Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Của Mùa Hè Năm Ấy

“Đôi lúc, anh khao khát đến điên cuồng một lần được quay trở lại những năm tháng ấy, những năm tháng chúng ta gần cạnh bên nhau, anh sẽ nói với em rằng anh đã thương lắm, ngay từ giây phút đầu…” Je Hee, anh chàng lớp trưởng điển trai năm nào mang theo thứ tình cảm đẹp đẽ của những tháng năm học trò đến tận 10 năm trời đằng đẵng. 10 năm trời ôm những giấc mộng dở dang về một cô nàng lớp phó Jae Lee xinh đẹp, học giỏi. 10 năm trời nuôi trong mình bao mộng tưởng và cả những nuối tiếc. Chân thành đó, kể hết làm sao? Và rồi, định mệnh đã để cho họ gặp lại nhau. Tình cờ như cái cách trái tim cậu bé lớp trường năm nào rung động vì cô nàng lớp phó luôn đối đầu, khó chịu với mình. Tình yêu luôn là một câu chuyện khó đoán định. Ai bên ai, không chỉ vì sự cố gắng, sự yêu thích của bản thân, vì lòng người mà quyết định được. Đôi lúc, tất cả đều phải nhờ vào duyên số, vào ông trời. Nhưng đường chỉ tay nằm trong lòng bàn tay, nếu ta không thể tự quyết định thì cũng có thể dùng sự chân thành và kiên định của mình để thay đổi. 10 năm, một tình yêu, một con người, có lẽ là quá đủ để cảm hóa cuộc đời, cảm hóa định mệnh. “Chúng ta đã may mắn được gặp lại nhau, nhưng anh biết phải làm sao để nói hết tâm tư này?” Liệu trong cơ hội cuối cùng này, Je Hee có thể thổ lộ hết mọi tình cảm chất chứa trong lòng cùng người con gái mà anh thương thầm suốt bao nhiêu năm? Chuyện tình cảm có suôn sẻ như những gì anh thường nghĩ? Những sóng gió, hờn ghen và cả đố kị, nhưng rồi tình yêu sẽ vượt lên tất cả. Có chắc là như vậy? Cùng đón đọc Tôi của mùa hè năm ấy – cuốn sách dịu ngọt như cơn mưa mát lành giữa ngày hè oi ả. Tuổi trẻ là những năm tháng ướt mưa, nhưng ai cũng luôn muốn quay trở lại là mình những năm tháng ấy để nói nốt những việc chưa kịp nói, làm nốt những việc chưa kịp làm! *** Bạn của mùa hè những năm tháng trung học là một người như thế nào? Chàng trai/ cô gái năm ấy bạn từng thầm thương trộm nhớ giờ ra sao? Cuốn tiểu thuyết Tôi của mùa hè năm ấy  - Choi Soo Huyn là câu chuyện về một thời như thế. Họ là lớp trưởng và lớp phó thời trung học, mà đoán chắc là đã từng có một tình cảm không đơn giản chỉ là tình bạn đơn thuần. Gần chục năm sau họ mới tình cờ gặp lại, và mùa hè của khoảng mười năm trước ấy bỗng lại trở về. Một thời trung học đáng nhớ Cô của mùa hè năm ấy, đã từng ước sẽ trở thành cô sinh viên của Đại Học Thú Y, từng mong có thể cùng cậu ấy bước qua những năm tháng thanh xuân tươi đẹp. Nhưng cuối cùng cô đã phải bỏ lại tất cả, để “chạy trốn” hoàn cảnh. Cô ấy có hối hận không? Thực ra thì một lúc nào đó, cô có suy nghĩ đến chuyện hối hận. Hối hận vì đã không nói ra sự thật với cậu ấy, hối hận vì đã để cậu ấy phải khổ sở tìm mình trong khoảng thời gian dài như vậy. Nhưng nếu không “chạy trốn” thì cô không thể biết rằng, cậu ấy thích cô nhiều đến vậy, một người có vẻ lạnh lùng như cậu lại có thể vì cô mà thay đổi bản thân mình đến thế. Cô – Lee Jae Lee, lớp phó của lớp 3 năm 3 một trường trung học. Cậu – Yoon Je Hee, lớp trưởng. Vì có tên phát âm gần giống nhau, nên rất nhiều lần gọi một người mà cả hai người lên tiếng. Khác với vẻ ái ngại của cô, cậu tỏ vẻ hơi bực tức và khó chịu. Je Hee lạnh lùng còn Jae Lee thì dịu dàng, từ tốn. Đối