Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

George Sand

Dịch giả : Đặng thị Hạnh và Lê Hồng Sâm Dịch nguyên bản tiếng Pháp George Sand   Cuốn sách này xuất bản trong khuôn khổ «  Chương trình hợp tác xuất bản, đưọc sự giúp đỡ của Trung tâm Văn hóa và Hợp tác Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam (Cet ouvrage, publié dans le cadre du Progamme de participation à la publication, bénéficie du soutien du Centre Culturel et de Coopération de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam) Béatrice Didier là một giáo sư trường Đại học Sư phạm ( Phố Uhm, Paris) ; tác giả của nhiều tiểu luận ( Nhật ký thầm kín, văn viết - phụ nữ… ) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert : George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện. George Sand «Với tư cách người sáng tạo ra kiệt tác, bà là người thứ nhất trong giới phụ nữ, bà có thứ hạng độc nhất đó, trên phương diện nghệ thuật, không phải chỉ của thời đại chúng ta mà của mọi thời đại; bà có trí tuệ mạnh mẽ nhất và cũng đáng yêu nhất đã được trao tặng cho giới của bà. Thưa Bà, bà làm vẻ vang cho thế kỷ và cho đất nước chúng ta […] Tôi xin cảm tạ bà vì đã là một tâm hồn lớn lao đến thế”. VICTOR HUGO, Thư gửi George Sand, Paris 19 tháng sáu năm 1875 ° ° ° Beatrice Didier là giáo sư trường Đại học Sư phạm (phố Uhm, Paris); tác giả của nhiều tiểu luận (Nhật ký thầm kín, Văn viết - phụ nữ...) về văn học Pháp thế kỷ XVII và thế kỷ XIX, đặc biệt về Stendhal và George Sand. Năm 1998 bà đã xuất bản ở PUF một tác phẩm, đầu đề lấy nguồn cảm hứng từ Flaubert: George Sand. Một giòng sông lớn châu Mỹ. Bà là người chủ trì việc xuất bản toàn tập George Sand ở Honoré Champion, một công việc từ trước tới nay chưa bao giờ được thực hiện.   Mở đầu Ai sợ George Sand ? Các phản ứng khó thương của một Baudelaire có lẽ là bắng chứng rõ ràng nhất về nỗi lo âu do bà gây nên. Trong một thời gian dài người phụ nữ - tác giả đã khiến người ta sợ, đặc biệt nếu người ấy chẳng chịu thôi làm phụ nữ. Ngay từ đầu vinh quang của bà đã có vầng hào quang tai tiếng bao quanh.  Điều này có vẻ đáng ngạc nhiên, bởi rốt cuộc thì trong thế kỷ XVIII của chúng ta, đông đảo nữ văn sĩ từng có tình nhân ; nhưng giữa thời gian ấy đã diễn ra cuộc Cách mạng, rất ít chú ý đến nữ quyền, cần phải thừa nhận như vậy : sau đó nền Đế chế, thời Trùng Hưng và triều đại Louis –Philippe biểu thị bước thoái bộ rất rõ trong việc giải phóng phụ nữ. Và dư luận công chúng, ở thế kỷ XIX, với sự phát triển của báo chí, các phương tiện trung gian để làm rùm beng vụ tai tiếng, những phương tiện mà thế kỷ trước không có. Trong một thời gian dài nền phê bình văn học, chịu ảnh hưởng của dư luận này, cứ khăng khăng thấy George Sand là người tình của Musset hay của Chopin, thay vì thấy bà là một đại văn hào, như chúng ta hiện nay. Điều đó lý giải tình trạng tương đối thất sủng của sáng tác George Sand. Tuy nhiên, sinh thời bà, một Balzac, một Flaubert và nhiều bậc khác coi bà là đồng đẳng với mình. Tại nước ngoài ảnh hưởng của bà hết sức lớn lao, thí