sơ-mi xanh dương thùng thình, cổ áo rộng phanh ra, kính râm, mũ rơm, chỗ nào cũng thấy da Đột nhiên anh bắt tay tôi, dúi vào tôi cái ba-lô, lấy va-li ra khỏi cốp xe, hỏi bố tôi có nhà không. Có thể chuyện đã bắt đầu ở ngay nơi đó, ngay lúc đó: cái áo, tay áo xắn lên, đôi gót chân tròn của anh thụt ra thụt vào đôi giày vải bạt đã sờn, háo hức muốn thử đi vào lối sỏi dẫn tới ngôi nhà của chúng tôi, vừa bước đi đã vội hỏi, Đường nào ra bãi biển? Một anh khách trọ hè. Lại thêm một nỗi chán. Rồi gần như không nghĩ ngợi gì, lưng anh đã quay sang chiếc xe, anh vẫy bàn tay đang rảnh và thốt một câu vô tư Gặp sau! với người hành khách khác trong chiếc xe, rất có thể người này đã chia tiền cuốc xe từ ga tới. Không thêm tên tiếc hay lời đùa bỡn gì để làm dịu đi cái sự chia ly xáo động, không gì cả. Hai chữ tống tiễn của anh nhanh nhảu, bạo dạn, và cụt lủn – ta có nói gì đáp lại anh cũng chẳng cần. Bạn thấy đó, tôi nghĩ đây sẽ là cách anh tạm biệt chúng tôi khi tới lúc. Sẽ là hai chữ Gặp sau! ẩu tả, cộc cằn. Từ giờ tới đó là sáu tuần lễ, chúng tôi sẽ phải chịu đựng anh ta. Tôi thật là khiếp sợ. Loại sợ không cắt nghĩa được. Dẫu vậy, tôi có thể học cách thích anh ta. Từ cái cằm tròn trịa cho tới cái gót cũng tròn trịa. Rồi sau vài ngày, tôi sẽ học cách ghét anh ta. Đây, chính con người có bức ảnh trên tờ đơn đăng ký vài tháng trước đã hiện ra cùng bao nhiêu hứa hẹn cho những mối thân tình chớp nhoáng. Nhận khách trọ hè là cách bố mẹ tôi giúp các giảng viên đại học trẻ chỉnh sửa bản thảo trước khi xuất bản. Cứ sáu tuần mỗi mùa hè, tôi phải dọn trống phòng ngủ của mình, chuyển xuống căn phòng kế dọc hành lang, căn phòng này nhỏ hơn, xưa là của ông tôi. Trong những tháng mùa đông, khi chúng tôi ở thành phố, nó trở thành căn phòng kho tạm, phòng trữ đồ, cũng như phòng áp mái, nơi có tin đồn là người ông có cùng tên với tôi vẫn nghiến răng trong giấc ngủ vĩnh hằng. Khách trọ hè chẳng phải trả tiền bạc gì, được hưởng mọi thứ trong nhà, và về cơ bản thì được làm bất cứ gì họ ưng, miễn là họ dành chừng một giờ mỗi ngày để giúp ba tôi viết thư từ, và giấy tờ nhiều loại. Họ trở thành người nhà, và sau mười lăm năm như vậy, chúng tôi đã quen với từng cơn mưa bưu thiếp và quà cáp không chỉ vào mùa Giáng sinh mà trải dài suốt năm từ những con người giờ đây hết lòng tận tụy với gia đình tôi, và sẵn sàng đi chệch khỏi lộ trình châu Âu của họ để cùng gia đình mình tạt qua B. một hai ngày, và hồi tưởng về nơi ăn chốn ở xưa. Lúc dùng bữa thường có hai hoặc ba vị khách khác, có khi là láng giềng hoặc họ hàng, có khi là đồng nghiệp, luật sư, bác sĩ, những kẻ giàu có và nổi danh ghé tới thăm ba tôi khi trên đường tới nhà nghỉ hè của riêng họ. Thậm chí đôi lúc chúng tôi đón mời một cặp đôi khách du lịch vãng lai vào phòng ăn gia đình, những người này đã nghe nói về căn biệt thự cũ xưa, và đơn giản chỉ muốn ghé qua xem