Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngợi Ca Sống Chậm

Những ngày này, nền văn hoá của chúng ta dạy rằng nhanh là đúng. Và để nhanh được, chúng ta đã phải trả giá bằng tất cả: công việc, ăn uống, sức khoẻ, các mối quan hệ và đời sống dục tình của chúng ta. Cuốn sách kỳ diệu của Carl Honoré đã thách thức sự tôn thờ tốc độ bằng cách chứng minh: Sống chậm mới là thời thượng. Sống lành mạnh hơn trong một thế giới hiện đại cuồng nộ, tạo lập sự cân bằng nhanh và chậm, điều độ, tự chủ và minh triết. Những điều tra đầy hứng thú của Honoré soi sáng phương thức mới mẻ để sống trọn vẹn đời ta một cách viên mãn, hiệu quả, trong triết lý sâu sa của chậm. " Hãy đọc cuốn sách này mỗi ngày một chương - để thông điệp mang tính đột phá của nó ngấm vào trong bạn, hoàn toàn thay đổi cuộc đời bạn " Bill Mackibben, tác giả của The End of Nature " Cuốn sách này đã phản kháng một cách đầy thuyết phục với lối sống gấp vô tình và đưa ra những gợi ý thật cụ thể, hấp dẫn về những cách thức để kéo dài khoảnh khắc sống " Los Angeles Times " Truyền cảm hứng gấp triệu lần bất kỳ cuốn sách nào về đổi thay lối  sống..." Sunday Express *** Nhà tâm lý học và triết gia người Mỹ William James từng nói: “Cuộc đời có đáng sống không? Tất cả phụ thuộc vào người sống nó.” Bạn có đáp án cho câu hỏi này rồi chứ? Nếu để ý bạn sẽ thấy cuộc sống giống như cầu vồng bảy sắc vậy, nhiều màu sắc rực rỡ nhưng cũng không thiếu những mảng màu u ám. Khi thì bạn muốn giang tay ôm cuộc sống này thật chặt, lúc khác bạn lại muốn vùi nó xuống tận đất sâu. Đôi khi bạn cảm thấy mệt mỏi với những kế hoạch nối tiếp thất bại, nhưng có lúc bạn lại háo hức bắt tay vào những dự định mới mẻ. Đôi khi bạn chỉ muốn chạy trốn khi công việc và cuộc sống chồng chất những phiền phức, nhưng có lúc bạn lại thấy bận rộn đem đến sự tự tin và năng động. Đôi khi bạn chỉ biết ngồi than thân trách phận vì cuộc đời mình sao hẩm hiu đến vậy, nhưng có lúc bạn lại ngạc nhiên với sự cứng rắn và mạnh mẽ của chính mình. Dù cuộc sống có thế nào, bạn vẫn phải lựa chọn một phương thức sống và sống đến tận cùng. Sống chậm lại, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi sẽ giúp bạn làm điều đó. Cuốn sách không kỳ vọng mang đến cho bạn những cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, nó chỉ giúp tâm hồn bạn bớt chông chênh hơn khi sợ hãi và chán ghét cuộc sống mà thôi. Cuốn sách là những bài viết nhỏ, dưới cái nhìn của cô gái trẻ mới bước ra từ cuộc sống sinh viên và chân ướt chân ráo thành nhân viên văn phòng. Những trải nghiệm chưa đủ nhiều và chưa thật sâu sắc nhưng rất gần gũi với các bạn trẻ. Những điều mà tác giả viết ra không giống như những câu chuyện hạt giống tâm hồn bay bổng, nó chân chất như những cuộc “tám” chuyện giữa các bạn trẻ với nhau. Bạn sẽ tìm thấy điểm tựa trước những tình huống như làm sao để thoát khỏi nỗi sợ hãi, làm sao đối diện với sự thay đổi, xác định mục đích sống cho mình như thế nào… Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn cảm thấy cuộc đời lạc quan và tươi mới hơn. *** Con người sinh ra rồi kết hôn, sống rồi chết, đều ở giữa vòng náo loạn điên cuồng đến mức bạn tưởng như họ sẽ phát điên. WILLIAM DEAN HOWELLS, 1907. Vào một buổi trưa chan hòa ánh nắng hè năm 1985, chuyến du lịch châu Âu thời niên thiếu của tôi tới chặng dừng trên một quảng trường ở ngoại ô Rome. Chuyến xe buýt quay về thành phố đã chậm hai mươi phút và vẫn chưa thấy bóng dáng đâu. Tuy vậy, sự chậm trễ chẳng làm tôi phiền lòng. Thay vì đi đi lại lại trên vỉa hè hoặc gọi điện cho công ty xe buýt để phàn nàn, tôi mở máy nghe Walkman, rồi ngả người trên ghế băng, lắng nghe Simon và Garfunkel hát về nỗi hân hoan được chậm rãi và làm cho thời khắc kéo dài. Từng chi tiết của quang cảnh ấy đã in sâu trong ký ức tôi: hai chú nhóc đá bóng quanh đài phun nước thời Trung cổ; những cành cây lòa xòa quệt trên nóc bức tường bằng đá; một quả phụ già nua xách túi rau về nhà. Mười lăm năm thoắt trôi qua, mọi sự đều đã thay đổi. Khung cảnh giờ chuyển thành sân bay Fiumicino nhộn nhịp của thành Rome và tôi là một phóng viên nước ngoài đang vội vã bắt chuyến bay về nhà ở Luân Đôn. Thay vì thư thái lấy chân đá sỏi cuội trên đường, tôi lao vội qua phòng chờ khởi hành, thầm nguyền rủa những ai cắt ngang đường mà lại đi chậm hơn. Đáng lẽ nghe dân ca từ chiếc Walkman rẻ tiền, tôi lại nói chuyện bằng điện thoại di động với một biên tập viên cách xa hàng ngàn cây số. Bên cửa lên máy bay, tôi nhập vào cuối một hàng người dài dằng dặc, ở đấy chẳng có việc gì để làm ngoại trừ, đúng vậy, việc không làm gì cả. Duy có điều tôi không chịu được cảnh không làm gì cả ấy nữa. Để chờ đợi cho hữu ích, cũng là để bớt sốt ruột, tôi đọc lướt một tờ báo. Chính lúc đó, mắt tôi bắt gặp một bài viết sau này gợi cho tôi cảm hứng viết cuốn sách về sự chậm rãi. Những dòng chữ bắt tôi dừng lại giữa đường ấy là: “Chuyện kể một phút trước giờ đi ngủ.” Giúp các bậc cha mẹ thu xếp ổn thỏa với bọn trẻ mất-thời-giờ, nhiều tác giả đã rút gọn các câu chuyện cổ kinh điển thành những mẩu hoàn chỉnh mất đúng sáu mươi giây. Hãy thử tưởng tượng Hans Christian Andersen mà bắt gặp những mẩu tóm tắt lỗi lạc này thì sẽ ra sao. Phản ứng đầu tiên của tôi là reo lên Eureka! Khoảng thời gian này tôi thường bị kẹt vào một cuộc-chiến-buổi-tối-gay-go với cậu con trai hai tuổi, cháu rất thích những câu chuyện dài đọc bằng giọng trầm bổng êm tai. Tuy vậy, mỗi buổi tối tôi lái cháu sang những chuyện cực ngắn và đọc thật nhanh. Chúng tôi thường cãi cọ. Cháu kêu: “Bố đọc nhanh quá.” Hoặc, trong khi tôi đi ra cửa, “Con muốn chuyện nữa cơ!” Một phần trong con người tôi cảm thấy cực kỳ ích kỷ khi làm qua quít thủ tục trước giờ đi ngủ, nhưng phần kia đơn giản không sao cưỡng nổi mong muốn mau mau chuyển sang các mục còn lại trong thời gian biểu của bản thân – nào là bữa tối, thư điện tử, đọc báo chí, hóa đơn thanh toán, thêm chút ít công việc cơ quan, phần điểm tin quen thuộc trên truyền hình. Làm một cuộc dạo chơi dài dòng, lê thê qua thế giới của Tiến sĩ Seuss[1]không phải là một chọn lựa. Nó quá chậm chạp. Vì vậy, thoạt nhìn, loạt truyện Một-phút-trước-giờ-đi-ngủ nghe ra tuyệt vời đến khó tin là thật. Đọc một mạch sáu hay bảy “truyện”, chỉ mất chưa tới mười phút – còn gì có thể tốt hơn? Tiếp đó, khi tôi bắt đầu tự hỏi liệu Amazon có thể giao cho tôi cả bộ sách ấy chóng đến độ nào, lập tức cảm giác ăn năn xuất hiện dưới dạng một câu hỏi vặn: phải chăng tôi đã hoàn toàn mất trí? Lúc hàng người rồng rắn tiến đến cửa soát vé cuối cùng, tôi cất tờ báo và bắt đầu suy nghĩ. Toàn bộ cuộc sống của tôi té ra là một cuộc tập luyện trong vội vã, trong dồn nén ngày càng nhiều vào từng giờ. Tôi là một kẻ keo cú kè kè chiếc đồng hồ bấm giờ, bị ám ảnh phải tiết kiệm từng khoảnh khắc thời gian, ở chỗ này một phút, ở chỗ kia vài giây. Và tôi không đơn độc. Mọi người quanh tôi – đồng nghiệp, bạn bè, gia đình – đều bị cuốn vào vòng xoáy ấy. Năm 1982, Larry Dossey, một bác sĩ người Mỹ, đã đặt ra thuật ngữ “căn bệnh thời gian” để mô tả một tín điều ám ảnh là “thời gian đang trôi đi, không còn đủ thời gian, và bạn phải nhanh hơn, nhanh hơn nữa mới hòng bắt kịp.” Những ngày này, cả thế giới mắc bệnh thời gian. Tất cả chúng ta đều thuộc cùng một giáo phái tôn sùng tốc độ. Đứng trong hàng người chờ chuyến bay trở về nhà ở Luân Đôn ấy, tôi bắt đầu vật lộn với những câu hỏi nằm ở tâm điểm cuốn sách này: Vì sao chúng ta luôn vội vã như vậy? Đâu là phương thuốc cho căn bệnh thời gian? Liệu có thể, hoặc thậm chí có nên ao ước, chậm lại chăng? Trong những năm đầu của thế kỷ hai mươi mốt này, mọi người mọi vật đều chịu sức ép phải khẩn trương hơn. Cách đây không lâu, Klaus Schwab, người sáng lập đồng thời là Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã giải thích rõ nhu cầu tăng tốc bằng những từ ngữ trần trụi sau đây: “Chúng ta đang chuyển từ thế giới cá lớn nuốt cá bé sang thế giới nhanh nuốt chậm.” Lời cảnh báo ấy vang xa tới tận bên kia thế giới thương mại kiểu Darwin. Trong thời đại bận rộn hối hả này, mọi thứ là cuộc chạy đua với chiếc đồng hồ. Guy Claxton, nhà tâm lý học Anh, cho rằng tăng tốc là bản năng thứ hai của con người: “Chúng ta mới phát triển một tâm lý nội tại là tốc độ, tiết kiệm thời gian và tối đa hóa hiệu quả, tâm lý ấy đang mạnh lên từng ngày.” Nhưng giờ đây, đã đến lúc phải thách thức nỗi ám ảnh của chúng ta rằng làm gì cũng phải nhanh hơn. Tốc độ không phải lúc nào cũng là cách tối ưu. Quá trình tiến hóa tuân theo nguyên lý thích nghi nhất thì tồn tại, chứ không phải là nhanh nhất. Hãy nhớ ai đã thắng trong cuộc đua giữa rùa và thỏ. Trong khi chúng ta hối hả sống, nhồi nhét nhiều hơn cho từng giờ, chúng ta đang tự căng mình đến điểm tới hạn. Tuy vậy, trước khi đi sâu hơn, cũng xin nói rõ một điều: cuốn sách này không phải là lời tuyên chiến chống lại tốc độ. Tốc độ đã giúp tái tạo thế giới chúng ta theo những cách kỳ diệu và tự do. Liệu có ai muốn sống thiếu Internet và đi lại bằng máy bay phản lực? Vấn đề là tình yêu tốc độ của chúng ta, nỗi ám ảnh của chúng ta muốn sản xuất được ngày càng nhiều trong thời gian ngày càng ít đã trở nên thái quá, đã thành cơn nghiện, thành sự sùng bái. Thậm chí khi tốc độ bắt đầu phản pháo, chúng ta vẫn viện tới tín điều phải-gấp-gáp-hơn. Rớt dài trong công việc ư? Hãy đăng ký một kết nối Internet nhanh hơn. Không có thì giờ cho cuốn tiểu thuyết mua dịp Giáng sinh ư? Học cách đọc nhanh hơn. Chế độ ăn kiêng không tác dụng? Thử hút mỡ. Quá bận rộn không kịp nấu ăn? Hãy mua lò vi sóng. Tuy vậy vẫn có một số việc không thể, và không nên, tăng tốc. Chúng cần thì giờ; chúng cần sự chậm rãi. Khi bạn tăng tốc những gì không nên tăng tốc, khi bạn quên cách chậm lại, bạn sẽ phải trả giá. Trường hợp phản tốc độ khởi đầu từ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sản sinh nền thịnh vượng khác thường, nhưng cái giá phải trả là tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhanh quá mức Mẹ Thiên nhiên có thể tái tạo. Hàng ngàn dặm vuông rừng mưa Amazon bị đốn chặt hàng năm, trong khi sự đánh bắt vô độ bằng lưới quét đã đưa giống cá tầm, cá mú Chilê và nhiều loài cá khác vào danh sách nguy cơ tuyệt chủng. Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh quá mức, ngay cả vì lợi ích của chính nó, khi áp lực phải tới đích đầu tiên chừa lại quá ít thời gian cho khâu kiểm tra chất lượng. Hãy quan sát ngành công nghiệp máy tính. Trong những năm gần đây các nhà sản xuất phần mềm bắt đầu có thói quen hối hả tung ra thị trường các sản phẩm trước khi cho thử nghiệm đầy đủ. Kết quả là một nạn dịch sự cố, lỗi phần mềm rồi trục trặc phần cứng gây thiệt hại cho các công ty mỗi năm hàng tỉ đô la. Tiếp đó là vấn đề chi phí nhân lực trong chủ nghĩa tư bản-tăng tốc. Vào những ngày này, chúng ta tồn tại để phục vụ cho nền kinh tế chứ không phải vì cái gì khác. Nhiều giờ liên miên trong công việc làm chúng ta mất hiệu năng, dễ nhầm lẫn, không vui vẻ và phát ốm. Phòng mạch đông chật những người mắc các chứng do stress gây ra: mất ngủ, đau nửa đầu, cao huyết áp, hen suyễn và rối loạn tiêu hóa. Cung cách lao động hiện nay cũng xói mòn tinh thần lành mạnh của chúng ta. Một hướng dẫn viên đời sống làm việc tại Luân Đôn nói: “Kiệt lực là bệnh ta gặp chủ yếu ở những người ngoài tuổi bốn mươi. Hiện giờ, theo tôi quan sát, cả nam giới lẫn phụ nữ trạc tuổi ba mươi, thậm chí hai mươi tuổi, cũng hoàn toàn kiệt lực.” Cung cách làm việc đúng đắn, vốn dĩ có thể lành mạnh trong điều độ, đang dần dần vuột khỏi tầm tay. Hãy xem xét tình trạng “ngại đi nghỉ” tràn lan, ác cảm với việc có một ngày nghỉ thực thụ. Trong một điều tra ủa Reed trên năm ngàn công nhân Anh, 60% nói họ sẽ không dùng hết phép trong năm 2003. Trung bình, người Mỹ bỏ quên đến một phần năm số thời nghỉ có đài thọ. Thậm chí ốm đau cũng không còn níu được người lao động hiện đại xa rời nhiệm sở; cứ năm người Mỹ thì có một người gượng dậy đi làm trong khi đáng ra nên yên vị trên giường hay đi khám bác sĩ. Để có thể hình dung viễn cảnh đáng sợ về hậu quả mà hành vi này gây ra, hãy đừng nhìn đâu xa hơn nước Nhật, nơi người dân bản xứ có một từ - karoshi – vốn có nghĩa “chết vì lao lực.” Một trong những nạn nhân nổi tiếng nhất của karoshi là Kamei Shuji, một nhân viên môi giới nhiều tham vọng thường đều đặn làm việc chín mươi giờ một tuần trong suốt thời kỳ bùng nổ thị trường chứng khoán Nhật Bản những năm cuối thập kỷ tám mươi. Công ty nơi anh làm việc đã tuyên truyền rùm beng về khả năng chịu đựng siêu phàm của anh trong các bản tin, các cẩm nang đào tạo nghề, biến anh thành chuẩn mực vàng cho tất cả các nhân viên noi theo. Trong một phá bỏ nghi thức, việc hiếm khi xảy ra ở Nhật, người ta yêu cầu Shuji huấn luyện cho các đồn nghiệp lão làng về nghệ thuật bán hàng, điều chồng chất thêm stress lên đôi vai đơn độc của anh. Khi quả bong bóng chứng khoán Nhật Bản nổ tung năm 1989, Shuji thậm chí còn làm việc nhiều giờ hơn để cứu vãn kinh doanh ế ẩm. Năm 1990, anh đột tử do một cơn đau tim. Anh lúc ấy mới hai mươi sáu tuổi. Dầu một số người nêu Shuji ra như câu chuyện cảnh báo, song cung cách làm-việc-chí-chết vẫn ăn sâu bám rễ ở Nhật. Năm 2001, chính phủ báo cáo kỷ lục 143 nạn nhân karoshi. Những người chỉ trích nêu con số người chết hàng năm do lao động quá sức ở Nhật Bản lên tới hàng ngàn. Tuy vậy, từ trước khi có karoshi dự phần, lực lượng lao động đã kiệt quệ lắm rồi. Hội đồng An toàn Quốc gia ước tính stress trong công việc khiến mỗi ngày hàng triệu người Mỹ chểnh mảng công việc, tiêu hao của nền kinh tế mỗi năm trên 150 tỷ đô la. Năm 2003, stress thay cho bệnh đau lưng trở thành nguyên nhân hàng đầu gây ra nạn vắng mặt không lý do chính đáng ở Anh. Lao động quá sức còn nguy hiểm cho sức khỏe xét về nhiều phương diện khác. Nó chừa quá ít thời gian và sức lực cho rèn luyện thân thể, khiến chúng ta thích uống quá nhiều cồn hoặc dùng những đồ ăn tiện lợi. Không phải ngẫu nhiên các nước nhanh nhất thường là béo nhất. Có tới môt phần ba người Mỹ và một phần năm người Anh hiện nay mắc chứng béo phì bệnh lý. Thậm chí Nhật Bản cũng đang có tình trạng tăng cân. Năm 2002, điều tra dinh dưỡng toàn quốc cho thấy một phần ba đàn ông Nhật trên ba mươi tuổi bị béo phì. Để duy trì nhịp độ với thế giới hiện đại, để tăng tốc, nhiều người, ngoài cà phê, còn tìm đến các chất kích thích công hiệu hơn. Côcain vẫn là liều thuốc bổ trợ ưa thích trong giới chuyên nghiệp văn phòng, song amphêtamin, còn có tên gọi khác là “tốc độ”, đang nhanh chóng đuổi kịp. Sử dụng chất kích thích tại công sở Mỹ tăng đột biến 70% kể từ năm 1998. Nhiều nhân viên ủng hộ loại mêthaphêtamin tinh thể, giải phóng mãnh liệt trạng thái hưng phấn và tỉnh táo, kéo dài gần như cả ngày làm việc. Nó cũng tránh cho người sử dụng cảnh ba hoa đáng xấu hổ thường là tác dụng phụ của loại bạch phiến hít. Vấn đề là ở chỗ các dạng ma túy công hiệu thuần tốc độ dễ gây nghiện hơn heroin, kết quả sau một lần hút có thể gây ra suy nhược, kích động và hành vi bạo lực. Một lý do khiến chúng ta cần chất kích thích là vì nhiều người ngủ không đẫy giấc. Làm việc nhiều như thế, lại có ít thời gian như vậy, ngày nay trung bình người Mỹ mỗi đêm ngủ ít hơn một thế kỷ trước chín mươi phút. Nam Âu, mảnh đất thiêng của la dolce vita (cuộc sống nhàn dật), giấc ngủ trưa đã nhường chỗ cho công việc theo giờ hành chính: chỉ có bảy phần trăm người Tây Ban Nha còn chợp mắt sau bữa ăn trưa. Ngủ không đủ có thể tổn hại đến hệ tim mạch, hệ miễn dịch, sinh ra bệnh tiểu đường, bệnh tim, gây khó tiêu, cáu bẳn và trầm cảm. Mỗi đêm ngủ ít hơn sáu tiếng có thể làm suy yếu điều phối của hệ thần kinh vận động, ngôn ngữ, phản xạ và óc xét đoán. Sự mệt nhọc dự phần vào một vài trong số những thảm họa tồi tệ nhất của kỷ nguyên hiện đại: Chernobyl[2], Exxon Valdez[3], Three Mile Island[4], Union Carbide[5] và tàu con thoi Challenger[6]. Buồn ngủ gây ra nhiều vụ đụng xe hơi hơn uống rượu. Trong một cuộc thăm dò dư luận mới đây của Viện Gallup, 11% tài xế Anh thừa nhận từng ngủ gật trên vô lăng. Một nghiên cứu của Ủy ban Quốc gia Mỹ về Rối loạn Giấc ngủ quy tội một nửa tai nạn xe cộ là do mệt nhọc. Gộp tất cả với xu hướng say mê tốc độ, kết quả là thảm cảnh trên đường. Tai nạn xe cộ hiện đứng ở mức 1,3 triệu vụ/năm trên toàn thế giới, hơn gấp đôi so với năm 1990. Mặc dù, ở những nước phát triển, các quy chuẩn an toàn đã giúp giảm bớt con số tử vong, Liên hiệp quốc dự báo rằng đến năm 2020 giao thông đi lại sẽ là nguyên nhân gây tử vong lớn thứ ba trên thế giới. Ngay lúc này, mỗi năm có trên bốn chục ngàn người chết và một triệu sáu người bị thương dọc các tuyến đường bộ châu Âu. Sự nôn nóng của chúng ta khiến ngay cả vui chơi giải trí cũng trở nên nguy hiểm hơn. Mỗi năm, hàng triệu người trên thế giới khốn khổ vì thương tật liên-quan-đến-thể-dục-thể-thao. Đa phần bởi thúc ép cơ thể quá mạnh, quá nhanh, quá sớm. Ngay cả yoga cũng không miễn nhiễm. Một người bạn của tôi mới đây bị sái cổ do luyện yoga trước khi cơ thể của cô sẵn sàng. Nhiều người khác còn gặp phải những tai nạn trầm trọng hơn. Ở Boston, bang Massachusetts, một giáo viên thiếu kiên nhẫn đã làm vỡ xương chậu một nữ sinh khi ép em này vào tư thế xoạc. Một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi hiện giờ bị liệt vĩnh viễn một mảng cơ đùi phải sau khi giãn dây thần kinh xúc giác trong buổi luyện yoga tại một phòng tập thời thượng quận Manhattan. Điều không tránh khỏi là một cuộc sống vội vã có thể trở nên hời hợt. Khi vội vàng, chúng ta qua quýt bề ngoài, không thiết lập được mối ràng buộc thực sự với thế giới và những người xung quanh. Như Milan Kundera đã viết trong tiểu thuyết ngắn Chậm rãi (1996) của ông: “Khi mọi việc xảy ra quá nhanh, chẳng ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì, bất cứ điều gì hết, ngay cả về chính bản thân mình.” Tất cả những gì ràng buộc chúng ta lại với nhau và làm cho cuộc sống đáng sống – cộng đồng, gia đình, bè bạn – phát triển trên một nền tảng không bao giờ có đủ: thời gian. Trong một cuộc thăm dò dư uận gần đây của hãng ICM, phân nửa số người Anh trưởng thành than thở thời gian biểu dồn dập làm cho họ mất hết liên lạc với bạn bè. Hãy xem