dụ như với Dostoievski và với tiểu thuyết Nga, cả với tiểu thuyết Ý. Bà từng được việndẫn bởi tất cả những phụ nữ nhìn thấy ở bà một ngưòi giải phóng. Trong những năm đầu thế kỷ XX, Alaine và đặc biệt Marcel Proust coi bà là một đại văn hào. Sau đó, nhờ nhiều công trình từng in dấu ở nửa sau thế kỷ, hình ảnh của George Sand và công trình của bà đã định hình rõ rệt. Trước hết chúng ta hãy tỏ bày niềm kính trọng đối với việc xuất bản Thư Tín do Georges Lubin phụ trách, gồm hai mươi sáu tập dày, cho phép chúng ta xem xét cuộc sống của George Sand ngày này qua ngày khác, cuộc sống khác hẳn với những sự đơn giản hóa mà bà là nạn nhân, cho ta thấy khả năng làm việc khó tin nổi và theo dỏi công việc sáng tác của bà trong những nét lớn. Chúng ta cũng lưu ý cả nỗ lực đã được thực hiện trong lĩnh vực xuất bản, tuy vẫn còn chưa đủ. Cho đến nay chưa nhà xuất bản nào ấn hành một bộ tổng tập : Honoré Champion là nhà xuất bản đầu tiên khởi sự công trình này, sẽ phải được tiến hành trong nhiều năm. Các trường đại học đã đi vào nghiên cứu văn hào một cách nghiêm túc : trường Đại học Grenoble, với các công trình của..Cellier và L.Guichard, được học trò của các ông tiếp nối, trường Đại học Vérone, với A. Poli, các trường Đại học Paris VII, Amsterdam, Hanovra, các trường Đại học Mỹ … Tuy vậy vẫn còn rất nhiều việc cần làm.   Tiểu thuyết của George Sand, được viết với sự dung dị mà người ta thường chê trách bà, dễ đọc ; tuy nhiên nắm bắt toàn thể công trình của bà lại khó, trước hết do tầm rộng lớn của nó. Rất hiếm người có thể tự phụ là đã đọc chín mươi cuốn tiểu thuyết, các tác phẩm tự thuật, kịch, các bài báo, thư từ trao đổi của bà : giá như muốm làm, phải bỏ vào đó cả cuộc đời. Cho nên người ta thích tái bản những gì tất cả mọi người đều biết, thí dụ như các tiểu thuyết gọi là « đồng nội », và bỏ qua phần kịch, bị đánh giá nhầm lẫn là khó diễn. Tự giới hạn ở vài hình ảnh về George Sand do các thế hệ trước truyền lại thì dễ hơn: người đàn bà định mệnh, rồi « bà phu nhân hiền hậu của Nohant ». Trong chừng mực bà từng gây ra và còn đang gây ra những cách lý giải say sưa sôi nổi, lại cũng khó có được một cái nhìn tương đối khách quan và đừng phóng chiếu lên bà các sơ đồ của thế kỷ XXI chúng ta. George Sand nhà đấu tranh vì phụ nữ ư ? Một số người sẽ cho rằng bà đấu tranh chưa đủ. Sáp nhập bà với các nhà đấu tranh vì phụ nữ những năm 1970 là một việc làm nguy hiểm : sự giải phóng phụ nữ mà bà yêu cầu xét cho cùng khá hạn chế, khi sẵn sàng chấp nhận là những người phụ nữ thuộc mọi đẳng cấp xã hội không có cùng một phận vị. Nhưng cần đặt cuộc đấu tranh của bà vào thời đại bà, chứ không phải thời đại chúng ta. Georges Sand xã hội chủ nghĩa, bạn của Pierre Leroux, ủng hộ 1848, thậm chí tham gia hoạt động trong đó ? Nhưng người ta sẽ thấy chủ nghĩa xã hội ấy là rụt rè, người ta sẽ chê trách thái độ của bà trong thời kỳ Công xã. Cả ở đây nữa, cũng cần xác lập lại các viễn cảnh : năm 1848 và năm 1871 tuổi bà đã khác đi: bà đã sống ngày này qua ngày khác những biến cố mà chúng ta biết một cách