với công việc chung của lớp, nếu không phải là cô luôn chủ động làm thì cậu cũng chẳng bao giờ quan tâm vì cậu ấy thực ra không muốn nhận nhiệm vụ này, vì có thành tích tốt nhất nên thầy cô đã ủy thác trách nhiệm này cho cậu. May mà có cô nên công việc của lớp mới được hoàn thành. Nhờ có những lần bất đắc dĩ phải cùng làm việc với nhau, Je Hee đã cảm nắng cô lớp phó xinh đẹp dịu dàng này từ lúc nào không hay. Cậu đã chịu đứng lên bục giảng thông báo nhiệm vụ cho cả lớp, chịu cùng cô đi nộp bài kiểm tra cho thầy thay vì lạnh lùng bỏ mặc những phong trào chung như trước. Hai người chia sẻ nhiều hơn về việc thi trường nào, thích cái gì và sau này sẽ muốn trở thành ai. Vì biết Jae Lee học chưa tốt môn toán, Je Hee còn chủ động đề xuất sẽ kèm cô học bài sau giờ tan học. Vậy là cứ khi các bạn tan học về nhà, hai vị lớp trưởng lớp phó của lớp ấy lại ngồi lại học bài và giải đề. Những năm tháng ấy, những ngày chỉ biết đến sách vở và bạn bè, vẫn luôn là một phần ký ức vô cùng đẹp của tất cả mọi người. Chỉ cần nhắc nhẹ một câu chuyện thuở ấy, là cả một seri dài tập bộ phim học đường những năm tháng ấy được chiếu lại. Thân thương và vẹn nguyên như chưa từng trưởng thành và thay đổi. Với Jae Lee, với những ai coi đó là tập cuối cùng trong con đường học tập của mình, thì đoạn ký ức đó không những đẹp đẽ mà còn vô cùng thiêng liêng. Cô đã bỏ dở ước mơ của mình để đi làm phụ giúp gia đình. Ước mơ được làm sinh viên Đại học, được ngồi trên giảng đường, được mặc chiếc áo cử nhân và lên bục nhận bằng. Tất cả, với cô sao mà xa xôi quá. Tuổi hai mươi đầy sóng gió Mười tám, đôi mươi, khi các bạn hân hoan bước vào cuộc sống sinh viên, thì cô lớp phó Jae Lee ngày nào bắt đầu xa gia đình và đi làm. Cô được nhận làm nhân viên kinh doanh của một công ty may đồng phục. Mới tốt nghiệp cấp ba, chưa có nhiều mối quan hệ trong xã hội, chưa có kinh nghiệm trong mọi việc nhưng nếu muốn trở thành nhân viên chính thức, cô cần bán được một số lượng nhất định ban đầu. Vậy là cô đánh liều tìm đến thầy chủ nhiệm, dù sao thầy cũng là người lớn duy nhất biết hoàn cảnh gia đình cô và hiểu tại sao cô lại chọn con đường này. Người thầy đã từng ép cô phải giữ chức lớp phó, đã từng cho cô mượn rất nhiều sách về đọc, bây giờ tóc cũng đã ngả màu. May thay, thầy xem xong mẫu, liền không ngần ngại đặt hàng cô để may đồng phục cho lớp. Cái vỗ vai của thầy, chính là niềm an ủi lớn nhất của cô lớp phó năm nào. Nhưng mỗi lần gặp thầy, thầy đều nhắc đến Je Hee, làm trái tìm bé bỏng của cô tưởng ngủ yên lại được dịp thổn thức. Thầy bảo rằng lớp trưởng cũng thỉnh thoảng đến gặp thầy, dù không nói nhưng thầy biết là cậu ấy đến để nghe ngóng tin tức về cô. Je Hee bây giờ đã trở thành sinh viên Y khoa, chẳng mấy sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng cậu ấy chắc hẳn vẫn rất nhớ cô lớp phó dễ thương ngày nào. Nếu có dịp, hãy gặp lại nhau, thầy nhắn nhủ và đưa cho cô tờ giấy ghi địa chỉ và số điện thoại của lớp trưởng. Jae Lee cũng từng nghĩ sẽ gặp lại Je Hee, nhưng cô lại không đủ can đảm. Cô tự ti với những gì mình đang có, mà thực ra thì cô chẳng có gì cả. Một nhân viên kinh doanh bình thường, sống trong một căn nhà trọ nhỏ hẹp, ngày ngày lo cơm áo gạo tiền, năm tháng trôi qua chỉ mong kiếm thêm được ít tiền để gửi về cho