chơi, họ rất đỗi thích thú khi được mời dùng bữa cùng chúng tôi, kể chúng tôi nghe về họ, trong khi dì Mafalda dù được báo vào phút chót vẫn dọn ra những món thường lệ của dì. Ba tôi, một người kín đáo và rụt rè khi một mình, thích nhất là có vài chuyên gia danh giá đang nổi lên trong lĩnh vực nào đó giúp chuyện vãn bằng vài thứ tiếng, trong khi mặt trời hè nóng rẫy cùng một vài ly vang ngọt rosatello1 đẩy con người rơi vào trạng thái lờ đờ khó tránh khỏi. Chúng tôi gọi phần việc đó là chuyện nhàm sau bữa chiều – và qua một dạo, hầu hết các vị khách sáu tuần của chúng tôi cũng vậy. Có lẽ chuyện bắt đầu không lâu sau khi anh tới, ngay giữa một trong những bữa ăn trưa thê thảm đó. Anh ngồi xuống cạnh tôi, và rốt cuộc tôi nhận ra rằng, dù làn da anh có hơi rám nắng sau ít ngày ở Sicily mùa hè đó, màu da lòng bàn tay anh cũng xanh xao, mỏng mảnh như làn da ở lòng bàn chân, hầu, dưới cánh tay – những chỗ này không bị phơi ra nắng nhiều, gần như màu hồng nhạt, lấp lánh và trơn láng như bụng thằn lằn. Kín đáo, trong sáng, non tơ, giống như màu ửng hồng trên gương mặt một vận động viên hoặc thoáng bình minh sau một đêm giông bão. Bấy nhiêu cho tôi biết nhiều điều về anh mà tôi sẽ chẳng biết hỏi thế nào. Có lẽ chuyện bắt đầu trong những giờ bất tận sau buổi ăn trưa, lúc mọi người thơ thẩn trong những bộ đồ tắm cả bên trong và ngoài ngôi nhà, thân thể nằm ườn ra khắp nơi, giết thì giờ cho tới khi ai đó rốt cuộc đề nghị chúng tôi xuống chỗ rặng đá để bơi. Họ hàng, anh em họ, láng giềng, bạn, bạn của bạn, đồng nghiệp hoặc đơn giản là bất kỳ ai gõ cửa nhà chúng tôi rồi hỏi mượn sân quần vợt – ai ai cũng được chào mời vào thơ thẩn và bơi và ăn và được dùng cả căn nhà nghỉ, nếu họ ở lại đủ lâu. Hay có lẽ chuyện bắt đầu trên bãi biển. Hoặc ở sân quần vợt. Hoặc trong lúc chúng tôi đi bộ cùng nhau lần đầu vào cái ngày đầu tiên, lúc tôi được nhờ dẫn anh đi xem nhà và chung quanh, và việc này dẫn tới việc kia, tôi đã đưa anh qua cánh cổng bằng sắt rèn cũ xưa đến tận bãi trống bát ngát ở khu đất heo hút gần với dọc đường ray xe lửa bỏ hoang từng nối B. với N. “Đâu đây có một nhà ga bỏ hoang à?” Anh hỏi, nhìn qua tán cây dưới ánh mặt trời bỏng rát, có thể là đang tìm chuyện để hỏi con trai chủ nhà. “Không, chưa từng có nhà ga nào cả. Con tàu đơn giản chỉ dừng lại thôi.” Anh tò mò về con tàu; vì đường ray có vẻ hẹp quá. Tôi giải thích rằng đó là con tàu hai toa có phù hiệu hoàng gia. Bây giờ đám du mục gypsy sống trong đó. Từ hồi mẹ tôi còn con gái tới đây nghỉ hè thì họ đã sống vậy rồi. Mấy người đó kéo các toa tàu vào sâu trong đất liền. Anh có muốn xem toa tàu không? “Có lẽ để sau.” Thái độ dửng dưng lịch sự, cứ như anh nhận thấy lòng sốt sắng sai chỗ của tôi nhằm làm vui lòng anh, và đẩy tôi ra xa một cách ngắn gọn. Nhưng tôi lại đau ... Mời các bạn đón đọc Gọi Em Bằng Tên Anh của tác giả André Aciman.