tổng quát và theo phương pháp quy nạp, đối với những biến cố đó chúng ta có thể có một cách nhìn khác với những người đương thời. Một điều cũng gây khó nghĩ, đó là trong cuộc sống thọ của bà, George Sand đã tự đổi mới, đã ứng dụng những thể loại rất khác biệt và thật khó đưa bà vào các phạm trù đã định giới hạn. Bà từng được một công chúng hết sức rộng rãi đọc trong suốt thế kỷ XIX. Bà có là nhà sáng tạo những hình thức mới hay không ? Nhiều hơn người ta nghĩ. Bà có quan tâm đến bút pháp, hay như người ta từng khẳng định, bà viết những gì lướt qua óc mình ? Việc nghiên cứu các bản thảo chứng tỏ rằng, dù không chữa kỹ lưỡng như một Flaubert, song bà dụng công, chỉnh sửa, nâng cao, hơn người ta thường bảo rất nhiều. Các bạn đã đọc George Sand chưa? Cuốn sách nhỏ này muốn xui bạn hãy làm điều đó và đặc biệt là hãy phiêu lưu ngay (nếu việc đọc toàn bộ hầu như bất khả thực hiện) đến với những tác phẩm ít nổi tiếng hơn. Như thế bạn sẽ có được một khái niệm về sự phong phú, về tính đa dạng, về chất quảng đại trong văn chương của người được Flaubert ví với “một dòng sông lớn châu Mỹ”. Chú ý đến tác phẩm hơn là cuộc đời, chúng tôi sẽ theo trật tự thời gian trên những nét lớn, nhưng đồng thời có những tập hợp về thể loại để giúp nắm bắt đồng thời cả tính phức hợp cả sự nhất quán của công trình.   *** George Sand ưa nhấn mạnh sự kiện là do chính nguồn gốc gia đình mà bà thuộc về hai giới hết sức khác biệt. Giới quý tộc về bên nội, giới bình dân về bên ngoại. Vào thời kỳ hậu – cách mạng mà người ta mơ hòa giải xã hội, bà thấy nguồn gốc của mình như một biểu trưng cho sự liên kết các cực, cho phép bà thừa kế mọi tiềm năng của một  dân tộc. Amandine – Aurore – Lucile Dupin sinh ngày 12 tháng Messidor năm XII (1 tháng Bảy năm 1840) ở số nhà 15 (ngày nay là nhà số 46) phố Meslée hay Meslay, tại Paris.  Về bên nội, Aurore là dòng dõi của Maurice de Saxe, vị anh hùng trận Fontenoy và của nhiều chiến thắng khác, sau thành Thống chế nước Pháp. Ông có với Marie Rainteau một con gái ngoài giá thú: đó là bà nội của George Sand; được nuôi dạy tại nữ học hiệu Saint – Cyr, bà kết hôn với Louis Claude Dupin de Francueil, sáu mươi mốt tuổi khi bà hai mười chín, và sống với ông rất hạnh phúc, như sau này bà tâm sự với cháu gái. Xuất thân từ giới đại tài chính, ông qua đời trước Cách Mạng ba năm, để lại cho bà một gia sản khá lớn. năm 1793, bà tậu cơ ngơi Nohant, nhưng có bị giam giữ ít lâu dưới thời Khủng bố. Con trai bà, Maurice Dupin, sinh năm 1778, ước mơ vinh quang trong ngành quân sự và gia nhập đội Cộng Hoà. Anh lập công trong cuộc viễn chinh sang Ý, đặc biệt ở Marengo. Cũng ở bên ý, Maurice gặp Antoinette Sophie – Victoire Delaborde, bấy giờ đang là tình nhân của một chuẩn tướng. Nguồn gốc tầm thường, quá khứ hơi lộn xộn của thiếu phụ khiến Maurice giữ bí mật việc kết hôn tiến hành ngày 5 tháng Sáu năm 1804, một tháng trước khi George Sand tương lai chào đời. Sự nghiệp quân sự của Maurice Dupin tiếp tục cùng Đại quân: các cuộc viễn chinh sang Bavière, sang Phổ, sang Ba Lan và Tây ban