xét tác hại do sống trong làn cao tốc gây ra cho đời sống gia đình. Với ai nấy đi đi về về, những mẩu giấy dán trên cánh tủ lạnh hiện là hình thức thông tin chủ yếu của nhiều gia đình. Theo con số do chính phủ Anh công bố, trung bình các bậc phụ huynh đang làm việc dành thời gian xử lý thư điện tử gấp đôi thời gian chơi cùng con cái. Ở Nhật Bản, các ông bố bà mẹ ngày nay gửi con vào những trung tâm giữ trẻ hai-mươi-bốn-giờ-liền. Khắp thế giới công nghiệp, trẻ em rời trường trở về căn nhà trống trải nơi chẳng có ai lắng nghe những câu chuyện, những tâm tư, thành tích học tập cùng bao nỗi sợ hãi của chúng. Trong một cuộc thăm dò ý kiến thanh thiếu niên Mỹ do tạp chí Newsweek thực hiện năm 2000, 73% nói các bậc cha mẹ dành quá ít thời giờ cho con cái họ. Có lẽ lũ trẻ là khổ sở nhất vì chứng cuồng tăng tốc. Chúng cũng đang lớn lên nhanh hơn bao giờ hết. Nhiều trẻ em ngày nay bận bịu không kém gì cha mẹ, cố gắng sắp xếp sổ ghi nhớ vốn bị nhồi nhét đủ thứ từ phụ đạo sau-giờ-lên-lớp đến những bài học dương cầm và tập bóng đá. Một bức biếm họa mới đây đã nói lên tất cả: hai cháu gái nhỏ đứng ở bến xe buýt của nhà trường, trong tay mỗi cháu có thời gian biểu cá nhân. Cháu này nói với cháu kia: “Được rồi, tớ sẽ lùi môn ba lê lại một giờ, thay lịch tập thể dục, hoãn cả học dương cầm… còn cậu chuyển giờ học viôlông sang thứ Năm và bỏ buổi tập bóng đi… như vậy chúng mình sẽ rảnh từ 3h15’ đến 3h45’ thứ Tư ngày 16 để đi chơi.” Sống như những người trưởng thành đầy đủ năng lực chẳng còn đâu thời giờ cho những thú vui làm nên thời thơ ấu: tán gẫu với bạn bè, chơi đùa không có sự giám sát của người lớn, mơ mộng vẩn vơ. Nó cũng gây hại cho sức khỏe, bởi trẻ em ít có khả năng chống chọi với chứng mất ngủ và stress, là cái giá phải trả cho lối sống hối hả. Các bác sĩ tâm lý chuyên điều trị chứng lo âu ở trẻ vị thành niên nhận thấy ngày nay các phòng chờ chật kín trẻ em mới năm tuổi đã khổ sở vì đau dạ dày, đau đầu, mất ngủ, suy nhược và rối loạn tiêu hóa. Tại nhiều nước công nghiệp, số vụ thanh thiếu niên tự tử gia tăng. Và chẳng có gì là lạ, nếu xét tới gánh nặng nhiều trẻ em phải đương đầu ở trường. Năm 2002, Louise Kitching, một thiếu nữ Anh mười bảy tuổi ở Lincolnshire đã nức nở bỏ chạy khỏi phòng thi. Em học sinh xuất sắc này sắp viết bài thi thứ năm trong ngày, mà chỉ được nghỉ giải lao mười phút giữa giờ. Nếu chúng ta tiếp tục nhịp độ kể trên, nạn sùng bái tốc độ sẽ chỉ càng trở nên tồi tệ. Khi người người lựa chọn sống nhanh, lợi thế của sống nhanh sẽ mất, buộc chúng ta phải sống nhanh hơn nữa. Cuối cùng, còn lại cho chúng ta là một cuộc chạy đua vũ trang trên nền tốc độ, mà chúng ta đều biết cuộc chạy đua vũ trang kiểu ấy rồi sẽ kết thúc ở đâu: trong thế bí tàn nhẫn của Sự Hủy Diệt-Lẫn nhau-Chắc chắn. Nhiều thứ đã bị hủy hoại. Chúng ta đã quên mất csach hân hoan chờ đợi sự việc, cả cái cách tận hưởng giây phút thành tựu. Các nhà hàng cho biết những thực khách vội vã ngày càng thích vừa thanh toán hóa đơn và gọi taxi vừa ăn tráng miệng. Nhiều người hâm mộ rời các sự kiện thể thao thật sớm, chẳng kể đến tỉ số sít sao, chỉ vì muốn tranh thủ giành đường. Tiếp đến là tai họa của tội ôm đồm nhiều việc cùng một lúc. Làm hai việc đồng thời xem ra có vẻ hết sức thông minh, hết sức hiệu quả, hết sức hiện đại. Song thông thường cái đáng nói là cả hai việc đều không được tốt. Giống nhiều người khác, tôi đọc báo trong lúc xem tivi – rốt cuộc thấy mình tiếp thu cả hai kém hẳn. Trong thời đại của no-đủ-thông-tin, dồi-dào-dữ-liệu, lướt-kênh-truyền-hình, chơi-game-máy-tính, chúng ta đã đánh mất nghệ thuật tiêu khiển để chậm lại và ngồi một mình với những suy nghĩ của riêng mình. Sự buồn chán – danh từ tự nó khó lòng tồn tại 150 năm trước – lại là một phát minh hiện đại. Mất hết mọi cảm giác phấn hứng, chúng ta bồn chồn, hoang mang, trông chờ điều gì đó, bất kể điều gì, ngõ hầu tận dụng hết thời gian. Lần cuối cùng bạn thấy ai đó chỉ ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu là khi nào vậy? Tất cả mọi người đều quá bận đọc báo, chơi game hình, nghe iPod, làm việc trên máy tính xách tay, càu nhàu vào điện thoại di động. Thay vì suy nghĩ cặn kẽ, hoặc để cho một ý tưởng nung nấu tận đáy lòng, ngày nay bản năng của chúng ta là chộp lấy miếng ngon gần nhất. Trong chiến tranh hiện đại, các phóng viên thực địa và bình luận viên tại trường quay tung ra hàng lô phân tích tức thời những sự kiện vừa mới xảy ra. Thông thường nhận định của họ té ra là nhầm lẫn. Song những ngày này chuyện đó chẳng hề gì: trên mảnh đất của tốc độ, ai phản ứng tức thời sẽ làm vua. Cùng với việc sử dụng vệ tinh và các kênh thông tin hai mươi bốn giờ liên tục, truyền thông đại chúng điện tử bị chi phối bởi nhân dạng mà một nhà xã hội học người Pháp gán cho cái tên “nhà tư duy nhanh nhạy” – người không để lỡ nhịp có thể gọi ra câu trả lời liến thoắng cho bất cứ câu hỏi nào. Về một phương diện nào đó, ngày nay tất cả chúng ta đều là những nhà tư duy nhanh nhạy. Sự nôn nóng của chúng ta không thể nguôi dịu đến mức, như nữ nghệ sĩ-tác gia Carrie Fisher châm biếm, ngay “hài lòng tức thời cũng quá mất thì giờ.” Điều này phần nào lý giải tâm trạng phẫn nộ kinh nghiệm sôi sục ngay bên dưới bề mặt cuộc sống hiện đại. Bất kỳ ai, hoặc bất cứ thứ gì bước vào con đường chúng ta đi, khiến chúng ta chậm lại, ngăn chúng ta đạt được đúng thứ mình cần khi mình muốn, đều trở thành địch thủ. Vì vậy, thụt lùi dù nhỏ nhất, trì hoãn dù chớp nhoáng nhất, một thoáng chậm trễ chẳng đáng kể chút nào, ngày nay cũng có thể gây ra xung nộ vỡ-mạch-mà-chết ở những người lúc khác rất bình thường. Những bằng chứng kiểu giai thoại nhan nhản khắp mọi nơi. Tại Los Angeles, một người đàn ông gây sự đánh nhau ngay tại quầy thu tiền của siêu thị chỉ vì khách hàng đằng trước ông ta gói buộc hàng quá lâu. Một phụ nữ cào xước sơn chiếc ô tô đụng phải bà ta trong bãi đỗ xe ở Luân Đôn. Ủy viên quản trị một công ty lao bổ vào tiếp viên hàng không khi chuyến bay của ông này buộc phải lượn vòng phi trường Heathrow thêm hai mươi phút trước khi hạ cánh. “Tôi muốn hạ cánh ngay bây giờ!” Ông ta quát to, hệt một đứa trẻ hay quấy nhiễu: “Bây giờ, bây giờ, bây giờ!” Một chiếc xe giao hàng dừng bên ngoài nhà hàng xóm của tôi, buộc xe cộ phía sau phải đợi trong khi anh tài xế dỡ một chiếc bàn con. Chỉ trong phút chốc, nữ doanh nhân trạc tứ tuần trong chiếc xe đầu tiên đập ghế thình thình, tay khua khoắng, đầu lắc tới lắc lui. Tiếng rền rĩ khàn khàn từ yết hầu vuột ra cửa xe để ngỏ. Giống một cảnh trong bộ phim Người trừ tà[7]. Cho rằng cô ta lên cơn động kinh, tôi chạy xuống dưới nhà toan giúp đỡ. Nhưng lúc tôi đến vỉa hè, thì hóa ra cô chỉ cáu bẳn vì tắc đường. Cô nhoài người ra ngoài cửa xe, gào lên với không ai cụ thể. “Anh mà không rời cái xe tải chết tiệt ấy di, tôi sẽ giết chết anh.” Người giao hàng nhún vai tỏ vẻ đã quen chứng kiến cảnh ấy, đoạn trượt vào sau vô lăng và lái xe đi. Tôi mở lời định khuyên Cô To Mồm nguôi giận, nhưng lời nói của tôi chìm nghỉm trong tiếng lốp xe của cô ta xiết trên lớp đường nhựa. Đây là đích đến cho nỗi ám ảnh của chúng ta với sự nhanh và tiết kiệm thời gian. Giận dữ đường bộ, cáu kỉnh đường không, tức tối khi mua bán, bực bội trong quan hệ, khó chịu ở văn phòng, tức giận trong kỳ nghỉ và rồ dại trong phòng tập. Nhờ ơn tốc độ, chúng ta sống trong thời đại của sự rồ dại. Sau lần giác ngộ bất ngờ với câu-chuyện-trước-giờ-đi-ngủ tại phi trường thành Rome, tôi quay trở về Luân Đôn với một sứ mệnh: tìm hiểu cái giá của tốc độ và triển vọng chậm lại trong một thế giới bị ám ảnh phải ngày một nhanh hơn. Tất cả chúng ta đều than phiền về các kế hoạch làm việc điên rồ, nhưng liệu đã có ai thực sự làm gì chống lại nó hay chưa? Có, ấy thế mà có. Trong lúc phần còn lại của thế giới tiếp tục rú ga om sòm, một thiểu số đáng kể ngày càng tăng đang lựa chọn không làm gì ở công suất tối đa. Trong mỗi một nỗ lực con người bạn có thể nghĩ tới, từ tình dục, lao động, rèn luyện thân thể đến ăn uống, chữa bệnh, thiết kế đô thị, những nổi loạn này đang làm điều không tưởng – chúng đang dọn chỗ cho sự chậm rãi. Và tin tức tốt lành chính là nhiều việc đang dần giảm tốc. Bất chấp những lời cằn nhằn bất mãn kiểu Cassadran[8] từ giới doanh nhân yêu tốc độ, chậm hơn lại thường có nghĩa tốt hơn – sức khỏe dồi dào hơn, lao động hiệu quả hơn, kinh doanh thành công hơn, cuộc sống gia đình êm đẹp hơn, tập luyện dẻo dai hơn, nấu nướng ngon hơn và tình dục hạnh phúc hơn. Trước đây chúng ta đã từng như vậy. Vào thế kỷ mười chín, dân chúng đã cưỡng lại sức ép tăng tốc theo những cách quen thuộc với chúng ta ngày nay. Các nghiệp đoàn đòi thêm nhiều giờ giải trí. Cư dân thành thị bị stress tìm nơi trú ẩn và phục hồi sức khỏe ở chốn thôn quê. Các họa sĩ và nhà thơ, nhà văn và thợ thủ công tìm kiếm nhiều cách hòng bảo tồn giá trị thẩm mỹ của sự chậm rãi trong thời đại máy móc. Tuy vậy, ngày nay, phản ứng dữ dội với tốc độ đang chuyển sang xu hướng chủ đạo khẩn cấp hơn bao giờ hết. Mệt mỏi tận gốc rễ, trong các nhà bếp, nơi công sở, phòng hòa nhạc, nhà máy, phòng tập