mẹ. Vậy thì hà cớ gì phải gặp nhau. Cô muốn giữ những hình ảnh đẹp đẽ vui tươi nhất của mình trong trí nhớ của Je Hee, sẽ mãi là cô lớp phó của những năm cấp ba mà cậu ấy biết. Lý trí chẳng thắng nổi cảm xúc Jae Lee, trước khi cùng gia đình rời đi nơi khác đã làm một việc mà chính cô cũng không nghĩ là mình có thể làm. Cô lấy tiền của mẹ và cùng Je Hee đến công viên trò chơi. Lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất, cô cho phép bản thân nói dối mẹ, chỉ để đổi lại một ký ức đẹp đẽ cùng cậu bạn lớp trưởng trước khi rời đi. Và đến bây giờ, khi nghĩ lại, cô vẫn cảm thấy đó là chuyện nên làm. Jae Lee, đã từng nhiều lần nhắc nhở bản thân mình hãy quên đi tình cảm dành cho người con trai đó, vậy mà sau cùng thật vẫn không làm được. Cô đã hơn một lần cầm mảnh giấy nhỏ ghi số điện thoại của Je Hee, đứng trước hộp điện thoại công cộng, nhưng rồi lại lầm lũi bước ra. Và cũng là Jae Lee, đã bước vào đến sân trường Đại học Y khoa, những mong gặp được lớp trưởng. Thế nhưng khi nhìn thấy cậu ấy từ xa lại vội vàng lùi bước. Và cả đến khi hai người tình cờ gặp lại, lý trí thì bảo rằng sẽ chẳng có gì hết nhưng trái tim thì lại không ngừng gợi nhắc những kỷ niệm năm nào. Về phía Je Hee, dù anh có tỏ ra lạnh lùng thế nào đi nữa, chỉ cần trước mặt là cô ấy, cậu sẽ không màng đến nguyên tắc của bản thân. Dù là công việc của lớp hay cùng cô đến nhà thầy chủ nhiệm, dạy cô học bài hay cùng cô đến công viên vui chơi, tất cả mọi việc đều không giống như những gì mọi người biết về cậu. Chỉ cần là Jae Lee, thì cho dù một hũ kẹo nhỏ cũng trở thành vật báu. Cậu sẵn sàng đối đầu và không tha cho ai động đến vật báu của mình dù đó có là em trai. Đó là lần duy nhất cậu đánh em mình, chỉ vì nó làm vỡ hũ kẹo Jae Lee đã tặng. Cậu mua máy nhắn tin và không ai biết đến sự hiện diện của chiếc máy đó ngoài Jae Lee. Những tin nhắn trong đó đương nhiên cũng chỉ gửi cho mình Jae Lee mà thôi. Vốn thông minh, xuất chúng, cậu dễ dàng có thể đỗ bất cứ trường đại học nào, nhưng cậu đã chọn Đại học Y khoa. Vì Jae Lee có lần bảo rằng, cô thích học Đại học Thú y, cô rất yêu động vật. Nhưng Je Hee thì dị ứng với lông động vật, nên cậu chỉ có thể chọn Đại học Y để được ở bên cạnh Đại Học Thú y. Cậu ấy, muốn trở thành một ngôi sao Bắc cực, luôn luôn đợi chờ cô ấy. Trong suốt những năm sinh viên, mỗi lần có đợt nhập học mới của Đại Học Thú y, cậu đều lặng lẽ đứng nhìn để tìm một hình bóng quen thuộc. Thậm chí, cũng từng bắt xe buýt đến một vài nơi có thông tin về gia đình Jae Lee nhưng đều vô ích. Cậu những lúc như thế, đã chẳng còn là Je Hee lạnh lùng, mà là một Je Hee vô cùng đáng thương. Bản thân cậu, cũng biết rằng cuộc tìm kiếm này có thể là vô vọng, tự hứa rằng sẽ để tình cảm này ngủ vùi nhưng năm lần bảy lượt đều không làm được. Hội ngộ tình cờ, duyên trời đã định Và sau bao tháng ngày tìm kiếm, Je Hee đã gặp lại Jae Lee. Cô vẫn còn vì tự ti mà trốn tránh nhưng cậu thì nhất quyết nắm lấy cơ hội này. Je Hee từng nhắn nhủ rằng “Vì em bảo anh đợi, nên anh vẫn đợi ở nơi này, vậy thì em có thể chỉ vì anh mà để trống một ngón tay áp út thôi nhé. Có được không?”.  Đó chính xác là những gì cả hai người mong đợi. Cuối cùng thì họ cũng đã gặp được nhau. Cùng nhau trò chuyện, cùng đi thăm thầy chủ nhiệm, cùng hòa chung không khí WordCup những năm 2002. Cô sợ rằng thứ tình cảm đẹp đẽ này, chỉ có thể kéo dài như một mùa Wordcup vài tháng nhưng Je Hee càng thể hiện quyết tâm có thể cùng cô đi đến hết cuộc đời. Sóng gió còn đến từ cả người mẹ của Je Hee, khi bà không đồng ý cô lấy con trai mình. Bà là một người tốt, nhưng có chút ích kỷ khi thấy con trai mình vì một cô gái có thể thay đổi đến thế này, bà sợ mình sẽ mất con. Vẫn là cô bé năm cấp ba ấy, khiến con trai bà không màng thời gian liên tục về nhà trễ, khiến nó xém chút nữa thì đánh em trai phải nhập viện, nên bà một mực cho rằng hai người họ không nên đến với nhau. Nhưng cuối cùng thì, sau khi thấy được cả những thay đổi tích cực của con trai, và nhừng lời nói hành động rất chừng mực, lễ phép của Jae Lee, bà đã dần chấp nhận. Bà tin con trai mình và tin rằng lựa chọn của con là đúng. Cánh cửa lễ đường rộng mở chào đón đôi bạn trẻ về chung một nhà. Jae Lee bắt đầu ôn tập lại để nuôi dưỡng ước mơ trở thành một cô sinh viên. Và một happing ending đã đến. Mùa hè với những mộng mơ Cuốn sách chính là một câu chuyện nhẹ nhàng, thú vị về tình yêu, tình đầu của đôi bạn cùng lớp. Ai đó nói rằng “Tình đẹp nhất khi tình dang dở”. Cũng có nhiều người bảo rằng “Tình yêu đẹp chỉ có trong cổ tích”.  Có thể họ đã có những va vấp không đáng nhớ trong chuyện tình cảm, nhưng đừng bao giờ đánh mất hy vọng. Hãy mơ mộng đi, hãy giữ niềm tin vào tình yêu đi. Vì tất cả chúng ta, rồi ai cũng sẽ có được một nửa của đời mình. Hãy thử đọc và cảm nhận cuốn sách, nó như một bộ phim Hàn quốc nhẹ nhàng, lãng mạn, giúp bạn quên đi những mệt nhọc đời thường. Đọc để thấy mình thời cấp ba, cũng từng một thời mộng mơ với tình yêu học trò trong trẻo. Đọc để thấy mình của mùa hè những năm tháng tuổi trẻ, với những ước mơ hoài bão về cuộc sống sinh viên đầy tò mò, hứa hẹn.Tôi của mùa hè năm ấy, bạn của mùa hè năm ấy, chúng ta của mùa hè năm ấy,.... Review chi tiết bởi: HiDi - Bookademy Mời các bạn đón đọc Tôi Của Mùa Hè Năm Ấy của tác giả Choi Soo Hyun.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương - Haruki Murakami
Aka trong Akamatsu nghĩa là Đỏ O trong Oumi nghĩa là Xanh lơ Shira trong Shirane nghĩa là Trắng Kuro trong Kurono nghĩa là Đen Và Tazaki Tsukuru Không màu Họ -  năm người bạn đã từng chơi rất thân với nhau. Họ - một ngày nọ, đã loại trừ một sắc thái màu mang tên Tazaki. Vì Không màu quá mơ hồ, nhợt nhạt hay quá khác biệt? Không có lời giải đáp nào cho câu hỏi trên. Đây là tác phẩm mới nhất của Murakami sau bộ tiểu thuyết “dài hơi” 1Q84. Cuốn sách được khởi nguyên từ một truyện ngắn như lời Mura tâm sự: "Ban đầu tôi định viết một truyện ngắn nhưng tôi càng viết, nó tự nhiên càng dài ra. Chuyện này không thường xảy ra với tôi lắm, có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi viết Rừng Na Uy.” Tazaki cũng gặp phải cú sốc tinh thần đầu đời (một kiểu san chấn tâm lý) như nhiều nhân vật chính khác trong các tác phẩm trước đó của Murakami. Một vết thương lòng đớn đau ở tuổi hai mươi. Tazaki bị đẩy ra ngoài nhóm bạn với lời nhắn gửi cuối cùng “đừng gọi nữa”. Cô đơn trong kí ức, hoài niệm. Cô đơn nơi thực tại mơ hồ. Cô đơn trong nỗi đau, hoài nghi. Anh mặc định mình là một kẻ trống rỗng, không bạn bè. Ngay ngày hôm đấy, anh chết. Tuổi trẻ, tình yêu, khát vọng - tất cả chỉ còn