Nha (ở đó Maurice là trợ lý cho hoàng thân Murat). Người vợ, lại có mang, sang Tây Ban Nha với chồng cùng cô bé Aurore 4 tuổi. Vậy là George Sand, cũng như Victor Hugo, có tuổi thơ in dấu của bản anh hùng ca Napoléon và của cuộc chiến khủng khiếp tại Tây Ban Nha. Những hình ảnh không thể nào quên đã khắc sâu vào ký ức những đứa trẻ còn rất non nớt về sau sẽ trở thành các đại văn hào lãng mạn chủ nghĩa. Cuối tháng 7 năm 1808, trở về Nohant, tiếp theo là hai biến cố đau thương: tháng 9, em trai George Sand chết, được một tháng tuổi, rồi đến người cha, vì ngã ngựa ở gần La Châtre. (vùng Creusse) Sau này nhà văn sẽ dành một phần lớn trong Truyện đời tôi để kể câu chuyện của cha mẹ, nhất là người cha? Sự hòa hợp các tầng lớp xã hội mà Sand mơ ước, bà đã cảm nhận những khó khăn ngay từ thời thơ ấu, và cảm nhận một cách đau đớn. Bà Daupin de Francueil, muốn đảm trách việc giáo dục cô bé, đã khiến người mẹ từ bỏ quyền giám hộ. George Sand tương lai sống thời thơ ấu ở Nohant, với các cuộc đến thăm ngắn ngủi của mẹ, và những khi bà nội nghỉ đông tại Paris thì cô bé gặp mẹ nhiều hơn. Cô bé thấy mình bị giằng xé giữa hai người thể coi là hai bà mẹ, cô yêu mến cả hai, nhưng cảm nhận được sự thù địch sâu xa giữa họ. Cho nên bộ tự truyện sau này sẽ bị lôi kéo bởi những nẻo đường khác nhau: lý tưởng hóa mối tình của bố mẹ, thiên tình sử bên Ý và sự ra đời của mình (“Ngày hôm ấy mẹ tôi mặc một tấm áo dài đẹp màu hồng, còn cha tôi đang chơi vĩ cầm Crémone của ông”, một truyện thần tiên), nhưng cũng diễn tả cả nỗi đau thực sự sau này của mình và biện hộ cho mẹ về việc hầu như bỏ rơi con, sự bỏ rơi có lẽ do ưu thế kinh tế của bà nội nhiều hơn là do điều mà Sand không thể hình dung nổi như thái độ thờ ơ. George Sand, nhìn chung thường ít gạch xóa bản thảo, để lộ niềm bối rối này qua cách viết đầy khăn khoăn dằn vặt ở những đoạn liên tưởng đến mẹ. Nhà văn cũng muốn, một cách hết sức công bằng, bộc bạch món nợ đối với người bà mà tính cách mạnh mẽ đã in dấu lên mình. Nhờ bà nội; George Sand được biết chế độ cũ, về mặt thời gian hãy còn rất gần, nhưng sự đứt đoạn là Cách mạng đã đột ngột đẩy lùi thật xa vào dĩ vãng. Ngoài ra, Nohant là chốn buông neo đích thực của Sand. Bà sẽ du hành, bà sẽ ở Paris, nhưng giống như Antée, bà luôn cảm thấy cần lấy lại sức mạnh từ mảnh đất của thời thơ ấu nơi mà sau này bà muốn sẽ là chốn yên nghỉ cuối cùng cho mình. Chính từ Nohant mà bà cảm thấy niềm say mê đối với miền quê và chính xác hơn là đối với miền Berry, sẽ là khung cảnh cho nhiều tiểu thuyết của bà. Cũng từ nơi đây mà bà có được sức khoẻ cường tráng ít khi suy giảm. Jean Louis François Deschartres, trước kia là gia sư của người cha, trở thành gia sư cho cô con gái, và sự đào tạo về trí tuệ của Aurore, mặc dù lộn xộn đôi chút, về tổng thể vững vàng hơn sự đào tạo mà đa số các cô gái thời đó được hấp thụ. Thư viện của bà nội, người từng quen biết Jean Jacques Rousseau, có nhiều sách, và cô bé thỏa mãn được niềm đam mê đọc sách sẽ bền vững nơi cô. Bà nội chơi phong cầm và hát; chính nhờ bà mà Sand có được cơ sở của một sự giáo dục về âm nhạc nghiêm chỉnh hơn sự giáo dục của rất nhiều nhà văn lãng mạn. Nhưng trong Truyện đời tôi, bà chú ý nhắc nhở rằng mẹ bà thuộc một gia đình bán chim, rằng con chim như một vật tổ của bà: bà nội, đó là âm nhạc bác học, mẹ, đó là âm nhạc của thiên nhiên, cả âm nhạc dân gian nữa; chúng ta sẽ gặp lâi hai phương diền này của lĩnh vực âm nhạc trong sáng tác của bà, và chúng ta sẽ thấy Consuelo hoà giải các phương diện đó ra sao. Mời các bạn đón đọc George Sand của tác giả Beatrice Didier.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà - Nguyễn Đức Thiện
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: .Viển vông quá phải không anh. Ngày mai em có thể chắng còn gặp anh nữa. Ngày mai có thể anh, có thể em sẽ là người của thiên cổ (Cũng sắp rồi còn gì). Ngày mai, có thể sẽ ngưng lại tất cả chấm dứt vòng quay trái đất… Thì em cũng cảm ơn anh đã trả cho em một chút tuổi trẻ. Cũng như anh đã từng cảm ơn em cho anh biết lại một thời nồng nàn. Chỉ nên thế thôi, cho ngày mai còn có mơ ước. Dẫu có muộn màng Đừng hôn em nữa, đủ rồi" NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHĨ: Nhưng không có sự đam mê của người thì sao? Ta sẽ đam mê một mình. Ta cứ mê ta. Một mình thôi, để chẳng làm phiền ai, và cũng chẳng ai làm phiền mình. Có vậy thì ta mới sống. Hãy cứ tin ở ta cái đã. NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: Nghe chuyện người ta đã khóc. Khóc vì một nỗi bất hạnh. Người đàn bà cô đơn, yêu cho đến chết một người không bản lĩnh. Giống như ta, đã một thời như thế. Người đàn ông ấy chỉ dám yêu mình không dám làm gì, chẳng dám vượt qua một chút trở ngại của cuộc đời. Họ sống hạnh phúc bên vợ và yêu hạnh phúc một người đàn bà khác. Họ lãng mạn và yếu hèn. Người đàn ông ấy hiền lành và không xứng đáng với một nửa trái tim ta. Bất chợt từ cõi lòng ta một nỗi chán chường đến kinh khủng, ta muốn từ bỏ hết thảy mọi người. Đừng ai yêu ta. Lũ đàn ông rồi sẽ phản bội. Ta thích một mình...)​ *** Bây giờ thì ông chỉ còn có một mình. Một mình trong căn nhà bé như cái hộp diêm quẹt. Bà ấy không đến, và ông cũng không đi tìm bà. Giữa hai người đã một lần, và chỉ có một lần bừng cuộn lên, nhưng rồi lại lắng xuống một hòn đá làm cho nó cuộn lên, nhưng khi những vòng tròn xoáy nước khép lại, thì mặt ao lại phẳng lặng như tờ. Lâu lâu có ngọn gió thổi qua, mặt ao dềnh lên chút ít nhưng cũng đủ gợn lên những con sóng, nhấp nhô, nhấp nhô. Ông thắp nhang lên bàn thờ. Mỗi ngày ông thắp một nén, loại nhang thơm. Không biết có khi nào ông có thể quên thắp nhang không. Nhưng đã thành quen rồi, đêm khi đi ngủ ông không thể thiếu mùi nhang toả ra từ trên bàn thờ. Có những lúc ông nghĩ, ông đang thắp nhang cho chính mình. Lại có lúc ông tưởng như thắp nhang cho một mối tình tưởng còn mà mất, tưởng mất mà còn và tưởng có mà không. Một đời người chỉ thế thôi ư. Ngày nào còn tươi trẻ là thế, nay đã nắng quá chiều hôm. Gắt gao đấy nhưng ngày đang tàn dần. Ông nhớ bà, nhưng hình như cái nhớ nó cũng khác ngày xưa khi còn trẻ. Khi còn trẻ, nhớ ai thì nhớ cồn cào, da diết và chỉ có nhớ người đó mà thôi. Nay nỗi nhớ cứ bị xen vào bởi những suy nghĩ khác. Nhớ mà chẳng đắm đuối chút nào. Nó cứ vẩn vẩn, vơ vơ, không như thời trai trẻ. Thèm gặp đấy nhưng rồi chợt nghĩ đến chuyện khác thế là lại quyên. Nhớ cũng vô tình mà nhớ, và quên cũng vô tình quên. Khi không lúc này mà còn gặp nhau. Trời sắp đặt đấy. Chớ cái tuổi ăn phải cái gì cưng cứng là phải trệu qua, trạo lại, mấy ai còn nghĩ đến chuyện yêu đương. Vây mà yêu đương mới lạ. Bữa đó, ông buồn, ông cô đơn. Đâu có phải đến khi đó ông mới buồn, mới cô đơn. Lần cuối cùng ông có gia đình cách nay đã hơn mười năm. Sau một cuộc cãi lộn vối người đàn bà mà ông để gần hết một đời người cung phụng, ông đã ra đi. Cuộc cãi lộn không lớn nhưng ông bị xúc phạm. Người ta biểu rằng ông chỉ là thứ người vô tích sự. Người ta biểu ông không lo toan được gì cho gia đình, cả một đời ăn bám. Ông đã ra đi sau một đêm trằn trọc. Và cuối cùng thì người ta ném vào mặt ông một câu: ông bây giờ thừa ra rồi. thì ông đi, ông tự cắt bỏ sự thừa thãi là mình, ra khỏi cái nơi một thời ông gắn bó, giống như người ta tự nguyện lên bàn mổ, cắt đi khúc ruột dư ra khỏi cơ thể mình. Không lẽ ngồi để mà kể ra với người đàn ông đã làm ra những cái gì cho gia đình tồn tại ngần ấy năm trời. Đi với hai bàn tay gần như trống trơn. Bạn bè chỉ cho ông một căn phòng nhỏ, vốn là nhà tập thể ở một cơ quan nào đó. Ông bỏ những đồng tiền cuối cùng để mua căn phòng và làm lại từ đầu trong căn phòng chỉ có mười sáu mét vuông kia. Làm lại từ đầu cho riêng mình thôi, chớ chẳng dại dột gì mà kháp với người đàn bà khác. Đàn bà họ có thế mạnh của họ. Thường trong những cuộc tình, lúc ban đầu thì quến rũ là của đàn ông, quyến rũ xong, quyền chủ động bắt đầu chuyển sang cho đàn bà. Người đàn bà muốn sờ mó đến từng công việc dù là rất nhỏ của của người đàn ông. Họ cho họ cái quyền như vậy. Anh đi đâu? Anh làm gì ở chỗ nào? Lương anh có bao nhiêu. Anh mang làm gì nhiều tiền trong túi thế? Sao người ta điện cho anh ngoài cơ quan mà không thấy, giờ đó anh làm gì ở đâu?… Hằng trăm câu hỏi mỗi ngày. Trả lời kiểu nào cũng không thoả mãn được người hỏi. Khi im đừng trả lời nữa cũng không được. Người ta sẽ biểu: làm sao tôi có thể sống được trong căn nhà cứ im lặng như nhà mồ thế này. Có người mong chế ra được một sợi chỉ vô hình, cột vào chân người đàn ông, để đàn ông đi đâu, đàn bà cũng có thể tìm thấy được nhờ sợi chỉ đó. Nên ông thề cuối đời ông sẽ ở một mình, nhất định là một mình, mấy đứa con gả vợ, dựng chồng hết rồi. Một lũ cháu nội ngoại lúc nào thích thì đến thăm ông, không thích thì thôi. Nhà cửa tài sản ông đã để lại hết, không đòi cho mình cái gì, từ chối luôn phần thừa kế, khiến ông chẳng còn nợ ai và cũng chẳng bắt ai phải nợ gì. Có người khuyên ông ly hôn để để tạo dựng cuộc sống khác, ông cười: ngần này tuổi rồi, đưa nhau rồi ra toà giống con nít bày đặt chuyện làm nư quá. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà của tác giả Nguyễn Đức Thiện.
Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.