thể dục, phòng ngủ, nhà hàng xóm, phòng trưng bày nghệ thuật, bệnh viện, trung tâm giải trí và trường học gần nhà bạn, ngày càng có nhiều người không chịu chấp nhận mệnh lệnh vô lý nhanh hơn luôn luôn là tốt hơn. Và trong nhiều hành động giảm tốc đa dạng của họ ẩn chứa mầm mống của Phong trào Chậm Toàn Cầu. Giờ là lúc phải định nghĩa thuật ngữ của chúng ta. Trong cuốn sách này, Nhanh và Chậm hàm ý rộng hơn nhiều, chứ không chỉ miêu tả sự thay đổi tốc độ đơn thuần. Chúng chính là giản lược về cách sinh tồn, hoặc triết lý sống. Nhanh là bận rộn, kiểm soát, xông xáo, vội vàng, phân tích nhanh nhạy, stress, hời hợt, nôn nóng, tích cực chủ động, số-lượng-trên-chất-lượng. Chậm có nghĩa ngược lại: thư thái, cẩn trọng, tiếp thu, điềm tĩnh, trực giác, không vội vàng, kiên nhẫn, suy nghĩ thấu đáo, chất-lượng-trên-số-lượng. Tức là tạo lập những kết nối thực sự và có ý nghĩa – với con người, văn hóa, công việc, dinh dưỡng và mọi thứ. Nghich lý là ở chỗ Chậm không phải lúc nào cũng có nghĩa là chậm. Như chúng ta sẽ tìm hiểu, thực hiện một nhiệm vụ theo cách Chậm thường mang lại kết quả nhanh hơn. Cũng có thể tiến hành công việc nhanh trong lúc vẫn duy trì một khuôn khổ tư duy chậm. Một thế kỷ sau khi Rudyard Kipling[9]viết hãy giữ lý trí của bạn trong khi hết thảy chung quanh đang loạn trí[10], con người mới học cách giữ điềm tĩnh, cách duy trì nội tâm thư thái, ngay cả khi họ phải vắt chân lên cổ cho kịp thời hạn công việc hoặc đưa bọn trẻ đến trường đúng sít giờ. Một trong những mục đích của cuốn sách này là chỉ ra cách làm sao được như vậy. Bất chấp phát ngôn của một vài người chỉ trích, phong trào Chậm không nhằm tiến hành mọi việc theo tốc độ sên bò. Cũng không phải một nỗ lực bột phát kiểu Luddite[11], hòng kéo toàn thể hành tinh trở về thời kỳ tiền công nghiệp không tưởng nào đó. Trái lại, phong trào tập hợp những người như các bạn và tôi, những người muốn sống tốt hơn trong một thế giới hiện đại, tốc-độ-cao. Chính vì thế, triết lý sống Chậm có thể tóm tắt chỉ trong một từ duy nhất: cân bằng. Hãy nhanh khi đáng để nhanh, chậm khi cần chậm. Hãy cố gắng sống ở cung bậc mà các nhạc sỹ gọi là tempo giusto – nhịp chuẩn. Người đề xướng hàng đầu việc giảm tốc là Carlo Petrini, sáng lập gia người Ý của Phong trào Đồ ăn Chậm, một phong trào quốc tế chuyên tâm cho quan niệm rất văn minh là những thứ ta ăn nên được trồng cấy, chế biến và tiêu thụ ở nhịp độ khoan thai. Tuy bàn ăn là mặt trận chủ yếu, song Đồ ăn Chậm vượt xa một lời bào chữa cho những bữa trưa kéo dài. Tuyên ngôn của nhóm là lời hiệu triệu chung tay chống lại căn bệnh sùng bái tốc độ dưới mọi hình thức: “Thế kỷ của chúng ta, vốn dĩ đã khởi đầu và đang phát triển dưới biển hiệu của văn minh công nghiệp, thoạt tiên phát minh ra máy móc sau lấy máy móc làm chuẩn mực cho đời sống. Chúng ta thành nô lệ của tốc độ và thảy đều chịu thua con vi rút âm ỉ kia: Cuộc sống Gấp gáp, nó phá vỡ thói quen của chúng ta, len vào đời sống riêng tư của nhà chúng ta và buộc chúng ta ăn Đồ ăn Nhanh.” Vào một chiều hè nóng bức ở Bra, thị trấn nhỏ Piedmontese, vốn là đại bản doanh của phong trào Đồ ăn Chậm, tôi gặp Petrini để chuyện phiếm. Đơn thuốc của ông dành cho đời sống là một gợi ý hiện đại rất đáng hoan nghênh. “Nếu lúc nào anh cũng chậm, thì anh là xuẩn – và đó hoàn toàn không phải là mục tiêu chúng tôi nhắm tới,” ông nói với tôi. “Chậm nghĩa là anh làm chủ nhịp sống của mình. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, chính anh quyết định phải nhanh đến cỡ nào. Nếu hôm nay, tôi muốn nhanh, thì tôi nhanh; ngày mai tôi muốn chậm, tôi sẽ chậm. Cái mà chúng tôi đang đấu tranh giành giật chính là quyền định đoạt nhịp sống của riêng mình.” Triết lý sống hết sức giản đơn ấy đang góp tiếng nói trong nhiều lĩnh vực. Tại các công sở, hàng triệu người đang cố gắng – và sắp đạt tới – mức cân bằng hợp lý hơn giữa công việc và đời sống. Trong phòng ngủ, người ta khám phá thú vui của tình dục chậm, thông qua Tantra[12] và các dạng khác nhau của giảm tốc làm tình. Quan niệm Chậm hơn là tốt hơn tạo nền móng cho sự bùng nổ các chế độ tập luyện – từ yoga đến Thái Cực quyền – và y học thay thế - từ thảo dược đến liệu pháp vi lượng đồng căn – dùng phương pháp nhẹ nhàng toàn diện tiếp cận cơ thể con người. Khắp mọi nơi, các thành phố sửa sang cảnh quan đô thị để khuyến khích dân chúng giảm lái xe và tăng cường đi bộ. Nhiều trẻ em cũng sửa soạn rời làn cao tốc, vì các bậc cha mẹ bớt dần lịch học cho chúng. Rõ ràng, phong trào Chậm phần nào trùng khớp với cuộc thập tự chinh chống toàn cầu hóa. Những người đề xướng cả hai phong trào đều tin rằng chủ nghĩa tư bản tăng tốc chào mời chiếc vé một chiều tới kiệt lực, cho hành tinh này và nhân loại sống trên đó. Họ cho rằng chúng ta có thể sống tốt hơn nếu chúng ta tiêu dùng, sản xuất và làm việc với một nhịp độ hợp lý hơn. Tuy nhiên, cùng với những người chống toàn cầu hóa ôn hòa, các nhà hoạt động vì sự lắng mình Chậm lại cũng không khăng khăng xóa bỏ sạch trơn chế độ tư bản. Đúng hơn, họ cố tìm cho nó một khuôn mặt nhân bản. Bản thân Petrini cũng nói về “toàn cầu hóa đúng mực.” Dù vậy phong trào Chậm sâu sắc và rộng khắp hơn nhiều cải cách kinh tế đơn thuần. Lấy đích nhắm là vị chúa tốc độ giả hiệu, phong trào dò đến cốt lõi những gì cần có để làm người trong kỷ nguyên của con chip silicon. Tín điều Chậm có thể sinh lợi khi áp dụng theo lối dần dần. Nhưng để có được lợi ích toàn diện từ phong trào Chậm, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa, và triệt để cân nhắc phương pháp tiếp cận mọi vấn đề. Một thế giới Chậm đích thực không gì khác hơn một cuộc cách mạng về lối sống. Phong trào Chậm mới đang hình thành. Nó chưa có tổng hành dinh hoặc trang web, chưa có lãnh tụ duy nhất, chưa có đảng phái chính trị để chuyển tải các thông điệp. Nhiều người quyết định lắng mình mà không hề cảm thấy là bộ phận của một trào lưu văn hóa, chưa nói gì đến một cuộc thập tự chinh toàn cầu. Tuy thế, cái đáng kể là một thiểu số ngày càng tăng đang lựa chọn chậm thay vì tốc độ. Mỗi một hành động giảm tốc chính là tạo thêm cú hích cho phong trào Chậm. Giống quần chúng chống toàn cầu hóa, đám đông chủ trương chậm lại đang rèn những mắt xích, tạo đà và mài giũa triết lý của họ thông qua các hội nghị quốc tế, Internet và truyền thông đại chúng. Các Nhóm Chậm-Nhà-Nghề đang mọc lên khắp mọi nơi. Một số, chẳng hạn Đồ ăn Chậm, tập trung chủ yếu vào một lĩnh vực của đời sống. Các Nhóm khác mở rộng hơn triết lý Chậm. Trong số này có Câu lạc bộ Thư Thả ở Nhật, Quỹ Bây giờ Chậm trụ sở tại Mỹ và Hiệp hội châu Âu về Giảm tốc Thời gian[13]. Phần lớn phát triển của phong trào Chậm khởi phát từ phối kết hợp. Nhóm Đồ ăn Chậm hiện đã cho ra các nhóm con kế tiếp. Dưới ngọn cờ của các Đô thị Chậm, trên sáu chục thành phố Ý đang nỗ lực chuyển mình thành những ốc đảo êm đềm. Thị trấn Bra cũng là quê hương của Tình dục Chậm, một xu hướng nhằm xua đuổi sự hùng hục vội vã ra khỏi phòng ngủ. Tại Mỹ, học thuyết Petrini đã gợi hứng cho một nhà giáo dục hàng đầu phát động phong trào “Giáo dục Chậm ở nhà trường.” Mục đích của tôi trong cuốn sách này là giới thiệu phong trào Chậm tới đông đảo độc giả, giải thích phong trào bênh vực cái gì, hiện tiến triển ra sao, vấp phải những trở ngại nào và vì sao đem lại điều gì đó cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, những động cơ của tôi không hoàn toàn vị nhân sinh. Tôi là người say tốc độ, vì vậy cuốn sách này cũng là một cuộc hành trình hết sức cá nhân. Ở phần cuối hành trình ấy, tôi muốn tìm lại vài cảnh êm đềm cảm nhận được lúc chờ chuyến xe buýt nọ tại thành Rome. Tôi muốn có thể đọc sách cho con trai mà không phải liếc đồng hồ. Giống hầu hết mọi người, tôi muốn tìm ra con đường để sống tốt hơn nhờ vào tạo lập thế cân bằng giữa nhanh và chậm.   Mời các bạn đón đọc Ngợi Ca Sống Chậm của tác giả Carl Honore.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim - Lê Thanh Minh
Tập truyện ngắn Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim gồm có: Hoang tưởng Người không bình thường Tại cái lưỡi câu Chân dung một người bạn Mùi vị của văn chương Người đàn bà và người đàn ông có chiếc lồng chim. Say Tả ý Hoàng hôn - đời người Ngộ thật Núi thơm Cô gái bước ra từ facebook Cha con *** NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ CHIẾC LỒNG CHIM.   Nhâm nhi tách cà phê lúc nâng lên, lúc hạ xuống, khi thì nhấp nhấp, khi lại đưa qua đưa lại mũi hít hà, anh thả hồn tận đẩu tận đâu ra chừng biết thưởng thức lắm. Người ra vào quán nườm nượp anh cũng chả thèm để ý. Ngồi tít trong góc, khuôn mặt nhoà vào bóng tối, chỉ thò ra vạt váy sẫm màu, hoa tím, và chiếc dép hờ hững nơi cổ chân là còn nhìn thấy đủ để nhận ra đấy là một người đàn bà. Anh thong thả rít từng hơi thuốc, những lọn khói hình chữ o nối đuôi nhau từ mồm anh tuôn ra bao trùm cả khoảng không trước mặt. Người đàn bà ngắm nhìn anh từ rất lâu, nhưng chị đâu có ngờ anh cũng nhận ra sự có mặt của chị và quan sát chị khá kỹ. Chỉ có điều anh không biết dụng ý của chị.   * * * Gần hai mươi năm sau ngày cưới, chị mới được hưởng sự ân ái của người đàn ông, mới được sống đời vợ chồng. Gần hai mươi năm chị sống trong khắc khoải, chờ mong nhiều lúc tưởng chừng không vượt qua nổi sự cô đơn, lạnh lẽo. Gần hai mươi mùa xuân rủ nhau rời khỏi khuôn mặt của chị, bỏ lại những nếp chân chim nơi đuôi mắt...   Kết quả của sự ái ân muộn mằn là đứa con bị bệnh đao bẩm sinh. Những tưởng "hết cơn bĩ cực đến ngày cam lai", ngờ đâu ở tuổi về chiều chị lại vất vả nuôi con một mình. Anh đã ra đi cũng vội vã như khi đến gặp và cưới chị. Ngày ấy cả nước có chiến tranh, anh đến với chị không phải vì tình yêu đôi lứa, chỉ đơn giản gia đình anh muốn anh để lại cho chị giọt máu của mình, phòng khi... Chiến tranh chả biết thế nào. Mười người đi dễ có đến quá nửa không trở về. Tối hôm cưới, anh chị ngồi bên nhau nói chuyện cho tới sáng. Chị vẽ ra trong đầu viễn cảnh gia đình hạnh phúc ngày anh trở về, ngày chiến tranh kết thúc.   Ngay lúc bình minh ló rạng, anh khoác ba lô lên, đi một mạch gần hai mươi năm. Lúc anh trở về là thương binh loại đặc biệt cần có người chăm sóc. Nước mắt chị đã chảy, vì hạnh phúc và cũng vì cả đau buồn. Người đàn ông, chồng chị đang ngồi trên xe lăn trước mặt chị đã gửi lại chiến trường đôi chân và một cánh tay của mình. Anh không đẹp trai, chị biết. Người con trai có nước da nâu sậm nắng gió của vùng chiêm trũng, đôi mắt sáng tinh anh được thay bằng người đàn ông có đôi mắt mờ đục, thị lực chỉ còn 2/10 và khuôn mặt bị biến dạng vì những vết thương đã liền sẹo. Sao ông giời lại bất công với chị như vậy, ngoài khóc thầm chị biết làm gì hơn.   Đứa con chị giờ đã đến lúc cần có một cái nghề để tự nuôi sống bản thân khi chị không còn nữa. Chị nghĩ về điều này từ rất lâu. Nhiều người khuyên chị gửi con vào trại trẻ, chị không đành lòng. Cũng phải, mang nặng đẻ đau dễ gì bảo dứt là dứt đi được. Chưa một giây phút nào chị nghĩ và sống cho riêng mình. Bằng tất cả tình yêu và sức lực, chị dành cả cho con...     * * *   Gần nhà chị có một họa sĩ, hàng ngày thấy anh xách lồng chim ra quán cà phê ngồi một mình, lúc đầu chị cũng không để ý, nhưng rồi đột nhiên trong đầu chị vụt loé lên một ý nghĩ. Tại sao không, có thể lắm chứ, chị sẽ nhờ anh dạy vẽ cho con chị.   Đây là lần thứ bao nhiêu chị âm thầm ngồi trong góc quan sát người mà chị định đem con gửi gắm, chị cũng không nhớ. Chị vẫn chờ cơ hội được nói chuyện với anh về ý định của mình. Chị không dám đường đột.   Trời đứng bóng, cái vạt váy của chị như chìm lẩn vào bóng tối. Con chim đang líu lo gọi bạn trong chiếc lồng anh ngoắc tạm lên cành bằng lăng trước quán. Nó cần tự do, còn chị, chị lại ước ao giá mình là con chim nhỏ trong chiếc lồng của anh thì hay biết mấy. Cuộc đời chả ai giống ai, người ta luôn ước ao cái mình không có mà quên đi cái mình có mà người khác đang ao ước. Cũng giống như chị lúc này vậy. Viển vông, vốn là suy nghĩ của những người đàn bà chịu nhiều cơ cực.   Đang mải theo đuổi những thứ vẽ ra trong đầu, chị giật mình khi giọng anh sát ngay bên cạnh:   - Chị cần gặp tôi có chuyện gì à?   Không hiểu sao anh biết chị cần gặp anh. Bao nhiêu điều, bao nhiêu giả định được chị chuẩn bị để làm quen với anh, chị quên tiệt. Chị ấp úng như người ăn vụng bị bắt quả tang.   - Dạ, anh...   Mà sao chị lại "dạ" nhỉ, chị cũng không biết. Bỗng anh xen vào bằng cái giọng tự tin của người từng trải:   - Có khó gì đâu mà không đoán được người khác chú ý đến mình. Này nhé, không phải một lần chị tình cờ có mặt ở quán khi tôi xuất hiện. Không sớm hơn, cũng không muộn hơn. Chị không có nhu cầu gì ngoài cốc trà Lipton dâu. Ngồi lâu, không đợi bạn, không nói chuyện với ai. Người mà chị quan sát là tôi. Chị biết không, tôi là họa sĩ, nghề của tôi là không bỏ sót bất kỳ một sự thay đổi nhỏ sắc thái nào của người và vật trong phạm vi hai chục mét. Cho dù chị kín đáo ngồi trong góc khuất, lẫn vào bóng tối...cũng vậy. Chắc chị ngạc nhiên khi tôi quan sát chị còn kỹ hơn chị quan sát tôi nhỉ?!   Không đợi chị trả lời, anh kéo ghế ngồi đối diện với chị:   - Nào, bây giờ chị có thể cho tôi biết lý do của chị!   Lý do gì nhỉ?! Ngoài lý do cần thiết là nói thế nào để anh đồng ý truyền nghề cho con chị thì còn lý do nào khác không?! Mặc dù mơ hồ, nhưng chị tin vào giác quan của mình, anh là người đáng tin cậy. Và còn hơn thế anh chính là người mà chị cần tìm cho cuộc đời thiếu hụt của chị.   Chị không nhớ mình đã nói gì với anh, không nhớ một tẹo nào. Anh ngồi trầm ngâm mắt nhìn chị, không, vượt qua chị, nhìn vào bóng tối vô định. Sao người đời có thể ảo tưởng, nông cạn khi nghĩ rằng nghề vẽ là dành cho những người không có khả năng theo đuổi một nghề gì khác, là cái nghề mà vì bần cùng họ mới nghĩ đến. Hồi xưa, cũng có người dắt con đến gặp anh bảo: "Anh có thể dạy cho con tôi thành họa sĩ không, nó chả có khả năng làm được nghề khác vì học hành lỗm bỗm, bữa đực, bữa cái, chả có chữ nào trong đầu".   Đành rằng có những tài năng không cần qua học hành, nhưng đấy không phải là lý do. Cái chính là người ta quan niệm vẽ không cần chữ, chỉ cần luyện cho đôi tay khéo là được. Anh đã rất giận và từ chối thẳng thừng. "Sao anh biết tôi có thể dạy con anh thành họa sĩ khi trong đầu nó chả có chữ nào?!". Người đó ngớ ra vài giây rồi bảo: "À thì vẽ chỉ cần nhìn thôi chứ có phải nghĩ đâu, nó sẽ học được, mắt nó sáng lắm". "Xin lỗi anh, nghề này nghĩ nhiều hơn nhìn nên có lẽ anh chọn nhầm nghề cho con anh rồi!".   - Anh có khó khăn gì à?   Câu hỏi của chị lôi tuột anh về thực tại.   - Trường hợp con chị rất đặc biệt, chị cho tôi thời gian để suy nghĩ đã nhé!   Chị lúng búng chào anh rồi lặng lẽ rời quán. Nhìn theo bóng chị lẫn vào dòng người anh buông tiếng thở dài. Cái nghề của anh có thật là sang trọng không hay chỉ mình anh nghĩ như thế. Bao niềm vui của sự sáng tạo cùng bao nỗi chán chường, thất vọng của những thất bại hành hạ anh từng đêm. Chúng cũng chính là nguyên nhân vợ anh bỏ anh để chạy theo người đàn ông khác. Phải chăng anh yêu nghệ thuật hơn vợ.   Lúc còn lại một mình bên mâm cơm vô tình theo thói quen anh vẫn sắp ra hai cái bát và hai đôi đũa, mâm cơm nhìn như lệch, cái ghế con bé xíu phía vợ anh vẫn ngồi trống hơ, trống hoác. Lúc này anh bỗng thấy nhớ người đã từng là vợ anh. Bây giờ cô ấy sao rồi nhỉ? Liệu cô có được hạnh phúc không khi ở bên người đàn ông ấy?! Anh không biết.   Vợ chồng anh lấy nhau hơn chục năm mà chưa có mụn con nào. Gia đình anh đều nghĩ vợ anh bị điếc. Họ cũng từng khuyên anh bỏ vợ lấy người khác. Anh bỏ ngoài tai mọi chuyện. Người ta thường bảo đàn bà cùng lúc có thể quan tâm đến nhiều thứ chứ không như đàn ông. Ấy là người ta bảo thế. Anh không có khái niệm một cách rõ ràng về thời gian. Sớm hay tối, mưa hay nắng, nóng hay lạnh, anh chẳng quan tâm. Phải chăng anh chẳng yêu ai ngoài anh và cái sở thích gần như quái đản của anh. Anh có thể nhớ từng chi tiết cái tranh mà anh đã xem qua, nhưng lại không thể biết liệu mình đã ăn cơm chiều rồi hay chưa. Anh có thể ngồi hàng giờ nhìn vào hư vô mà suy tưởng nhưng lại không thể có nổi mươi phút âu yếm người đàn bà là vợ anh. Anh có thể trầm trồ những đường cong tuyệt mỹ của người đẹp thoáng gặp trên đường nhưng lại thờ ơ với người đi bên cạnh. Với anh, những cái tên ngoại quốc như Gaugin, Van Gogh, Picasso thân thương và dễ nhớ hơn tên vợ. Anh chưa bao giờ gọi tên vợ, cũng không gọi "em" như mọi nhà. Anh gọi vợ bằng mày, xưng tao.   Chị trằn trọc mãi quá nửa đêm. Hình bóng người họa sĩ tay cầm lồng chim cứ lởn vởn trong đầu chị. Liệu anh có một chút gì nhớ tới chị không nhỉ? Chắc không đâu. Thật là vớ vẩn, mặt chị nóng lên vì những suy nghĩ táo tợn. Chị mường tượng nằm trong vòng tay của anh. Ôi, hạnh phúc quá, người chị rung lên nhè nhẹ, hơi thở mỗi lúc một nặng...   Hôm nay cái ghế mọi khi chị vẫn ngồi bỏ trống. Không cần nhìn anh cũng biết chị chưa đến. Khoảng tối chỗ chị vẫn ngồi thiếu hụt sự đậm nhạt trở nên vô duyên. Anh không ngoắc lồng chim lên cành bằng lăng trước quán như mọi khi mà để trên đùi, ngón tay luồn qua nan lồng chỉnh lại cái cóng đựng nước. Chú chim như đoán được tâm trạng khác thường của anh nhảy loạn xạ trong lồng kêu chíp chíp. "Yên nào, hôm nay cô ta không đến, tao với mày bây giờ làm gì nhỉ?!" Như hiểu ý, con chim tung mình quặp cái chân nhỏ xíu đậu lên ngón tay anh, lơ láo hết quay phải lại quay trái. Dẫu sao nó vẫn là con chim. Nó không biết nói, dù được nuôi dạy, chăm bẵm tử tế.   Điều chị cần nói với anh, chị đã nói. Còn ước muốn thầm kín trong lòng dù chưa nói nhưng có gặp lại anh cũng chẳng giải quyết ngay được. Chị dắt con đi dạo. Đứa bé đưa cặp mắt đờ đẫn nhìn chị như hiểu, như không. Hai mẹ con đi sát vào nhau. Bàn tay chị nắm tay nó lúc lỏng lúc chặt. Nó là niềm hạnh phúc duy nhất mà chị có cho đến lúc này mặc dù chưa trọn vẹn. Những giọt nước mắt rời khỏi hàng mi lăn dài trên má chị. Chị thương xót cho số phận của con hay cho sự hẩm hiu của chị. Thật lòng, chị cũng không biết nữa.   Tháng Giêng năm Đinh Dậu 2017 Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà và Người Đàn Ông Có Chiếc Lồng Chim của tác giả Lê Thanh Minh.