là một màu trong suốt vô hình. Và mười sáu năm sau, ý niệm về cái chết như phương thức giải thoát duy nhất vẫn còn đeo đuổi trong tâm trí anh. Nếu như không có sự xuất hiện của cô gái Sara, có thể Tazaki đã mang theo những tuyệt vọng, ám ảnh triền miên vào giấc ngủ không bao giờ thức tỉnh. Anh quyết định quay về những năm tháng lãng quên để tìm ra sự thật và giải mã những phần đứt đoạn của giấc mơ. Xuyên suốt tác phẩm, chuyến hành hương ngập tràn trong âm nhạc - thanh âm êm dịu của đoạn khúc Le mal du pays (Hoài hương) mà cô gái tên Trắng thường chơi. Cái chết bí ẩn của Trắng. Những đớn đau giày vò của Xanh, Đen và Đỏ. Sự thật đã giải thoát Không Màu khỏi hồi ức vỡ vụn! Trong thời đại của công nghê, Google và Facebook, con người đã dần quen với việc kết nối với nhau bằng mạng lưới thông tin đa chiều. Và chúng ta dường như ngủ mơ trong thế giới ảo mà quên rằng: lòng người - nơi tận cùng thế giới mới là nơi khó nắm bắt nhất. Nó hiện hữu đấy nhưng cũng rất đỗi mong manh vô hình. Và Murakami đã khẳng định một cách chua xót rằng, “Nếu muốn, bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể dễ dàng lấy được những thông tin như thế. Dẫu vậy, chúng ta thật sự gần như chẳng biết gì về mọi người”. Suốt mười sáu năm, Tasuki trốn chạy nỗi đau bằng cách tự gây tổn thương bản thân. Nhưng điều đó không giúp anh thoát khỏi ám ảnh. Đối diện với nỗi đau và những vết cứa sắc lẹm của nó mới chính là cách giúp con người tồn tại và xích lại gần nhau. “Lòng người và lòng người không bao giờ gắn kết với nhau chỉ bởi sự hài hòa. Mà trái lại, gắn kết với nhau sâu sắc bởi tổn thương và tổn thương. Nối liền với nhau bởi niềm đau và niềm đau, bởi mong manh và mong manh. Không có sự tĩnh lặng nào mà không chứa đựng những tiếng kêu bi thống, không có sự dung thứ nào mà không đổ máu trên mặt đất, không có sự chấp nhận nào mà không phải vượt qua những mất mát đau thương. Đó là thứ nằm trong căn đế của sự hài hòa đích thực". Đọc cuốn sách, có thể bạn sẽ nhớ lại những câu trong Kafka bên bờ biển. Chuyến hành hương của Tazaki vô tình gợi nhắc đến cuộc hành trình của Kafka để thoát khỏi lời nguyền định mệnh: Anh ngồi bên rìa thế giới Em trên miệng núi lửa đã tắt Đứng khuất trong bóng cánh cửa Là những lời không còn chữ Phía bên kia những lời không còn chữ. Đó mới là thực tại vẹn nguyên, là lòng người sâu thẳm. Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương không quá siêu thực, mơ hồ và huyền bí như những kiệt tác trước đó của Murakami. Thế nhưng, nó vẫn có sức hút mãnh liệt đối với độc giả. Với 13000 bản trong lần đầu ra mắt, tiểu thuyết này đã phá vỡ kỉ lục lượng xuất bản đầu tiên của bất kì cuốn sách nào tính đến thời điểm hiện tại. Xin phép được tạm dừng mọi luận bàn tại đây. Tất cả vẫn là một bí mật. Tất cả không thể là khởi đầu. Cho đến khi bạn gặp Tazaki. Và hành hương cùng anh ấy… *** Nhận định “Sự kết hợp đầy cảm hứng giữa Murakami ‘cũ’ và Murakami ‘mới’.”