Những Câu Chuyện Tâm Linh - Gary Zukav
Đây là một quyển sách tập hợp những câu chuyện có thật về hành trình khám phá nội tâm của tôi. Trong đó, đôi khi tôi dùng tên thật của những nhân vật, đôi khi tôi thay bằng những tên gọi khác. Có lúc tôi kể chuyện theo đúng như những gì đã xảy ra trong thực tế, và đôi khi tôi kết hợp nhiều câu chuyện lại làm một. Thi thoảng các câu chuyện không kể lại những sự việc đúng y như chúng xảy ra, nhưng các câu chuyện đó cũng là có thật. Người Lakota, một tộc người thổ dân châu Mỹ, truyền lưu câu chuyện về một phụ nữ cưỡi con nghé màu trắng. Bà là người đã cho bộ tộc của họ cái tẩu thiêng. Một ngày kia, có phóng viên hỏi một cụ già Lakota rằng cụ có tin câu chuyện về người phụ nữ kỳ lạ này là thật hay không. Cụ trả lời: - Tôi không biết nó có thật sự xảy ra đúng theo cách mọi người truyền tụng hay không, nhưng tự bản thân anh có thể hiểu là chuyện đó có thật. Và bạn cũng có thể nhận thấy tất cả những câu chuyện trong quyển sách này đều là thật. Bạn cần nhìn sâu vào bên trong tâm hồn mình để chứng thực điều đó. Mọi câu chuyện về linh hồn, từ quyển sách này hay bạn nghe được ở đâu đó, đều đòi hỏi bạn phải nhìn vào nội tâm mình để biết xem nó có thật hay không. Điều này có thể thật với người này, nhưng lại không thật đối với người khác. Đó là cách tiếp cận của quyển sách về Những câu chuyện tâm linh. Chẳng hạn, có người cho rằng Vũ Trụ ở trạng thái chết, “trơ ỳ” và mọi sự việc trong cuộc sống đều xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng người khác, trong đó có tôi, lại nghĩ Vũ Trụ rất sống động, thông thái và đầy lòng trắc ẩn. Nhìn nhận Vũ Trụ chết là một câu chuyện. Nhìn nhận Vũ Trụ sống động lại là một câu chuyện khác. Vậy thì theo bạn, câu chuyện nào là có thật? Chính bạn phải quyết định điều đó. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này đều mang đến cho bạn cơ hội để quyết định xem nó có là thật đối với bạn hay không. Cụ già người Lakota nói rằng chính bản thân bạn có thể tự suy xét xem khi nào một câu chuyện là thật, nhưng trước khi suy xét, bạn phải biết về câu chuyện đó trước đã. Có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về nó và, thậm chí quan trọng hơn, khám phá xem bạn cảm nhận gì về nó. Bạn có thể đọc tất cả những câu chuyện này trong vài ngày, theo thứ tự, hoặc chọn đọc từng câu chuyện riêng rẽ tùy thích. Vì có tới năm mươi hai câu chuyện, cho nên bạn có thể đọc mỗi tuần một câu chuyện và dành ra thời gian để ngẫm nghĩ về nó. Ngay cả nếu bạn đọc hết tất cả chỉ trong một ngày, bạn vẫn có thể đọc lại chúng, mỗi tuần một câu chuyện chẳng hạn, để có thêm thời gian suy ngẫm về từng câu chuyện. Tôi yêu thích Những câu chuyện tâm linh. Đối với tôi, bất kỳ câu chuyện nào khiến tôi hiểu rõ giá trị bản thân và giá trị của bạn, cũng như khiến tôi hạnh phúc khi biết rằng tất cả chúng ta cùng tồn tại bên nhau kể cả khi mọi việc trở nên khó khăn, thì tất thảy đều là Những câu chuyện tâm linh. Bất kỳ câu chuyện nào giúp tôi quý trọng Trái Đất và nhìn nhận Trái Đất như một Người Bạn Lớn, cũng là Những câu chuyện tâm linh. Tôi hạnh phúc khi chia sẻ Những câu chuyện tâm linh này với các bạn. Mời các bạn đón đọc Những Câu Chuyện Tâm Linh của tác giả Gary Zukav.
Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh
Bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp...được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng. *** Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407. Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép: ...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ... *** Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn của Thăng Long. Nó được cừ hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau này nho hoá bỏ mất.  Sách cổ chép rằng vua Lý Thái Tông, thủa còn là thái tử, phụng mạng vua cha đi đánh Chiêm Thành, năm Canh Thân (1020), khi đến vùng Đan Nê, An Định, Thanh Hoá, đóng quân dưới chân một quả núi. Canh ba đêm ấy, trong cõi mộng mung lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc áo giáp, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đem quân đi dẹp giặc phương Nam, tôi xin theo giúp phá giặc, để lập chút công nhỏ”. Thái từ cả mừng vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Sau đó tiến quân đánh chiếm quả nhiên toàn thắng. Khi trở về qua núi Đồng cổ, thái tử sửa sang lễ tạ rồi rước thần vị về kinh đô Thăng Long. để giữ dân, hộ nước. Đền thờ lập sau chùa Thánh Thọ, thuộc địa phận thôn Đông, phường Yên Thái (làng Bưởi).  Khi Lý Thái Tổ chết, thái tử lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tôn. Đêm nằm mộng thấy thần Đồng Cổ đến báo rằng: “Ba vị em vua là Vũ Đức Vương, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương âm mưu làm phản”. Lúc vua tỉnh dậy. Sai Lê Phụng Hiểu dàn quân bố trí phòng bị. Sự việc xảy ra quả đúng như giấc mộng. Loạn ba vương được dẹp tan. Đến đây, vua xuống chiếu xây đàn thề ở miếu Đồng Cổ, và hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư thì trăm quan hội họp làm lễ ăn thề.  Năm nay, ông vua già Trần Nghệ Tông cho mở hội thề to hơn mọi năm. Tháng hai, viên quan coi việc tế lễ đã cho thợ đến sửa sang miếu thờ, cạo rêu, quét vôi, tô tượng, thay những câu đối cũ. xây dựng lại những chỗ đổ nát, sửa sang cây cối, trồng hoa, lát đường... và soát xét lại đồ tế khí. Đồ tế khí ở đây có hai thứ có thể gọi là linh vật của đất nước.  Thứ nhất là chiếc chuông chùa Yên Tử. Hồi vua Trần Thái Tôn bỏ nhà lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, quan thái sư Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên theo, cầu xin vua về cho hợp lòng dân. Việc đi tu của vua không thành. Khi vua chia tay, Phù vân quốc sư nghĩ phải có cái duyên hạnh ngộ lớn thì mới có một ông vua lên tận chốn núi cao hẻo lánh này để tìm Phật. Ông bảo nhà vua: “Trong núi không có Phật. Phật ở trong lòng người”. Tuy nhiên, để kỷ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy, phù vân quốc sư tặng nhà vua Đại Hồng Chung ở chùa Vân Yên đem về kinh đô.  - Tâu bệ hạ. Đây là chiếc chuông quý truyền mấy trăm năm suốt triều nhà Lý. Đại Hồng Chung ít khi dùng đến, chỉ dùng vào dịp đầu xuân. Mỗi năm khi chuông rung lên là mây mù ùn ùn kéo đến. Mây trắng che kín đầu Yên Từ. Chuông gọi mây xong lại gọi mưa. Khi hồi chuông dồn dập binh boong ngân nga lần thứ hai thì những hạt nước li ti nằm trong mây sữa run rẩy, rồi chúng bay lượn quấn quít với nhau và thành những hạt to rơi xuống. Mưa rào. Đó là phật lộ. Mong rằng tiếng chuông của đức Phật từ bi được vang lên trên kinh thành Thăng Long. Mong rằng nước mưa của Phật từ bi sẽ nhuần thấm trong lòng người dân kinh kỳ.  Chiếc chuông Yên Tử đem về được treo ở chùa Thánh Thọ. Mấy năm trước, nhà sư Phạm Sư Ôn tập họp dân lưu tán đói khát nổi loạn. Giặc thày chùa kéo về kinh thành Thăng Long đốt phá. Ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tôn và cả hoàng gia phải rời kinh đô đi lánh nạn. Đội cấm quân phía hữu kinh thành đóng binh ở chùa Thánh Thọ. Đội quân này đã gây cho quân nổi loạn nhiều thiệt hại. Tức giận, toán giặc thày chùa đã tàn phá, đốt trụi khu chùa thắng cảnh đẹp nhất Thăng Long. Cũng may khi giặc rút, nhân dân đã chữa cháy, cứu được tháp chuông. Giặc thày chùa mà lại đốt chùa. Ông vua già thở dài, và chẳng lẽ để chiếc chuông linh thiêng nằm chơ vơ giữa hoang phế, nên ông đã sai mang chuông đến đền Đồng Cổ.  ... Mời các bạn đón đọc Hồ Quý Ly của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.