Lẵng Quả Thông - K. G. Paustovsky
Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Mátxcơva. Dòng họ ông gốc kazak1 miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev.   Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Mátxcơva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đậu lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát.   Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề “gia sư”.   Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác.   Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí “Những Ngọn Lửa”, là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học Tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Mátxcơva và ở hẳn thành phố này từ đấy.   Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Mátxcơva.   Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình – “Những Kẻ Lãng Mạn”. Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye.   Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Mátxcơva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: “Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền Xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau”.   Sau thời gian ở Mátxcơva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin… Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư.   Năm 1923, Paustovsky trở về Mátxcơva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời.   Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn “Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau”.   Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn “Kara-Bugaz” và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong “Bông Hồng Vàng”.   Sau khi “Kara-Bugaz” ra đời, Paustovsky xin ra ngoài biên chế, tức là thôi không làm cho nhà nước và ăn lương nhà nước nữa, để chuyên viết văn, “cái công việc duy nhất, choán hết mọi việc khác, có lúc thực cay cực, nhưng là cái bao giờ tôi cũng yêu mến”. Ở chế độ Xã hội Chủ nghĩa, việc xin ra ngoài biên chế để sống tự do được coi như một việc làm không bình thường, một hành động rồ dại, hoặc một hành động dũng cảm, tuỳ theo cách nhìn của mỗi người.   Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước Xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krưm tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm…   Trong Đại chiến Thế giới lần thứ Hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận phía Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký “Những Năm Xa Xôi”, “Tuổi Trẻ Không Yên”, “Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết”.   Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ.   Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống.2   Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. *** Tập truyện ngắn Lẵng Quả Thông này gồm có: Âm nhạc verdi Chiếc nhẫn bằng thép Người đầu bếp già Chuyến xe đêm Bình minh mưa Bụi quý Hạt cát Tuyết Lẵng quả thông Cầu vồng trắng Cây tường vi *** Có một cái gì đó thật là đẹp đẽ trong sự giao tiếp của những con người dũng cảm trong phút hiểm nguy, trong cơn hoạn nạn. Trên boong tàu bọc thép của chiếc tuần dương hạm, đoàn kịch từ Matxcơva tới trình diễn vở Traviata ở ngoài trời. Những bác lái đò râu bạc tụ lại ở bến thuyền lát gỗ trên những chiếc xuồng cũ kỹ rao lên, giọng khàn khàn thúc giục:   - Ai muốn lên tàu đây? Ai muốn nghe nhạc nào? Chúng tôi sẽ đứng sát mạn tàu cho tới khi diễn xong nhé! Không chòng chành gì hết – xin cam đoan! Thế này mà chòng chành à, bà con! Những chiếc xuồng va vào nhau lủng củng gật gù hối hả chào bờ biển – sóng nhẹ đung đưa chúng. Những con ngựa thồ già yếu thường có cái lối gật đầu lia lịa như vậy.   Trên vũng biển trời lặng gió, sương chiều tỏa mờ. Những ngọn đèn tín hiệu đung đưa nhịp nhàng trên nước cạnh những mỏm đá bên bờ. Đêm mùa thu đến rất chậm. Mỗi bước đi nó lại dừng lại và mãi không sao dồn hết được những tia nắng cuối cùng của buổi chiều tà ra khỏi vũng biển sâu. Nhưng khi ánh sáng trên tuần dương hạm vừa lóe lên, bóng tối ồn ào đã ập xuống ngay. Nó chứa đầy âm thanh của mặt nước xáo động: tiếng sóng vỗ, tiếng nước róc rách, réo sôi. Người ta bắt đầu nghe thấy cái tất bật của hải cảng: tiếng mái chèo vội vã, tiếng máy nổ, tiếng gọi xa xa của những người lái tàu, tiếng còi rú giận dữ, tiếng sóng vỗ lớp lớp chạy trên mặt biển về khắp các ngả. Những âm thanh ấy từ bờ bến đổ về phía tuần dương hạm, nơi tiếng sáo phagốt bất ngờ vang lên trong dàn nhạc. Những chiếc canô cũng phóng ngay tới đó, bóng cờ hiệu đằng đuôi phấp phới trong nước. Tachiana Xônxeva được phân công đóng vai Viôleta. Cô đang hóa trang trong phòng của hạm trưởng, nơi các chiến sĩ thợ điện hải quân đỏ đã mắc những bóng đèn một trăm nến. Cô cài lên ngực bông hoa sơn trà và thoa phấn lên khuôn mặt gầy sút đi. Biểu diễn lúc này thật khó khăn – cô để lại ở Matxcơva một chú em bé bỏng bị ốm nặng. Chú đang nằm viện chờ một ca mổ. Xônxeva đang lo lắng nên không thấy gì cả: mặc thành phố xôn xao tiếng lá khô và gió thổi, mặc vô vàn đốm lửa như đàn ong vàng, vo ve lượn đi lượn lại trên vũng tàu, mặc cái không khí kỳ lạ tỏa khắp đường phố, mùi đá ẩm ướt và mùi cỏ đắng.   Cuộc phẫu thuật ấn định tiến hành sáng hôm nay, nhưng đến giờ phút này vẫn chưa có điện báo từ Matxcơva tới.   Xônxeva bước ra boong tàu hai bên chăng vải bạt. Những chiếc cần viôlôngxen gác trên tháp pháo màu gio. Âm nhạc Verđi rung lên trong sự yên tĩnh của con tàu bọc thép. Hàng trăm thủy thủ trẻ nín thở lắng nghe tiếng hát buồn thảm của Viôleta. Tiếng nhạc vang xa đến các bờ biển lân cận.   Những chiếc xuồng nhấp nhô bên mạn tàu. Người xem ngẩng đầu nhìn lên boong. Những bác lái thuyền cố gắng không làm mái chèo phát ra tiếng động và khi thuyền va vào nhau, họ chỉ lặng lẽ giơ nắm đấm lên, thay cho những trận đấu khẩu thường ngày.   Người trợ lý đạo diễn đứng đằng sau tháp súng như ở sau cánh gà có vẻ lo lắng. Trong túi anh ta có bức điện gửi cho Xônxeva. Anh cũng không biết nên bóc ra xem hay cứ để vậy đưa cho Xônxeva sau buổi diễn. Anh thì thầm trao đổi với người quản lý nhà hát.   Ông này giằng bức điện khỏi tay anh và bóc ra: - Không có gì đặc biệt, - ông ta vừa nhai nhai cái tẩu vừa nói, - cuộc phẫu thuật phải đình lại vì bệnh nhân mệt nặng. Giờ nghỉ anh có thể nói với cô ấy.   Người trợ lý đạo diễn nhăn nét mặt rồi gật đầu. Anh thợ lò Vaxia Tsukhốp mang cái biệt hiệu như mọi anh thợ đốt lò khác là “đồ quỷ sứ” được giao việc kéo chiếc màn làm bằng những cờ hiệu khâu lại. Vaxia nhỏ bé, chắc nịch, mặt đỏ gay vì gắng sức, không rời mắt nhìn người trợ lý đạo diễn. Cái anh chàng nhanh nhẩu nôn nóng này phải giơ tay ra hiệu cho Vaxia khi cần kéo màn.   Vaxia đã nghe hết câu chuyện ở bên tháp pháo. Nụ cười rạng rỡ từ từ tắt trên môi anh. Sang màn hai Xônxeva bước ra sân khấu rất luống cuống. Cô vừa đọc bức điện lúc giải lao. Cô thấy choáng váng chóng mặt. Khi Anfrết quỳ phục dưới chân cô, cô cúi xuống hôn vào thái dương non trẻ của anh. Một đường ven xanh mảnh nổi lên chỗ thái dương giống hệt như ở đứa em cô.   Xônxeva nuốt ực không khí rồi khóc. Nước mắt trào ra, nhưng cô vẫn hát. Giọng cô run run. Cô nhìn thấy những đốm sáng mờ ướt át và không nhận ra đó là ánh đèn sân khấu, ánh sao dưới nước, hay gương mặt xanh xao của các chiến sĩ hải quân. Lúc đó Vaxia Tsukhốp hạ màn, bất chấp tiếng kêu giận dữ ở phía sau tháp pháo. Anh đã không nghe lời. Mặt anh đanh lại. Đáp lại tiếng thì thào phẫn nộ của người trợ lý đạo diễn, anh trả lời hằn học và cộc lốc: - Anh sẽ phải tiếp chuyện vị chỉ huy con tàu đấy, tôi sẽ báo cáo mọi việc với đồng chí ấy. Boong tàu vang lên tiếng vỗ tay. Những khán giả chất phác cho vở kịch dừng lại là hoàn toàn hợp lý, sau cái cảnh căng thẳng đầy đau khổ như lúc Viôleta đầm đìa nước mắt. Không ai biết là vở kịch bị “đồ quỷ sứ” cắt ngang lúc mới bắt đầu.   Tsukhốp lại gần vị chỉ huy con tàu ngồi ở hàng đầu và báo cáo với ông về sự việc xảy ra. Chỉ huy trưởng đứng dậy. Đó là một người tóc bạc, ít nói. Trong đời mình, ông đã nhiều lần nhìn thấy cái chết trong những trận chiến cách mạng, nhiều phong ba và sự hy sinh của bao đồng đội. Ông đã từng biết sự tàn khốc trong chiến đấu, sự nghiêm ngặt của mệnh lệnh. Ông cô đơn. Tất cả những gì ông có trước cách mạng đều đã tan biến trong màn sương ảm đạm - cả xóm thợ mỏ Đô-nhét, cái trường làng bẩn thỉu, cả những con người của thời ấy mà chỉ để lại cái ấn tượng của một đám đông hoang mang mệt mỏi. Cách mạng đã xóa bỏ quá khứ bằng bàn tay cứng rắn, gieo vào ý thức sự giản dị và rõ ràng. Ông trung thành với cách mạng như một người lính, một thợ mỏ và một người có trí tuệ trong sáng và chính xác. Vị chỉ huy đứng dậy đi lên sân khấu. Boong tàu vẫn vang dậy tiếng gót giày và vỗ tay của các thủy thủ. Ở hậu trường, người phụ trách nhà hát, mặt tái đi vì tức giận, đón chỉ huy trưởng.   - Xin đồng chí yên tâm, - ông ta nói vội vã, - chúng tôi sẽ thu xếp ổn thỏa ngay bây giờ. Chuyện vớ vẩn, sự yếu đuối thường tình của phụ nữ đó thôi. Cô ấy sẽ hát.   - Cô ấy sẽ không hát nữa, - chỉ huy trưởng khoan thai nói. – Các đồng chí cho ngừng buổi diễn lại! Người phụ trách nhà hát nhún vai, cười khẩy: - Không thể được. Nhà hát chúng tôi làm việc theo kiểu tiên tiến, không thể vì tâm trạng diễn viên mà đình vở diễn được. Hơn nữa, có gì cần phải nói? Cô ấy đã trấn tĩnh và hoàn toàn có thể diễn tiếp.   Vị chỉ huy quay sang Xônxeva. Cô không nhìn ông, gật đầu.   - Đồng chí thấy là cô ấy đồng ý đấy, - người phụ trách nhà hát nói và vứt mẩu thuốc xuống boong tàu.   Câu chuyện này bắt đầu làm ông khó chịu. Vừa khó xử, vừa xấu hổ. Vị chỉ huy thoáng nhìn mẩu thuốc, và Vaxia Tsukhốp tức khắc gạt khẽ nó xuống biển.   - Các đồng chí đang ở trên hạm đội của hải quân đỏ. - Chỉ huy trưởng nói, bên má có vết sẹo của ông khẽ giật giật. – Xin lỗi đồng chí, nhưng ở đây tôi là người thừa hành quyền lực nên tôi cho phép mình can thiệp vào việc quản lý của đồng chí. Về công việc theo kiểu tiên tiến đồng chí quan niệm hoàn toàn sai lầm. Sự đồng ý của diễn viên không có ý nghĩa. Tôi ra lệnh hoãn buổi diễn này lại. Thế thôi. Không bàn cãi gì nữa.   Vị chỉ huy giơ tay và Vaxia Tsukhốp kéo màn. Khán giả im bặt.   - Các chiến sĩ hải quân đỏ! - Vị chỉ huy điềm đạm nói, - nữ diễn viên Xônxeva có chuyện không may trong gia đình, khó mà diễn tiếp được…   Tiếng xì xào truyền lan trong hàng thủy thủ. Mọi người đứng cả dậy. Vị chỉ huy không kịp nói vở kịch hoãn lại đến một ngày tốt đẹp hơn. Điều đó thì không cần lời giải thích của chỉ huy các chiến sĩ cũng hiểu.   - Cho ca nô lại gần tàu! - Chỉ huy khẽ ra lệnh.   - Rõ, cho ca nô lại gần tàu! Ca nô lại gần tàu! - Mệnh lệnh được truyền dần cho đến khi tắt ở boong dưới. Mấy phút sau vị chỉ huy cùng Xônxeva xuống thang tàu. Anh thượng sĩ cao lớn vạm vỡ trân trọng đặt lên cạnh chỗ Xônxeva ngồi một bó hoa, mặt đỏ lựng và khẽ hô lên:   - Hết tốc lực, tiến!   Ca nô đẩy lùi về phía sau thác nước đầy ánh lửa và bọt trắng, phóng về bến tàu. Vị chỉ huy ngồi trên ca nô nói:   - Tôi đã liên lạc với tư lệnh hạm đội. Cô được dành một chỗ trong chuyến tàu tốc hành đi Matxcơva. Chưa muộn đâu. Còn bốn mươi phút nữa.   Xônxeva cúi đầu. Cô lần lần những bông hoa mà không nói lên lời.   - Thưa đồng chí chỉ huy, - anh thượng sĩ cao lớn nói khẽ nhưng đủ cho Xônxeva nghe thấy, - báo chí viết là ở Matxcơva có một giáo sư mổ tim dễ như mổ gà ấy. Giá mà được ông ta…   - Im đi, Kuzmenkô! - Vị chỉ huy nói. Khoảng một giờ sau tàu tốc hành nhả khói ầm ầm lao ra khỏi đoạn đường hầm cuối cùng. Ánh lửa thành phố và bến tàu lùi lại sau những mỏm đá dựng đứng     * * *   Xônxeva ngồi trong phòng toa xe, không bỏ áo rét và khăn quàng. Cô loáng thoáng nhớ lại ánh đèn nhà ga, tuyết trên các nóc toa chở hàng, Maxcơva chìm trong bóng đêm cực đới, chiếc xe tắcxi cọc cạch, ánh sáng trắng đục trong hành lang bệnh viện.   Cô cũng nhớ loáng thoáng khuôn mặt của cậu em mỉm cười với cô trên giường bệnh.   - Mọi sự đã hoàn tất trót lọt. - Vị giáo sư có bộ râu nhọn dữ tướng nói với Xônxeva. – Trót lọt hiếm có đấy.   Xônxeva khẽ hôn lên thái dương non trẻ ươn ướt của em, nơi có một đường ven xanh mảnh nổi lên lờ mờ.   Và mấy giờ sau lại là đêm, nhà ga, người khuân vác mặt rỗ khó nhọc mới lấy hộ được chiếc vé, tiếng cầu sắt rầm rầm, tuyết, hoàng hôn u ám trên thảo nguyên ngoại thành Kharcôp và cuối cùng là màn sương lam trên vũng biển sâu, mặt trời cao và không khí dịu dàng của mùa thu ven biển.   Xônxeva nhảy lại gần cửa sổ - kia, tuần dương hạm vẫn đậu đó, chưa rời bến! Xônxeva luống cuống dứt dây chằng cửa sổ. Cô muốn thò đầu ra ngoài, vươn tay tới con tàu, vẫy nó rối rít bằng chiếc khăn tay trắng. Nhưng cửa sổ không mở ra và Xônxeva nhớ ra rằng đang là mùa đông và mặt trời chiếu sáng ở đây, trên các vĩ độ miền cực nam tuyệt đẹp này, là kỷ niệm cuối cùng của mùa hè. “Mong sao đoàn chưa đi nơi khác, chỉ mong đến kịp với họ”. – Xônxeva nghĩ thầm. Cô gặp lại các bạn bè trong thành phố bên bờ biển.   Một ngày sau trên chiến hạm lại trình diễn vở kịch bị bỏ dở. Khi “đồ quỷ sứ” kéo màn và Xônxeva bước ra sấn khấu, các chiến sĩ hải quân đứng cả dậy và tiếng vang của những tràng pháo tay chưa từng thấy trên vùng biển dội đến vùng bờ lân cận. Những bông hoa đồng nội giản dị rơi tới tấp xuống chân Xônxeva và hòa lẫn với đám nhung lụa trang phục cổ thành Vơnidơ. Vị chỉ huy đứng ở hàng đầu và thân ái mỉm cười. Xônxeva cúi đầu. Cô cảm thấy mi mắt nặng trĩu những giọt lệ như lần trước, nhưng đây là những giọt lệ ân tình hữu ái. Cô dằn lòng, ngẩng đầu lên mỉm cười. Ngay lúc đó dàn nhạc nổi lên và âm nhạc da diết của Verđi át cả tiếng sóng vỗ. Xônxeva rút bông sơn trà cài trên ngực ném xuống sàn. Thay vào đó cô cài bông hoa màu tím nhạt bám đầy bụi và khô héo. Đó là bông hoa vùng đất ngoại thành mà Vaxia Tsukhốp đã ném lên tặng cô. Cô hát tuyệt vời - giọng hát lanh lảnh ai oán trên vùng biển. Những ông già đánh cá ngồi trên bờ sát mạn nước, lắng nghe và kinh ngạc trước sức mạnh của tuổi trẻ con người. Chỉ huy trưởng lắng nghe và thầm nghĩ là không có gì làm cho tài năng nảy nở bằng tình bạn và sự quan tâm bình dị của đồng đội. Tưởng chừng Viôleta đang hát trên quê hương Vơnidơ. Ánh sao tỏa mờ trên những mỏm đá ven bờ. Ánh đèn xuyên tới tận đáy vịnh - nước trong đến như vậy. Không khí rung rinh vì những luồng khí nóng vô hình. Chân trời trên biển cả tuy đã về đêm, vẫn sáng lên hàng chục hải lý như đang lúc hoàng hôn. Sau buổi diễn các chiến sĩ hải quân vây xung quanh Xônxeva, nhưng họ nhanh chóng kính cẩn giãn ra. Bước lại gần Xônxeva, là một người thủy thủ cao lớn tay áo có những vòng viền vàng rộng - vị tư lệnh hạm đội. - Tôi muốn thay mặt toàn hạm đội cảm ơn đồng chí. – ông nói - Đồng chí đã đem lại niềm vui cao quý cho chúng tôi. Thế còn cậu em, đã khỏi rồi chứ? Xônxeva muốn nói rằng: không phải cô, mà chính những chiến sĩ trẻ sạm nắng này – khi thì đùa cợt, khi thì nghiêm trang, nhưng bao giờ cũng bình tĩnh và đầy thiện ý – đã cho cô được huởng một niềm hạnh phúc thực sự. Cô nghĩ rằng, với những khán giả như thế, thì cả Môda lẫn Betôven cũng phải ghen tỵ, nhưng cô không nói gì, chỉ ráng sức siết chặt tay vị tư lệnh. Gió mát thổi vào từ biển, nơi những ngọn hải đăng xa nhấp nháy trong bóng tối, trong tiếng rì rầm của làn sóng bạc đầu.   1935 MỘNG QUỲNH dịch Mời các bạn đón đọc Lẵng Quả Thông của tác giả K. G. Paustovsky.
Là Bóng Hay Là Hình - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Trong một bức thư gởi cho Mikhail, một người anh, vào tháng 11.1845. Dostoievki đã viết: “Tôi tin là tiếng tăm của tôi đã lên đến tột đỉnh”. Lời ấy biểu lộ niềm kiêu hãnh của một nhân tài tự nhìn rõ vóc dáng lớn lao của mình đang vươn cao trên vòm trời văn hóa quê hương: nước Nga, vào lúc mà nền văn học già nua đang kỳ phát khởi lạ lùng của những công trình trường thiên bất hủ, thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20: những công trình đã mô tả kiếp người khắc khoải trong đa mang tâm sự, lao đao trong xã hội trầm luân. Niềm kiêu hãnh của Dostoievski giá trị như một lời tiên tri, vì dù rằng khi vừa ra đời, tác phẩm “Là Bóng hay là Hình” đã không được giới phê bình niềm nỡ đón mừng, thì càng về sau, tác phẩm này, và nói chung văn nghiệp của Dostoievski, càng được văn giới Nga, Âu Châu, và cả thế giới ân cần ngưỡng mộ. Được xuất bản vào năm 1846, “là bóng hay là hình” vẫn là hình ảnh con người trong trong cái nhìn lạ lùng của Dostoiesvski, ném ánh mắt tinh tế vào tận nẻo thâm cùng của tâm hồn con người, những tâm hồn độc đáo, bất thường, bệnh hoạn. Golyadkin, nhân vật của câu chuyện, và “cái bóng sống thực” của y, cho ta thấy sự hoảng hốt ngỡ ngàng của con người về chính mình: rất gần mà rất xa, thân thiết mà hận thù, thật một mà quả hai, rất hai nhưng chỉ là một. Nhưng mỗi chàng Golyadkin là một mẫu người: Nếu Golyadkin là một tích lũy của những dồn nén ẩn ức, thì Golyadkin hai là sự giải tỏa những ẩn ức dồn nén đó: nếu Golyadkin một là con người trong sạch (theo cái nghĩa gần như sơ khai, nguyên thủy) thì Golyadkin hai là một người tạo ra bởi những giả dối của xã hội văn minh. Và tâm hồn què quặt của Golyadkin là bãi chiến, là sự giằng co giữa hai con người đó. Nhưng trong cuộc chiến này không bên nào có thể tiêu diệt hoàn toàn đối thủ của mình. Không phải chỉ Dostoievski là người duy nhất mô tả tâm lý bằng phường cách quái lạ này, trong câu chuyện chập chờn, không hề có một phân định giữa ảo tưởng và thực tế, chập chờn như những giấc ngủ mê sảng của Golyadkin, nhưng nhân vật của ông có một sắc thái riêng, vừa huyền hoặc, vừa triết lý. Nhân vật William Wilson của Poe chẳng hạn, không thể hòa hợp với cái “bóng sống” của mình như Golyadkin, đến như những nhân vật Jekyll và Hyde của Stevenson thì lại quá cách biệt, xa xôi. Giới thiệu tác phẩm “là bóng hay là hình” qua Việt ngữ, chúng tôi hy vọng đã mở được một cánh cửa theo một phương vị thích hợp, để từ đó độc giả Việt Nam có thể nhìn được một mẫu hương sắc và tiêu biểu nhất cho một cánh rừng bao la: văn nghiệp Dostoievski. Chúng tôi cũng tiếc là đã phải dịch tác phẩm này căn cứ trên bản Anh ngữ của Andrew R. Mac Andrew, do đó dầu đã cố gắng dịch sát vẫn khó có thể tránh được một khoảng cách với nguyên tác Nga ngữ, một ngôn ngữ mà người Nga vẫn tự hào là gồm đủ nét hùng vĩ của tiếng Anh, diễm lệ của tiếng Pháp, âm điệu của tiếng Ý và quý phái của tiếng Tây Ban Nha. *** Cũng đã ngót tám giờ sáng lúc Yakov Petrovich Golyadkin, một viên chức nhà nước cấp nhỏ thức giấc sau một giấc ngủ khá lâu. Chàng ngáp dài, duỗi mình rồi cuối cùng mở mắt ra. Chàng nằm bất động trên giường trong vài phút, như chưa biết là mình đã thức hay vẫn còn đang ngủ, và những gì chung quanh là thật hay chỉ là nhũng giấc mơ lộn xộn kéo dài. Tuy nhiên chàng cũng nhận ra ngay là chàng đang trở về với cái cảm giác hàng ngày rõ ràng minh bạch hơn. Chàng nhận ra bức tường xanh rêu dơ bẩn, đầy bồ hóng và bụi bậm trong căn phòng, những ngăn tủ và bàn ghế bằng gỗ đào hoa, chiếc ghế nệm dài phủ vải dầu đỏ có hoa xanh, và cuối cùng bộ đồ chàng đã vội vã cởi ra đêm trước nằm một đống nhàu nát trên ghế. Sau hết cái u ám ảm đạm của một ngày mùa thu qua khung cửa sổ xanh xao hắt vào trong phòng chàng khó chịu đến nỗi Golyadkin không thể không biết là chàng không còn ở trong một nơi huy hoàng đầy sữa và mật nữa, mà đang ở trong một phòng trên lầu tư của tòa nhà khá lớn trên đường Six Shop ở Petersburg. Nhận ra điều đó, chàng rùng mình nhắm mắt lại, như là tiếc nuối giấc mơ đã mất và đang cố tìm lại nó trong một thoáng. Nhưng một phút sau chàng nhảy ra khỏi giường, như vừa nghĩ ra được điều gì tự nãy giờ những tư tưởng rải rác, chưa kiểm soát được của chàng còn đang tìm kiếm. Đứng dậy rồi, chàng bước đến bên chiếc gương soi nhỏ trên ngăn tủ. Dầu vẻ mặt ngái ngủ với đôi lông mày thưa thớt của chàng phản chiếu trong gương không có gì quyến rũ, chàng vẫn có vẻ hài lòng. Chàng nói thầm: “Nếu hôm nay không phải là ngày tốt, hoặc có gì không đẹp xảy đến cho mình, chẳng hạn như bỗng nhiên nổi lên một cái nhọt, hay gì gì đó... ồ, mọi sự rồi sẽ tốt đẹp hết mà”. Bằng lòng với ý nghĩ đó, chàng đặt gương soi vào chỗ cũ. Và dầu đang mặc đồ ngủ, chàng cũng chồm ra khỏi cửa sổ, chăm chăm nhìn ra sân trước mặt. Hình như chàng đã tìm ra được điều gì đó, vì trông mặt chàng sáng lên với nét tự mãn. Rồi Golyadkin nhìn ra đằng sau bức tường ngăn, nơi phòng của Petrushka, tên giúp việc của chàng. Thấy Petrushka không có đấy, chàng nhón gót chạy đến bàn, mở hộc bàn, lục lọi và đem ra một chiếc túi màu xanh đã sờn nhét dưới một mớ giấy tờ đã ngã màu và vài thứ đồ lặt vặt khác. Chàng cẩn thận mở túi nhìn vào. Một mớ tiền xanh, đỏ đủ màu. Golyadkin mỉm cười, đặt chiếc túi mở trên bàn và xoa tay sung sướng. Rồi chàng đổ mớ tiền ra ngoài, và là lần thứ một trăm từ ngày hôm kia, chàng đếm tiền, trang trọng giữ từng tờ giữa ngón trỏ và ngón cái. “Bảy trăm năm chục roubles tiền giấy” chàng nói, nửa thì thầm “Một món tiền đáng kể” giọng chàng run lên vì sung sướng “Ai cũng muốn được chừng này tiền. Mình chưa gặp người nào cho là món tiền thế này là vô giá trị. Có tiền thế này... mua tiên cũng được... nhưng thằng Petrushka đâu rồi kìa?”. Chàng nhìn qua vách lần nữa. Petrushka vẫn không có đấy, nhưng ấm nước đang thở phì phò giận dữ trên sàn, như muốn nói gì đó với Golyadkin bằng cái ngôn ngữ phức tạp của nó, chẳng hạn: “Ông nhắc tôi ra đi, tôi sôi đây. Tôi sẵn sàng rồi đây”. “Thằng khốn Petrushka trốn đâu rồi?” - Golyadkin nghĩ - “Cái con vật lười biếng đó cũng đủ khiến người ta điên lên được”. Chàng giận dữ bước ra lối ra vào dẫn đến sân. Mở cánh cửa cuối lối đi, chàng thấy gã người làm đứng giữa một đám gia nhân khác. Petrushka đang hùng hồn gì đó, và cả bọn đang lắng tai nghe. Golyadkin tỏ vẻ không thích đề tài câu chuyện hay việc đang xảy ra. Chàng bực bội ra lệnh cho Petrushka trở vào. Bước vào phòng, chàng nghĩ: “Thằng cục súc đó có thể làm bất cứ việc gì với nửa kopeck, ngay cả bán chủ của nó đi. Dám chắc là nó cũng đã bán mình với giá không đầy một kopeck rồi...” Chàng hỏi. - Chuyện gì vậy? - Họ đang phát đồ cho người làm, thưa ông. - Mặc vào rồi đến đây. Petrushka mặc bộ đồ vào, cười ngu ngốc, bước vào trong phòng chủ. Trông nó thật kỳ cục: mặc bộ đồ xanh viền chỉ vàng, rõ ràng là cắt cho người cao hơn nó cả thước, trên tay cầm một cái nón cũng viền chỉ vàng với lông chim, bên sườn lủng lẳng một thanh gươm bao da, nhưng lại đi chân đất giống ở nhà. Golyadkin quan sát Petrushka, coi bộ vừa ý. Trông thì biết ngay là bộ đồ được mướn để dành cho một dịp nghiêm trọng đặc biệt nào đó. Trong khi đó Petrushka cũng nhìn chủ với vẻ chờ đợi khiến Golyadkin đâm ra bối rối. Chàng hỏi : - Sao, có xe chưa? - Xe có đây rồi, thưa ông. - Trọn ngày? - Vâng, và khoảng 25 roubles. - Còn giày? Họ mang tới chưa? - Thưa rồi. - Đồ ngốc! Mày không nói: “Thưa ông, họ đã đem đến rồi” được sao? Mang đến đây! Golyadkin hài lòng thấy đôi giày vừa vặn. Chàng sai Petrushka đem nước nóng để rửa mặt và cạo râu, cùng mang trà lại. Chàng cạo râu rất kỹ, nhắp vài ngụm trà, và mặc đồ. Chàng mặc chiếc quần mới vào, cùng một sơ-mi gắn nút đồng, thêm một áo chẽn có những bông sáng trông rất bắt mắt. Chàng thắt chiếc cà-vạt lụa đủ màu và sau cùng khoác bộ lễ phục mới, chải cẩn thận. Lúc mặc đồ, thỉnh thoảng chàng nhìn xuống đôi giày một cách trìu mến, và nhấc chân lên như chiêm ngưỡng kiểu giày, thì thầm gật gù tự tán thưởng mình. Sáng nay thật sự chàng không để ý đến điều gì khác, không cảm nhận thấy những cái nhăn mặt cùng nụ cười mỉa mai của Petrushka khi giúp chàng thay y phục. Khi đã mặc đồ xong và sẵn sàng rồi, Golyadkin bỏ bọc tiền vào túi nhìn Petrushka lúc đó cũng đã mang giày xong. Không còn gì khác, Golyadkin háo hức bước xuống lầu. Một cỗ xe màu xanh nhạt có tay bọc chạy đến bậc cửa trong tiếng leng keng. Petrushka nháy mắt với gã đánh xe, với những người đi đường rồi đỡ chủ lên xe, và như để khỏi phải phá lên cười một cách ngu ngốc, y la lớn “chạy” và nhảy lên bậc xe. Chiếc xe leng keng ồn ào chạy về hướng đại lộ Nevsky. Lúc xe chạy ra khỏi cổng, Golyadkin xoa hai tay mạnh vào nhau, bật cười giống như một tên ba trợn đang vui sướng vì vừa chơi khăm được ai. Nhưng cái bộ tịch vui vẻ đó mất ngay. Gương mặt Golyadkin có vẻ khác lạ. Không kể gì thời tiết xấu và ướt át, chàng hạ cửa xe xuống, quan sát người đi đường. Mỗi khi thấy ai nhìn chàng lại làm bộ nghiêm nghị. Khi xe rẽ từ đường Liteinaya đến đại lộ Nevsky, Golyadkin giật mình, có vẻ khó chịu như bị ai dẫm lên chân, và chàng chui vào trong xe coi bộ sợ hãi. Điều làm chàng khó chịu đó là chàng bắt gặp tia mắt của hai viên chức cùng làm một sở với chàng. Golyadkin thấy họ có vẻ ngạc nhiên khi thấy một đồng sự như vậy, có người còn chỉ vào chàng. Rồi Golyadkin tưởng như người kia gọi mình. Nhưng tiếng gọi loãng mất trên đường, nên chàng làm ngơ không trả lời. Chàng nghĩ : “Mấy thằng con nít ngu, đi xe này có gì lạ đâu? Cần xe thì thuê, đâu có gì vô lý? Bọn con nít bẩn thỉu đáng ăn roi. Chúng nó chỉ biết vừa lãnh lương vừa nghĩ đến các trò chơi thôi. Mình có thể cho chúng nó biết như vậy, nhưng có gì đâu mà phải...”. Tư tưởng của chàng bị ngắt ngang. Chàng há hốc mồm, sợ hãi. Một cặp song mã giống Kazan kéo một cỗ xe sáng loảng đang vượt qua chàng ở bên phải. Người ngồi trong xe tình cờ thấy được Golyadkin khi chàng vô ý thò mặt ra ngoài xe, và có vẻ ngạc nhiên, cố chồm ra ngoài để nhìn vào trong góc tối nơi người hùng của chúng ta đang co ro. Đó là Andrei Filipovich, trưởng phòng của Golyadkin, nơi chàng làm việc với chức phụ tá cho viên thư ký trưởng. Thấy Andrei Filipovich đã nhận ra mình, bắt gặp cặp mắt tròn xoe của ông ta, và hết chỗ trốn, Golyadkin vô cùng ngượng ngập. “Có nên cúi chào ông ta không? Có nên nhìn ông ta không? Nhận là mình, hay cứ giả vờ như ai khác giống hệt mình, rồi làm mặt lạ?”. Golyadkin tự hỏi với vẻ khổ sở khó tả: “Đúng rồi, không phải mình, thế là xong”. Chàng nghĩ như vậy, khi đôi mắt dán vào Andrei Filipovich và lấy tay dở nón chào ông ta. “Tôi... tôi... thưa ngài, không có gì...”. Chàng lắp bắp: “Thật thì... không phải tôi... vâng, như vậy đó”. Tuy nhiên cỗ xe đã vượt qua và đôi mắt của vị trưởng phòng không còn ám ảnh chàng nữa. Nhưng mặt Golyadkin vẫn còn đỏ. Chàng mỉm cười: “Mình đúng là thằng ngu mới không chào ông ta. Song mình phải có vẻ cứng cỏi hơn, nghiêm nghi hơn. Chỉ cần nói với ông ta: ‘Thưa ngài, tôi cũng được mời cơm tối’, như vậy thôi”. Rồi nhớ lại là mình đã không làm được như vậy, người hùng của chúng ta thấy máu nóng bốc lên. Chàng nhíu cặp lông mày, nhìn vào một góc xe với cái nhìn thách thức đe dọa như thể muốn đốt kẻ thù thành tro bụi. Rồi hứng quá chàng giật cương của người đánh xe, ra lệnh cho y quay trở về đường Liteinava. Chàng thấy cần phải gặp Christian Ivanovich, bác sĩ riêng của mình, cho ông ta biết vài chuyện lý thú, như vậy chắc là thích hơn, dầu chàng chưa quen biết vị bác sĩ này cho lắm. Chàng chỉ mới gặp ông ta một lần, khoảng đầu tuần trước, để hỏi ý kiến ông về việc này nọ - Hơn nữa, người ta thường nói là bác sĩ cũng như linh mục, đối với ông ta mà còn giấu diếm thì thật rõ ngu, vì bổn phận của ông ta là phải biết rõ bệnh nhân. Golyadkin bảo dừng trước một tòa nhà năm tầng trên đường Liteinaya và khi bước xuống, chàng nghĩ: “Có nên không? Có phải lúc không?” Nhưng khi chàng bước lên bậc thang, thở hổn hển và cố gắng làm dịu bớt quả tim đập thình thịch, một thói quen mỗi khi vào một thang lầu lạ, chàng quyết định: «Ồ có gì đâu, chuyện này là chuyện của ta, đâu có gì sái quấy. Nếu ta giấu diếm thì thật là ngu. Ta cứ giả vờ như tình cờ đi ngang và ghé vào đây. Bác sĩ sẽ không thấy gì là kỳ cục hết...». Golyadkin suy luận như vậy và lên đến tầng thứ nhì, đứng trước cửa phòng số 5, trên đó có tấm bảng với hàng chữ : CHRISTIAN IVANOVICH RUTENSPITZ Bác sĩ Y Khoa và Giải Phẫu Người hùng của chúng ta sửa bộ nghiêm nghị nhưng vẫn có một chút thân thiện, trước khi kéo chuông cửa. Trước khi thật sự kéo, chàng tự hỏi: “Mình có nên đến vào hôm khác không, vì dù sao cũng không có gì gấp gáp...” Nhưng khi nghe tiếng chân bước lên thang, chàng vội vã quyết định rằng một khi đã có mặt tại đây thì phải tiến tới. Và chàng quả quyết kéo chuông. ... Mời các bạn đón đọc Là Bóng Hay Là Hình của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Bông Hồng Vàng - K. G. Paustovsky
K. G. Paustovsky (1892 – 1968) là một trong những nhà văn Nga xuất sắc nhất của thế kỷ hai mươi, mang tầm vóc quốc tế. Những tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và được bạn đọc khắp năm châu vô cùng ngưỡng mộ. Chính vì vậy ông đã từng được đề cử để trao giải Nôben về văn học.  Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn Nga, Paustovsky đã làm cho bạn đọc và giới phê bình chú ý, bởi một giọng văn hết sức độc đáo giàu chất thơ đến mức nồng nàn, càng đọc càng thấm thía sâu xa về cuộc đời, về những nét rung động tinh tế nhất của tâm hồn trước tình người hồn hậu, trước thiên nhiên Nga bình dị mà tráng lệ và vô cùng quyến rũ. Tác phẩm của Pauxtốpki có một ma lực khổng lồ quyến rũ bạn đọc đến với những điều tưởng chừng nhỏ nhặt mà ẩn giấu trong đấy bao ý nghĩa lớn lao về cuộc đời. Người ta thường gọi ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá của văn xuôi. Văn của ông là tiếng nói tâm hồn nồng cháy đến mức tột cùng của ông đối với Tổ quốc Nga Xô Viết.  Từ xưa tới nay khi viết truyện ngắn hay tiểu thuyết, các nhà văn đều chú ý đến việc xây dựng cốt truyện sao cho hấp dẫn. Riêng truyện ngắn và truyện vừa của Paustovsky lại không chú ý đến cốt truyện, mà đọc lại rất hấp dẫn. Ông viết truyện theo cốt cách và bút pháp của một nhà thơ, tiêu biểu như tác phẩm “Bông hồng vàng”. *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó – một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva – tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng… Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị…, tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. * * * Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: “Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn”. Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn – trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem – tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại “Chú Bé Chăn Bò”, “Gió Biển”, “Chuyến Xe Đêm”, “Người Đầu Bếp Già”… Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người – nhân vật chính – mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái “hư” trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: “Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi”. “Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu”. “Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi”. “Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó.” Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự – một bầu trời sống – với muôn vàn vì sao lấp lánh. “Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó”. Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài “Những Kẻ Lãng Mạn”, “Những Vầng Mây Lấp Lánh”, mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: “Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng”… “Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế”… “Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống “thô thiển” và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn… Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn.” Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng “hiện thực xã hội chủ nghĩa” muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp.3 Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài “Thơ Của Văn Xuôi” đăng trong tạp chí “Ngọn Cờ” (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. “Bông Hồng Vàng” ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí “Tháng Mười”(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết (“Bông Hồng Vàng” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương “Ngôn Ngữ Kim Cương” và “Những Cuốn Từ Điển”. Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu… của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong “Bông Hồng Vàng”, sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch “Bông Hồng Vàng”, tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi tế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng của tác giả K. G. Paustovsky.