- Amazon “Câu chuyện của Tsukuru sẽ còn âm vọng cùng bất kỳ ai cảm thấy mình đang trôi dạt giữa kỷ nguyên Google và Facebook này.” - San Francisco Chronicle "Đây là một cuốn sách rất thực tế, như Rừng Na Uy vậy. Nó, với tôi, có vẻ nặng nề, thậm chí là u buồn hơn so với những tác phẩm khác, nhưng quan trọng nhất, là nó có triển vọng" - Philip Gabriel, dịch giả tiếng Anh của cuốn sách *** Haruki Murakami là tác giả Nhật Bản nổi tiếng vào bậc nhất cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 30 thứ tiếng trên thế giới. Ở những nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc các lãnh thổ Đài Loan Hồng kông hầu như toàn bộ tác phẩm Haruki đã được dịch, xuất bản; các tác phẩm mới vừa ra mắt độc giả Nhật Bản thì vài tháng sau đã có ngay bản dịch tiếng Trung Quốc, Hàn quốc. Ở Nga và Mỹ cũng có nhiều độc giả nhiệt liệt hâm mộ tác phẩm Haruki, qua các bản dịch nghiêm túc và thành công. Những nhà phê bình và độc giả ái mộ còn nói đến chuyện Haruki sẽ có thể đoạt giải Nobel văn học, hay có hình in trên giấy bạc Nhật Bản. Murakami Haruki là tác giả Nhật Bản có khuynh hướng phản kháng đối với truyền thống. Tác phẩm Haruki đặc sắc cả trong thể loại truyện dài lẫn truyện ngắn. Chính ông cho biết không đặc biệt chú trọng hay ưa chuộng thể loại nào hơn. Nhiều truyện ngắn của ông đã trở thành hạt giống được. khai phát thành truyện dài thành công. và nhiều truyện dài của ông đã chia nhánh phát triển thành những truyện ngắn đặc sắc. Mời các bạn đón đọc Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương của tác giả Haruki Murakami.
Ôi Đàn Ông! - Bì Bì
Ôi Đàn ông là tiểu thuyết mang đầy tính tự sự và cũng không kém phần hài hước của tác giả Bì Bì. Nhân vật chính của chuyện là Hồ Đông. Anh có một tính cách không nổi bất và có phần nhàm chàn. Từ một phó chủ tịch phụ trách văn hóa, văn nghệ anh được nhận chức Viện trưởng một Viện nghiên cứu văn hóa. Từ khi nhận chức vụ mới, những công việc và hệ lụy từ công việc và gia đình bắt đầu đổ dồn vào anh, đưa anh đến cảm giác bức bí, khó chịu và bất an nhưng anh vẫn phải cố gắng hằng ngày để thể hiện được vai trò và sếp ở cơ quan văn hóa mà thiếu văn hóa và làm chồng trong một gia đình từ lâu đã chẳng còn êm đềm… *** Tôi, bốn mươi hai tuổi. Nghe nói đàn ông tuổi này rất nhiều. Hy vọng tôi không giống họ. Đó không phải là sự theo đuổi gì về cá tính. Sự thật e rằng thế này: tôi không biết lái xe, cũng không đi nổi xe buýt, nuôi hai mươi lăm con cá nhiệt đới vui tính nên dần dần bị nhiễm đặc điểm của cá. Bởi vậy mọi người đánh giá về tôi thường là “không hiểu nổi”, “không rõ lắm”… Xét về hình thức, tôi là một người hòa nhã. Đàn ông như vậy, ai có thể gặp được nhiều cơ chứ? Nhất là cần phải nhấn mạnh rằng, tôi còn có một chức quan nho nhỏ, cũng nắm một chút quyền lực. Một hôm, vợ tôi phát hiện ra rằng, những người đàn ông có chút quyền lực như tôi, đã không còn hòa nhã, đã không còn khoan dung. Trước tiên, hãy để tôi giới thiệu về mình và những thứ xung quanh tôi. Như vậy đối với bạn sẽ tốt hơn. Trước khi bước vào câu chuyện, bạn có thể hiểu được đại khái về mọi thứ xung quanh. Cũng như khi tìm hiểu về một thành phố, trước tiên phải tìm hiểu về vùng ngoại ô của nó. Như vậy đối với tôi cũng tốt. Thậm chí trước mặt bạn, nom tôi vẫn đáng tin, như người muốn nói điều thật lòng, không có ý định dùng câu chuyện của người khác để gạt bạn. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết này vẫn tồn tại một khả năng là, dù sao đi nữa, bạn vẫn cảm thấy bị gạt. Vậy bạn hãy coi những lời tâm huyết của tôi như mớ rác rưởi, giống như vợ tôi đã làm. ... Mời các bạn đón đọc Ôi Đàn Ông! của tác giả Bì Bì.
Hang Động
Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.
Chuông Gọi Hồn Ai - Ernest Hemingway
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại học ông tời thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Năm 1918, khi chưa tròn 19 tuổi ông bị thương nặng ở chân trong khi đag cõng một người lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông được chữa trị tại bệnh viện Milan và được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Những trải nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên tác phẩm "Giã từ vũ khí" (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp tục viết văn. Nhưng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** “Chuông gọi hồn ai" là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là María, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. (Sau này cuộc chiến chống Phát Xít thất bại và tướng Franco cai trị đến tận sau Thế Chiến Thứ 2; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha.) • Giá Trị Tác Phẩm Thông qua nội dung miêu tả hoạt động của một nhóm du kích quân địa phương dưới sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa người Mỹ, “Chuông gọi hồn ai" một mặt ca ngợi cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc Tây Ban Nha vì hòa bình tự do, mặt khác phản ánh tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn quốc tế đã cùng nhân dân Tây Ban Nha chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, dập tắt ngọn lửa hung bạo của chiến tranh đang tràn ngập khắp nơi. Tác phẩm hé lộ mẫn cảm nhanh nhạy của tác giả trong việc nắm bắt vấn đề trọng tâm của nhân loại trong những năm 1930 của thế kỷ 20, đó là nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Nó là lời tố cáo đanh thép tội ác man rợ của bọn Franco, lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời, bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ, Hemingway còn cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa nhân dân và lịch sử cũng như những vấn đề về sự sống, cái chết, tình yêu, chỗ đứng và trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội mà thực tế cuộc cách mạng Tây Ban Nha đã đặt ra. Về mặt nghệ thuật, “Chuông gọi hồn ai" là đỉnh cao phong cách trữ tình của Hemingway, một phong cách đã in đậm trong nhiều tác phẩm của tác giả như Mặt trời cũng mọc (The sun also rises, 1926), Giã từ vũ khí (A farewell to Arms, 1929), Ông già và biển cả (The old man and the sea, 1952)... Tác phẩm cố gắng đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật, thể hiện được những con người cá nhân có nhiều suy tư, có cá tính, gây ấn tượng mạnh mẽ, biết hy sinh cuộc sống riêng tư cho lý tưởng hoặc biết chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy sự chiến thắng về tinh thần bên trong. Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề trong cuốn sách khiến cốt truyện của “Chuông gọi hồn ai" tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi tiếp cận tác phẩm. Mặc dù tư tưởng của nhà văn ít nhiều còn thiếu lạc quan khi biểu lộ cảm quan định mệnh phảng phất trong tâm lý của một số nhân vật chính, cũng như tính chất bi kịch đậm nét ở phần cuối câu chuyện ít nhiều làm giảm cảm hứng tích cực của người viết trong tác phẩm, nhưng “Chuông gọi hồn ai", cuốn tiểu thuyết ra đời trong máu lửa chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Tây Ban Nha, vẫn là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của văn hào Hemingway cũng như của nền văn học hiện thực Mỹ thế kỷ 20. “Chuông gọi hồn ai" (For Whom the Bell Tolls) còn là tên 2 ca khúc do 2 ban nhạc nổi tiếng thế giới trình bày là Metallica (trong album Ride the Lightning) và ban nhạc anh em Bee Gees (trong album Size Isn't Everything) Mời các bạn đón đọc Chuông Gọi Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway.