Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Đổ Lỗi

Khi tôi đi làm được vài năm, một “đàn anh” thân thiết của tôi trong công ty có khuyên: để tồn tại và phát triển được trong môi trường công sở, cần phải biết và dùng 4 “chiêu”. Đó là “ngậm máu phun người, ném đá giấu tay, thượng đội hạ đạp, mềm nắn rắn buông.” Anh ta còn đưa ví dụ cụ thể để tôi hình dung được trong bối cảnh nào thì nên dùng “chiêu” nào, và nhắc tôi nên phối hợp nhuần nhuyễn cả 4 “chiêu”. Anh càng diễn giải thì tôi càng thấy khôi hài và đương nhiên cho rằng đó là câu chuyện phiếm, “mang tính chất giải lao” thôi. Hồi đó, tôi chưa ý thức được như thế nào là chính trị doanh nghiệp. Nhưng qua một thời gian làm việc dài hơn, tôi để ý rằng dường như các chiêu thức nói trên xuất hiện rất thường xuyên nơi công sở, nhất là “ngậm máu phun người” và “thượng đội hạ đạp”. Hóa ra, người đồng nghiệp “đàn anh” của tôi nói có lý. Để giải quyết các vấn đề trong quan hệ công việc và xa hơn nữa là chính trị doanh nghiệp, người ta sẵn sàng đổ lỗi cho người khác, một cách công khai hoặc ngấm ngầm. Song song với trò đổ lỗi là lối hành xử tranh giành thành tích và phủ nhận năng lực của người khác. Tất cả đều nhằm duy trì và đánh bóng thương hiệu cá nhân. Tôi chắc rằng những ai làm việc nơi công sở cũng đều có các trải nghiệm này, trực tiếp hoặc gián tiếp, theo một mức độ nào đó. Quyển sách Trò đổ lỗi của Ben Dattner và Darren Dahl trình bày toàn diện các khía cạnh của trò đổ lỗi và việc công nhận thành tích/ năng lực nơi công sở, đồng thời hướng dẫn độc giả hình thành các phương pháp tiếp cận hiệu quả đối với các vấn đề này. Bạn đọc chắc hẳn sẽ thấy hình bóng của mình và các đồng nghiệp trong một số tình huống minh họa của sách, mặc dù phần lớn các tình huống này diễn ra trong môi trường làm việc tại Hoa Kỳ và châu Âu. Tôi cho rằng những quan điểm trình bày trong sách đều mang tính khoa học và hữu ích cho bạn đọc, dù đang là nhà quản lý hay là nhân viên thừa hành. Hy vọng rằng với những kiến thức trong sách này, bạn đọc sẽ khéo léo xử lý được những mối quan hệ nơi công sở, với thái độ công bằng và tử tế mà không cần phải dùng đến “4 chiêu” như trên. Nguyễn Phúc Hoàng  *** Trong tiểu thuyết Moby-Dick [1] , đối với thuyền trưởng Ahab thì những gì khiến người ta giận dữ và đau khổ nhất; những gì khuấy đảo sự tĩnh lặng; mọi sự thật hàm chứa ác ý; mọi thứ bẻ gẫy các nỗ lực và khiến cho bộ não con người tê cứng; mọi niềm tin rằng có ma quỷ trong cuộc sống và trong tư tưởng; tất cả mọi tội lỗi… đều được hiển thị rõ ràng và đều là những thứ có thể bị đánh bại trên thực tế. Vị thuyền trưởng này đã trút tất cả thịnh nộ và lòng căm thù mà loài người tích lũy được từ khi xuất hiện trên thế giới lên con cá voi trắng; và sau đó quyết tâm hạ sát nó từ sâu thẳm trái tim mình. Herman Melville, Moby-Dick   Chiếc máy bay đã im lặng thật đáng sợ sau khi va chạm với một bầy ngỗng trời: cả hai động cơ của máy bay đều hỏng. Đó là sự việc xảy ra ngày 15 tháng 1 năm 2009, máy bay của Hãng hàng không Hoa Kỳ đã gặp sự cố như trên sau khi vừa cất cánh rời sân bay LaGuardia, thành phố New York. [2] May mắn đối với toàn bộ hành khách và phi hành đoàn, người phi công chính của chuyến bay này không những có năng lực cao và đã được huấn luyện để tư duy dưới áp lực lớn, mà anh ta còn không cảm thấy sợ hãi hay sợ trách nhiệm khi ra quyết định. Cơ trưởng Chesley Burnett Sullenberger đã nhanh chóng nhận ra rằng: để cứu chiếc máy bay, hoặc phải quay lại và hạ cánh xuống sân bay LaGuardia hoặc phải đáp ngay xuống dòng sông Hudson – nơi gần nhất và không có chướng ngại vật. Đáp xuống mặt nước là cách tốt nhất để cứu mạng những người trên máy bay, nhưng chắc chắn sẽ làm hỏng máy bay. Cơ trưởng đã quyết định hạ cánh xuống dòng sông, tất cả hành khách và phi hành đoàn đều an toàn, chỉ có vài trường hợp bị thương nhẹ, và tin này được truyền đi khắp thế giới. Sau đó Sullenberger cho biết “Lúc đầu tôi đã lo lắng về việc mình sẽ bị những người giám sát và nhân viên điều tra “hỏi thăm” vì quyết định hạ cánh khẩn cấp này, nhưng tôi đã cân nhắc và không quan tâm đến chuyện đó nữa”. Mỗi chúng ta trong khi làm việc đều thích có được những quyết định mang tính tự quyết và anh hùng như trên. Nhưng rủi thay, rất nhiều người trong chúng ta lại nhận ra rằng bản thân mình đang làm việc cho các tổ chức hay những ông chủ chỉ biết đổ lỗi cho người khác khi có sự cố xảy ra, với lý do không chính đáng và thời điểm không phù hợp; điều này không những dẫn đến hậu quả là sự thất vọng, tức giận và cuối cùng là sự thiếu cam kết của chúng ta trong công việc mà còn khiến chúng ta im lặng hoặc không có hành động đúng đắn khi cần thiết phải hành động, vì chúng ta sợ bị trừng phạt. Tại nhiều cơ quan văn phòng, sự công nhận đã không được phân bổ phù hợp, khi một số người lại được công nhận năng lực và thành tích từ những đóng góp của chính chúng ta hoặc của những đồng nghiệp khác. Công bằng mà nói, họ không xứng đáng được công nhận, ngợi khen. Trong một cuộc họp, ai đó đã có một đề xuất nhưng bị phớt lờ, rồi sau đó vài phút một người khác cũng đề xuất y như vậy thì lại được hoan nghênh. Hoặc là tại một văn phòng, tất cả mọi người đều “lấn tuyến” chút đỉnh trong khi làm việc nhưng chỉ duy nhất có một người bị “thổi còi” và bị quy trách nhiệm vì đã làm việc kiểu này. Chúng ta có thể thấy ở khắp nơi: một CEO đổ lỗi cho người tiền nhiệm của mình khi công ty thất bại hoặc gặp khó khăn; một nhân viên được hoan nghênh với ý tưởng hoặc thành tích của người đồng nghiệp khác; một quan chức nhà nước cho rằng khoản tiền thuế chưa thu được là “sai lầm của khâu kế toán” hoặc một nhà quản lý của công ty dầu khí chỉ tay đổ thừa cho mọi tổ chức khác sau thảm họa tràn dầu. Hãy để ý bên ngoài cánh cửa văn phòng hoặc sau vách ngăn tại nơi bạn làm việc, bạn sẽ thấy các đồng nghiệp hoặc đang cố gắng thu thập những lời khen ngợi của bạn, của những người đồng cấp với bạn hay của các sếp dành cho những đóng góp chẳng có giá trị gì của họ; hoặc đang cố gắng chuyển hướng sự đổ lỗi – nhất là trong những giai đoạn khó khăn khi người ta sợ rằng chỉ một sai lầm duy nhất cũng có thể phải trả giá bằng chính công ăn việc làm của mình. Khi khách hàng không nhận được đơn hàng, lỗi không phải là do người nhân viên phụ trách vận tải, mà là do công ty dịch vụ giao nhận. Bạn cũng không thể quy trách nhiệm cho phòng Phát triển Sản phẩm vì kết quả hoạt động yếu kém – rõ ràng nguyên nhân là tại nhóm Sales. Khi nghe hai đồng nghiệp nói chuyện với nhau lúc đi đường hoặc cùng đi ăn, một người than phiền về công việc của mình, bạn sẽ nhận ra trong câu chuyện luôn luôn có sự trách móc vì người đó đã không được ghi nhận năng lực và thành tích một cách công bằng hoặc bị đổ lỗi oan, sau đó cảm thấy không được đánh giá cao và còn bị “làm khó”. Và trong khi các xu hướng đang thắng thế nơi công sở là: giành lấy sự ngợi khen không xứng đáng về mình và đẩy trách nhiệm sang những người khác; chúng còn khốc liệt hơn bao giờ hết khi trong giai đoạn tồi tệ: rủi ro cao, thời gian bị bó hẹp, cần có niềm tin, sự hợp tác và các phương pháp tiếp cận mới mẻ. Cách thức chúng ta quản lý sự công nhận và việc đỗ lỗi cũng mang tính lan truyền; nó có thể nhanh chóng lan tràn và ảnh hưởng rộng khắp trong nơi làm việc. Chẳng hạn, có lần tôi được một vị CEO của một doanh nghiệp trong ngành công nghệ cao mời đến tư vấn cho một khối chức năng ứng dụng khoa học hiện đại, đây cũng là nơi đã cầm chân nhiều nhà khoa học nổi tiếng thế giới và các nhà quản lý giàu kinh nghiệm trong vòng vây của trò đổ lỗi. Vị giám đốc khối trước kia đã ra đi để làm việc cho một doanh nghiệp mới thành lập khác, và những người ở lại phải đối mặt với sự thiếu hụt ngân sách khi cố gắng tuyển dụng người thay thế. Quá xa cách CEO và trụ sở chính của công ty, những người làm việc tại khối chức năng này cảm thấy bị cấp trên quên lãng và ngày càng lo lắng về việc khối sẽ bị xóa sổ hoặc bán cho công ty khác. Tuy nhiên, thay vì cố gắng cùng nhau làm việc và cùng hy sinh để gìn giữ công ăn việc làm, các nhà khoa học và những người quản lý tại đây lại đổ lỗi cho nhau về việc giám đốc cũ đã từ nhiệm và tình hình tài chính ngày càng xấu đi của khối. Ngay cả những ứng viên đến phỏng vấn vào vị trí giám đốc khối cũng nhìn thấy rõ điều đó. Hầu hết ứng viên đều quay lưng khi thấy một tổ chức có bầu không khí độc hại, trong đó các thành viên hằn học khi nói về nhau. Động cơ để giành được sự công nhận và đổ thừa trách nhiệm theo kiểu này còn làm cho cơn khủng hoảng tài chính của khối trở nên tệ hại hơn và mất nhiều thời gian hơn cho việc tuyển dụng giám đốc mới, khả năng hoàn thiện bản thân của mỗi thành viên rơi vào vòng xoáy trôn ốc theo chiều đi xuống và nỗi hoài nghi về sự tồn tại của khối là lớn hơn bao giờ hết. Là một nhà tâm lý học tổ chức, tôi đã tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ, hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, trong và ngoài lãnh thổ nước Mỹ. Mỗi khi điện thoại của tôi reo thì đó là lúc có một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức đang tìm kiếm sự hỗ trợ về vấn đề công nhận hoặc quy trách nhiệm. Cho dù khách hàng là vị CEO đang phân vân không hiểu tại sao nhóm quản lý của mình sa lầy vào chuyện đổ trách nhiệm và không làm việc nhịp nhàng với nhau, hoặc là một nhà phân tích tài chính của một quỹ đầu tư lo lắng rằng mình sẽ không nhận được một khoản tiền thưởng đủ lớn, thì đó cũng không phải là trường hợp duy nhất mà tôi tư vấn cho các khách hàng rằng sự công nhận và quy trách nhiệm là những điều quan trọng, nếu không muốn nói là then chốt nhất đối với các rắc rối như trên. Qua nhiều năm tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn và tư vấn ngay tại nơi làm việc cho Đài phát thanh Công cộng Quốc gia (National Public Radio), chuyên mục Buổi sáng, tôi đã học được một điều rằng “trò đổ thừa” – một tập hợp phức tạp của các nguyên tắc tư lợi và những nhu cầu đánh giá chủ quan có ảnh hưởng đến cách thức mà chúng ta quy trách nhiệm hay công nhận bản thân chúng ta và những người khác – là một yếu tố then chốt quyết định các mối quan hệ trong công việc: thân thiện và hợp tác hoặc khắc nghiệt và cố chấp. Các động cơ của sự công nhận và đổ lỗi – cụ thể là bản thân chúng ta có vượt qua được trò đổ thừa hoặc học được cách né tránh sức quyến rũ của nó hay không – cũng liên quan nhiều đến việc chúng ta rốt cục có thể thành công như thế nào. Trong phạm vi các nhóm, sự công nhận và đổ thừa có thể quyết định việc các “nạn nhân” có “bị lộ” và bị xử lý hay không, hay là khi có sai sót thì đó là trách nhiệm tập thể. Giữa các nhóm với nhau, động cơ của sự công nhận và đổ lỗi có thể giúp lý giải khi nào thì người ta hợp tác và tin cậy, hoặc khi nào thì các nhóm ngày càng cáo buộc lẫn nhau nhiều hơn. Cách thức công nhận hoặc quy trách nhiệm thậm chí còn quyết định việc liệu toàn bộ công ty đều có quan điểm rằng: cần phải quan tâm đến các thách thức và có hành động thích hợp; hay tất cả họ đều dùng “chiêu đổ thừa” và “dàn xếp tỷ số”. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về “sự trật đường ray trong công tác quản lý”, điều này diễn ra khi sự nghiệp của các nhà quản lý đi lệch khỏi quỹ đạo và khi đó hoặc là họ sẽ thất bại trong công việc hoặc không phát huy được tối đa tiềm năng của mình trong tổ chức. [3] Một khía cạnh thường thấy nhất trong số những nhà quản lý “trật đường ray” này là: bản thân họ không chọn lựa để tạm dừng quá trình phát triển của mình – thay vào đó, cách họ hành động đã dẫn đến hậu quả vô tình là sự rời bỏ tổ chức hay bị giáng chức. Chẳng hạn, một số nghiên cứu tại Trung tâm Lãnh đạo Sáng tạo (Center for Creative Leadership – CCL) đã cho thấy yếu tố chính trong nguyên nhân thất bại của các nhà quản lý này là sự yếu kém của họ trong việc quản lý các mối quan hệ: họ đã không công nhận, hoan nghênh một cách thích hợp những người mà họ trông cậy trong công việc, nhưng lại đổ thừa cho một số người khác vì những thiếu sót của chính mình. [4] Như những nội dung được trình bày chi tiết hơn trong Chương 6, chúng ta sẽ thấy cách thức mà các nhà quản lý tiến hành việc khen ngợi, công nhận hoặc quy trách nhiệm cũng có thể là một yếu tố then chốt quyết định đến sự thành bại trong sự nghiệp của họ. Cũng như vậy, Howard Tennen và Glenn Affleck đến từ đại học Y khoa Connecticut, khoa Tâm thần học, cũng đã phân tích các kết quả thu được từ 22 nghiên cứu về ảnh hưởng của việc đổ lỗi cho người khác. [5] Có đến 77% trường hợp trong các nghiên cứu này cho thấy khi đổ lỗi cho người khác thì bản thân người đổ lỗi cũng chẳng cảm thấy dễ chịu chút nào, cả về tinh thần lẫn thể chất. Trong 23% còn lại, người đổ lỗi không có bất cứ lợi ích nào, bất kể người bị đổ lỗi là vợ/chồng, là bác sĩ của họ hay một người xa lạ nào khác. Nói cách khác, các nghiên cứu trên cho thấy sự đổ lỗi chẳng mang lại hiệu quả gì tốt đẹp cả, và còn có nhiều khả năng gây ra tác hại. Nghiên cứu này cho thấy thêm bằng chứng rằng bất chấp nét hấp dẫn trước mắt của trò đổ lỗi, cách hành xử này không giúp gì cho người đổ lỗi và trong dài hạn còn có thể khiến anh ta/cô ta phải trả giá. Một ví dụ có liên quan khác: nhà tâm thần học George Vaillant của trường Y khoa Harvard đã tiến hành nghiên cứu và cho thấy rằng những người quy trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho người khác khi họ gặp xui xẻo cũng chính là những người rất kém năng lực trong việc điều chỉnh mình trước các biến cố, biến động trong cuộc sống. Vaillant đã viết “rất khó có thể tranh luận với những người không thừa nhận trách nhiệm về mình”, [6] và ông đặt tên cho xu hướng này là sự phòng thủ của người chưa trưởng thành, bởi vì sự phủ nhận hoặc “phòng thủ tới cùng” chỉ thường thấy ở trẻ em hoặc thiếu niên. Một nghiên cứu khác của bác sĩ tâm thần Leslie Phillips tại bệnh viện Worcester lại cho thấy: khi người ta càng sa đà vào trò đổ lỗi cho người khác mỗi khi gặp rắc rối, thì họ lại càng trở nên khó khăn hơn khi đối mặt với cuộc sống nói chung. [7] Nói cách khác, những người đổ lỗi cho người khác, suy cho cùng, phải trả giá đắt cho hành động này. Lần đầu tiên tôi tìm hiểu về tầm quan trọng của sự công nhận và quy kết trách nhiệm là khi tôi làm việc cho ngân hàng Republic National Bank of New York trong 3 năm, lúc đầu là quản trị viên tập sự và sau đó là trợ lý cho CEO. Khi được luân chuyển qua nhiều phòng ban trong ngân hàng, tôi vẫn nhớ là mình đã rất quan tâm về việc ai được công nhận thành tích và năng lực khi công việc tốt đẹp, và ai bị quy trách nhiệm khi có trục trặc. Một ngày kia, tôi để ý thấy một đồng nghiệp đã gắn mẩu giấy nhỏ lên tường, trên đó ghi: “Sáu giai đoạn của một dự án: 1. Nhiệt tình 2. Vỡ mộng 3. Hoảng sợ 4. Truy tìm thủ phạm 5. Trừng phạt người vô tội 6. Khen thưởng những người không liên quan”. Mặc dù đã nghiên cứu nhiều lý thuyết hàn lâm chính thống về nhóm và sự phát triển nhóm từ sau khi nhìn thấy mẩu giấy này, tôi cũng chưa tìm thấy một sự miêu tả nào chính xác hơn nội dung trên. Nó cho thấy hầu hết các kịch bản đã diễn ra như thế nào tại nơi công sở. Không may là trong rất nhiều tổ chức, các quy trình khen thưởng và quy trách nhiệm vừa bất công vừa tai hại đã ấn định ai được khen, ai bị phạt theo cách thức hoàn toàn không tương quan với tài năng hoặc hiệu quả làm việc. Sức sáng tạo và việc chấp nhận rủi ro một cách hợp lý đã bị bóp nghẹt, con người không cảm thấy tự tin để ra các quyết định cứng rắn cần thiết. Nếu người phi công phụ cảm thấy sợ chuyện sẽ bị phi công chính đổ lỗi vì bất tuân lệnh, anh ta sẽ không có ý kiến gì ngay cả khi máy bay hết nhiên liệu hoặc máy bay sắp đến gần một ngọn núi. Khi người ta quá lo sợ rằng mình sẽ bị quy trách nhiệm khi thử nghiệm những cái mới trong sự nghiệp, người ta không thể vạch ra một con đường mới hoặc có những đóng góp mang tính đột phá. Nếu một nhóm quá quan tâm đến việc biện minh cho hiệu quả làm việc (thay vì cải tiến nó), nhóm sẽ phải dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm ra ai đó hoặc cái gì đó để mà đổ lỗi khi có vấn đề phát sinh (thay vì cố tìm cách giải quyết vấn đề). *** Ben Dattner là người sáng lập nên Dattner Consulting, một công ty tư vấn về môi trường làm việc hỗ trợ các doanh nghiệp và những tổ chức phi lợi nhuận giải quyết các vấn đề liên quan đến sự công nhận và đổ lỗi nhằm củng cố hiệu quả hoạt động của cá nhân, đội nhóm và toàn bộ tổ chức. Các khách hàng của ông bao gồm nhiều công ty, từ mới thành lập với quy mô nhỏ đến những tập đoàn toàn cầu, các tổ chức giáo dục và phi lợi nhuận, luôn cả các cơ quan của chính phủ. Dattner cũng là một giáo sư trợ giảng tại Đại học New York trong môn Phát triển Tổ chức trong các ngành công nghiệp và chương trình cao học (môn Tâm lý học Tổ chức). Ông còn giảng dạy về Chiến lược Quản lý Sự nghiệp trong chương trình MBA dành cho nhà quản lý của trường kinh doanh Stern NYU. Ben nhận bằng Cử nhân Tâm lý học từ đại học Harvard và sau đó là Thạc sĩ rồi Tiến sĩ trong ngành Tâm lý học ngành nghề và tổ chức của đại học New York. Ông sống tại thành phố New York và trang web của ông là www.dattnerconsulting.com.   Darren Dahl là đồng tác giả và là nhà biên tập cho nhiều tác giả tên tuổi, bao gồm Keith McFarland trong cuốn The Breakthrough Company (tạm dịch: Công ty đột phá, bán chạy nhất theo nhận định của các tờ New York Times , Wall Street Journal , và USA Today ), và các chuyên gia về sở hữu tài sản trí tuệ Mark Blaxill và Ralph Eckardt trong cuốn The Invisible Edge (tạm dịch Lợi thế vô hình, được cho là quyển sách bàn về chiến lược bán chạy nhất trong năm 2009 theo nhận xét của Strategy Business). Dahl cũng là nhà biên tập cộng tác cho tờ tạp chí Inc. , từ năm 2004. Ông còn viết cho tờ New York Times và AOL Small Business. Dahl hiện sống tại Asheville, NC.   Mời các bạn đón đọc Trò Đổ Lỗi của tác giả Ben Dattner & Darren Dahl.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ông Chủ Nghèo Khó Hay Nhân Viên Giàu Có?
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Chủ Nghèo Khó Hay Nhân Viên Giàu Có? của tác giả James Altucher. Có 100 triệu người làm thuê khắp nước Mỹ, 3 tỷ người làm thuê trên toàn thế giới, và 85% tỷ lệ khởi nghiệp thất bại. Những con số thực sự đang ở mức báo động và khiến cho mọi người nhất là giới trẻ đang chuẩn bị khởi nghiệp vô cùng quang ngại. Nhưng nếu ta cứ mãi lo ngại mà không dám thử sức thì chắc chắn tuổi trẻ của bạn sẽ trôi qua một cách vô cùng lãng phí. Chúng ta đều được bình đẳng trong lưa chọn, làm những điều mình muốn, mang nguồn năng lượng của mình đến với thế giới này. Cuốn sách “The Rich Employee – Ông chủ nghèo khó hay nhân viên nghèo khó” là cẩm nang hóa giải những nỗi âu lo đấy cho các nhà quản lý, nhân viên, cho chủ doanh nghiệp. Chúng ta được lớn lên cùng nền kinh tế công nghiệp và kinh tế tri thức. Nhưng công nghiệp đang chuyển sang thuê làm bên ngoài:  Những vùng quê nền công nghiệp sẽ chuyển sang rô bốt. Những máy in Gutenberg sẽ thay cho những tu sĩ trong các tu viện  Con ngựa nhường chỗ cho xe hơi Đầu ghi hình nhường chỗ cho video phát trực tiếp Hiệu sách nhường chỗ cho Amazon. … Thật sự đáng tiếc về những việc đang xảy ra xung quanh chúng ta nhung ta cũng không thể làm gì vì rõ ràng rằng những công cụ hiện đại này quả thực hữu ích và dần dần trở nên cần thiết. Để có thể sống sót và tiến lên cùng nền kinh tế phát triển hiện giờ bạn cần nắm trong tay công cụ chuẩn xác. Đó chính là trở thành “nhân viên giàu có”.  NGUYÊN TẮC CƠ BẢN Sức khỏe thể chất: “Ăn uống tử tế. Di chuyển tử tế hơn. Ngủ tử tế hơn.” Sức khỏe cảm xúc: “Dành thêm thời gian với nhửng người bạn yêu thương và thương yêu bạn.” Sức khỏe trí não : rèn luyện não bộ hàng ngày đồng nghĩa với việc bạn không “nghèo khó” Sức khỏe tinh thần: Michelangelo đã nói, mỗi tảng đá lớn đều chứa đựng trong đó một bức tượng.  Mỗi ngày hãy áp dụng nguyên tắc này. Có thể ngày hôm nay sẽ không tốt đẹp hơn ngày trước đó, cũng có thể giống như ngày hôm qua nhưng một thời gian bạn sẽ cảm thấy được điều kỳ diệu mà James Altucher đã nhận được. BẮT ĐẦU CON ĐƯỜNG TRỞ THÀNH MỘT NHÂN VIÊN GIÀU CÓ TỪ CHÍNH NƠI BẠN ĐANG ĐỨNG Vậy việc mà một nhân viên giàu có sẽ làm nếu Bạn vừa mới được tuyển hôm nay Bạn vừa bị sa thải hôm nay Tại sao ta phải gắn bó với một công việc đáng chán trong một khoảng thời gian. Hãy cùng bắt đầu nào. 10 Điều một nhân viên giàu có sẽ làm nếu được tuyển dụng hôm nay Nguyên tắc 1: YÊU SẢN PHẨM Nguyên tắc 2: HIỂU RÕ LỊCH SỬ Nguyên tắc 3: NẮM RÕ LAI LỊCH CỦA CÁC NHÂN VẬT ĐỨNG ĐẨU Nguyên tắc 4: LÀM RẠNG RỠ CHO XẾP Nguyên tắc 5: QUEN BIẾT MỌI THƯ KÝ Nguyên tắc 6: KIỂM CHỨNG GIÁ TRỊ CỦA BẠN Nguyên tắc 7: NGHIỀN NGẪM CÁC CHIẾN DỊCH MARKETING Nguyên tắc 8: TÌM HIỂU TOÀN BỘ NGÀNH CỦA MÌNH Nguyên tắc 9: TRỞ THÀNH CHÍNH CÔNG TY Nguyên tắc 10: RỜI BỎ 10 lý do nhân viên giàu có sẽ ở lại với công việc của mình: ngay lúc này… Mức lương ổn định Tình bạn Cơ hội thăng chức Tiền giả Tôn trọng Bạn có đủ điều kiện để lập một kế hoạch ma quỷ Làm một người làm thuê kiêm làm chủ Xả hơi mùa hè Bạn được đổi việc Tại sao phải trở thành một nhân viên giàu có? Thứ nhất, không ai nhớ bạn đã từng giúp đỡ họ ra sao. Và bạn không thể cứu bất kỳ ai. Thứ hai, ta chưa từng sở hữu thứ gì vì luôn có nhiều thứ vây quanh. Thứ ba, để tiền nong kiểm soát những người liên quan đến mình.  Quan trọng hơn hết là sự tự do. Hãy nỗ lực để giành lấy tự do cho mình. Chớ làm nô lê và hãy làm chủ bản thân và mọi thứ xung quanh. Làm thế nào để trở thành ông chủ hoặc chí ít là nhân viên giàu có thông minh nhất trong phòng Bạn sẽ lắng nghe và học hỏi từ mọi người xung quanh Khi bạn đã nghe xong, hãy lắng nghe cả sự im lặng Giờ thị họ đã nói xong, hãy hỏi thêm ít nhất một câu nữa Trí thông minh hòa trộn theo cấp số mũ. Đó là “Hiệu ứng mạng lưới” Khiêm nhường Tâm thế nhân viên giàu có và nhân viên nghèo khó: cách suy nghĩ của một nhân viên giàu có.  Một nhân viên giàu có gắn chặt thành công tài chính của mình với thành công tài chính của công ty Nhân viên giàu có hứa quá lời và làm quá mức Nhân viên giàu có đi làm sớm Nhân viên giàu có rất trung thành Nhân viên giàu có không đàm tiếu Nhân viên giàu có tự hỏi vào cuối ngày: mình đã giúp đỡ những ai hôm nay? Nhân viên giàu có nhường công trạng cho sếp của mình Nhân viên giàu có tập trung vào sứ mệnh và lợi nhuận trong dài hạn Thông điệp là hàng đầu Nhân viên giàu có không ngừng tìm hiểu đối thủ, ngành của mình, và lịch sử. Nhân viên giàu có nảy ra ý tướng mỗi ngày và biết cách thực thi chúng Nhân viên giàu có xây dựng mối liên hệ sâu sắc hơn với nhân viên trong toàn công ty Nhân viên giàu có làm việc cho một công ty tạo điều kiện cho mọi thứ kể trên Nhân viên giàu có giúp nhân viên của mình thành công Khi bạn có thêm của cải, năng lực, trách nhiệm, các mối quan hệ và bất kể bạn có thăng tiến trong công việc đến đâu thì bạn cần phải trở thành nhà lãnh đạo giỏi. Hiện tại, có rất nhiều người viết về chủ đề lãnh đạo. Vậy tại sao họ lại viết những bài này? Quả thực có rất nhiều lý do nhưng một khi số lượng bài viết của bạn đủ nhiều và chất lượng thì chắc chắn sẽ có người chịu trả tiền cho bạn để dạy họ trở thành nhà lãnh đạo giỏi. Nhưng rất hiếm nhà lãnh đạo nào thành công.  NHỮNG PHẨM CHẤT CỦA MỘT LÃNH ĐẠO TỒI Không hiểu rõ nguyên tắc 30/150 Dưới 30 người. Tránh giao việc trực tiếp cho từng người.  Trên 30 người, nhưng dưới 150 người. Đảm bảo mọi người nói chuyện với nhau. Không có “tầm nhìn” Có tầm nhìn hạn chế. Lãnh đạo tồi không muốn bạn gọi điện cho mẹ Lãnh đạo tồi nói xấu khách hàng, nhân viên hoặc các cổ đông Lãnh đạo tồi không muốn bạn vượt họ Lãnh đạo tồi không nắm rõ những con số. Lãnh đạo tồi không loại bỏ những kẻ tệ hại Một lãnh đạo tồi thường có sức cuốn hút lớn Lãnh đạo tồi “phê thuốc” Lãnh đạo tồi là nhân viên tồi Nhân viên nghèo khó nghĩ như thế nào?  Làm việc vì lương bổng Làm việc đúng giờ hành chính Bàn tán đưa chuyện Hứa ít, có khi lại làm quá mức Không hiểu tầm nhìn Cố để giành công trạng Không có một kế hoạch xấu xa Nghĩ kiểu “Mình được gì?” Mất thời gian không ưa người khác vì họ vui vẻ Than phiền về khách hàng và đồng nghiệp Sử dụng những kẻ thuật công kích gay gắt để cố kiểm soát kết quả Không bao giờ đầu tư cho bản thân Dùng tiền để khoe khoang phô trương thay vì học những điều mới Không bao giờ đưa ra những ý tưởng xuất sắc Chỉ làm những gì cần thiết để duy trì đồng lương Đi làm đúng giờ hoặc đến muộn, tan sở sớm hết mức có thể Cáo ốm vào những ngày quan trọng Xáo tung giấy tờ để vờ đang làm việc Lướt internet hơn 50% thời gian cho những sở thích ca nhân Chỉ mong chóng đến cuối tuần và kỳ nghỉ Thường xuyên đời tăng lương mà không có công trạng gì Tạo ra bất đồng và gây khó dễ trong tập thể Thường xuyên căng thẳng Ghét công việc Làm thế nào để trở thành một nhân viên giàu có?  Đó là cả một quá trình rèn luyện.  Hãy thử áp dụng những nguyên tắc với một tinh thần kỷ luật cao cùng tâm thế  chuẩn bị vươn tới thành công nào. Buổi sáng diệu kỳ của nhân viên giàu có  Hal Elrod chết lâm sàng sau vụ tai nạn với xe tải. Sau khi tỉnh lại, bác sĩ bảo rằng có thể anh không thể đi lại bình thường được . Vũ trụ quả thật là một sự mâu thuẫn, mặc dù nó rộng lớn bao la nhung chúng ta vẫn  không thể thoát ra, Einstein từng nói : “Chúa không hề tung xúc xắc” nhưng mọi thứ đều khôn lường. Và chúng ta sẽ không thể hiểu nổi sự mâu thuẫn ấy. Hal không hề chống cự với những gì vũ trụ đã tạo ra.Anh nghiền vụn nỗi sợ hãi và đau đớn, biến chúng thành kim cương mà anh vẫn hay gọi chúng là “buổi sáng diệu kỳ” mà anh gom nhặt để tự cứu cuộc đời mình. 15 năm sau vụ tai nạn năm ấy, Hal trở thành một người cha, điều hành một cơ nghiệp thành công và là  tác giả của cuốn sách bán chạy nhất với nhan đề The Miracle Morning. Hãy thực hiện bài tập này thường xuyên: cố gắng cải thiện mỗi ngày 1% cả về sức khỏe thể chất, cảm xúc, trí tuệ và tinh thần. “Buổi sáng hôm nay tôi sẵn sàng để chết. Và buổi sáng hôm nay là cách tôi sẽ sống đời mình.” Chiến lược buổi sáng kỳ diệu của Hal Elrod  Hãy ghi nhớ phép đảo ngữ S-A-V-E-R-S với ý nghĩa: “S” – Silence ( tĩnh lặng ) “A” – Affirmations ( quả quyết ) “V” – Visualization ( hình dung) “E” – Exercise ( luyện tập ) “R” – Reading ( đọc ) “S” – Scribing (ghi chép ) Nhân viên giàu có tạo ra việc làm thêm như thế nào ? Nhiều người tạo dựng được công việc làm thêm thành công mang lại nhiều nguồn thu nhập cho họ. Trong những người thành công ấy phải kể đến Mimi và Alex. Mimi quay các đoạn video truyền tải giá trị đích thực đến mọi người và kiếm hơn một triệu đô la mỗi năm nhờ những video này. CẢM XÚC: “Bất cứ lúc nào có những cảm xúc mạnh mẽ điều gì đó, bạn biết nơi ấy có một cơ hội.” TRỤC BÁNH VÀ NAN HOA: Mimi thích sáng tác video nhưng cũng cần lượt truy cập. Do đó họ đã thực hiện kỹ thuật gồm ba bước: Yêu thương Lan tỏa yêu thương Tạo thêm nhiều yêu thương 1000 NGƯỜI: 1000 có thể là con số đúng đắn mà nhiều người tập trung vào. Những giá trị được truyền tải đến 1000 người, rồi họ sẽ kể với 2 người bạn, và cứ thế con số một phần tư người xem, năm cuốn sách bán chạy nhất,… sẽ không còn xa. MUA RẺ, BÁN ĐẮT: Tại sao mọi người lại đến các cửa hàng và mua những sản phẩm tên tuổi với giá 100 đô la nhưng giá thực sự chỉ có 5 đô la. Khoảng cách đó lấp dầy bởi quảng cáo. Mỗi ngày chúng ta ngập giữa 2500 thông điệp quảng cáo. Tiền sinh ra vì nó mang lại hiệu quả. Nó khiến mọi người mua sắm nhiều hơn bình thường. BÁN MỀM: QVC-A: Vết tắt của từ: Q – Quality ( Chất lượng ) V – Value ( Giá trị ) C – Consistency ( Nhất quán ) A – Authenticity ( Đáng tin cậy ) BỚT ĐI Kiếm tiền không có gì sai, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ của cuộc sống thoải mái, trắc ẩn và tĩnh tại mà thôi. Nhân viên giàu có xử trí ra sao khi người khác ganh tị và xứ tệ họ ? Sống cuộc đời như là ngày cuối cùng của bạn Chuyện này, rồi sẽ qua thôi Chỉ là mớ bòng bong cảm xúc Nuôi dưỡng một tầm nhìn Hài kịch Những thói quen của nhân viên giàu có vững tinh thần Các mối quan hệ Thành thực Cốt yếu không phải ở tôi, mà ở anh Đọc Sức khỏe Óc hiếu kỳ Học, nói ra, nhắc lại Cơ bắp ý tưởng Cho phép Cho phép bản thân làm những điều mình chưa từng làm, cho phép bản thân đưa ra những ý tưởng tệ hại, cho phép bản thân liều lĩnh với danh tiếng và miệng lưỡi chộc ngoáy của người đời, cho phép bản thân trượt ngã và đứng dậy,… Nếu bạn không cho phép bản thân tạo ra thế giới của riêng bạn, thì sẽ chẳng ai cho phép bạn đâu. Hiện tại Âu lo, hối hận không thể giải quyết được vấn đề của ngày mai mà chỉ lãng phí năng lượng hôm nay. Hiện tại sẽ giải quyết những vấn đời ngay thời điểm đó. Những người vững lòng tin, yêu thương mọi người , thành thật,.. thế giới của họ sẽ thật tốt lành. Cuộc đời thoáng chốc đã khác rồi Kinh nghiệm giá trị hơn vật chất Lắng nghe Giả định rằng ngày mai thôi tất cả sẽ qua đời Chính trị, tin tức, chính phủ hko6ng hề quan trọng. Quy tắc 5 nhân 5 Bạn là trung bình cộng của 5 người bạn dành thời gian cùng Bạn là trung bình cộng của 5 suy nghĩ bạn thường có Bạn là trung bình cộng cảu 5 loại thực phẩm bạn ăn Bạn là trung bình cộng của 5 điều bạn thấy biết ơn nhất Bạn là trung bình cộng của 5 điều bạn đọc hôm nay. Tự chủ Ăn uống, ngủ nghỉ, vận động Những thói quen của nhân viên nghèo khó Nhân viên nghèo khó có quan điểm: Hãy làm những gì bạn muốn làm ngay hôm nay và cách bạn giải quyết vấn đề của thế giới là hãy giải quyết vấn đề của bản thân. Nhân viên nghèo khó phải có điều gì đó đặc biệt để họ thực hiện Nhân viên nghèo khó nói rất nhiều Nhân viên nghèo có không có sự nghiệp Nhân viên nghèo khó nghĩ rằng phải có X thì mới đạt được Y Nhân viên nghèo khó nghĩ: Nếu ta không làm việc này, những điều tồi tệ sẽ xảy ra Nhân viên nghèo khó nghĩ “Mình không thể rời bỏ” Nhân viên nghèo khó nghĩ rằng họ phải bảo vệ quan điểm cảu mình Nhân viên giàu có học hỏi như thế nào? Nhân viên giàu có luôn luôn học hỏi: nhưng học như thế nào? + Say mê + Đọc + Hãy thử đi nhưng đừng quá cố gắng + Tìm một giáo viên + Nghiền ngẫm lịch sử, xem xét hiện tại + Thực hiện những dự án đơn giản trước + Nghiền ngẫm những gì bạn đã làm + Bạn là trung bình cộng cảu năm người quanh bạn + Làm đi làm lại thật nhiều + Tìm ra lế hoạch xấu xa của bạn Là một nhân viên giàu có, làm sao tôi biết mình có nên nhận việc trong một công ty khởi nghiệp? Hãy xem xét: Liệu vị CEO đã gây dựng doanh nghiệp nào trước đó chưa? Công ty có nguồn vốn huy động tốt không ? + Có đủ tiền để duy trì ít nhất một năm + “Nguồn huy động vốn tốt” + Bạn có tin vào tầm nhìn không? Các nguồn tài nguyên cho nhân viên giàu có Tạo lập một nhóm họp “lựa chọn chính mình” tại nơi ở của bạn Hãy nhớ rằng, một cuộc họi họp thường với số lượng người tham gia khá lớn. Vì thế, bạn cần chia nhỏ số lượng người ra để cuộc họp có hiệu quả. Thêm một gợi ý là bạn có thể bắt đầu bằng những cuộc gặp mặt kéo dài chừng 1 tiếng hoặc 1 tiếng rưỡi. Hãy bắt đầu đúng thời điểm, đừng muộn nhé vì đó là cách bạn tôn trọng thời gian của tất cả mọi người. Tóm lại, bạn là nhân viên hay ông chủ không quan trọng. Quan trọng là bạn tìm được ý nghĩa của cuộc đời. Lựa chọn chính mình là con đường của những chiến binh, rất khó để duy trì một cách thường nhật. Nhưng nếu thành công, không chỉ cuộc đời bạn thay đổi mà còn thay đổi cuộc sống của những người xung quanh bạn.   Tác giả: Anh Thi - Bookademy *** Tóm tắt Cuốn sách "The Rich Employee - Ông Chủ Nghèo Khó Hay Nhân Viên Giàu Có" của tác giả James Altucher đề cập đến một khái niệm mới về sự thành công trong thế giới hiện đại, đó là "nhân viên giàu có". Một nhân viên giàu có là người có thể đạt được sự tự do tài chính, tự do cá nhân và sự thỏa mãn trong công việc, ngay cả khi họ đang làm thuê cho một công ty khác. Cuốn sách được chia thành 10 phần, mỗi phần tập trung vào một khía cạnh khác nhau của việc trở thành một nhân viên giàu có. Các phần chính của cuốn sách bao gồm: Phần 1: Thói quen của một nhân viên giàu có Phần 2: Làm thế nào để trở thành một nhân viên giàu có Phần 3: Chiến lược buổi sáng kỳ diệu Phần 4: Cách tạo ra việc làm thêm Phần 5: Cách xử lý khi bị người khác ganh tị và ghét bỏ Phần 6: Những thói quen của nhân viên giàu có vững tinh thần Phần 7: Cách nhân viên giàu có học hỏi Phần 8: Làm thế nào để biết liệu bạn có nên nhận việc trong một công ty khởi nghiệp hay không Phần 9: Các nguồn tài nguyên cho nhân viên giàu có Review Cuốn sách "The Rich Employee" là một cuốn sách thú vị và đầy cảm hứng. James Altucher đã đưa ra một cái nhìn mới về sự thành công trong thế giới hiện đại, và ông đã cung cấp cho người đọc những lời khuyên thực tế và hữu ích để đạt được sự thành công đó. Cuốn sách được viết một cách dễ hiểu và dễ theo dõi. Altucher đã sử dụng những câu chuyện và ví dụ thực tế để minh họa cho những điểm mà ông muốn truyền tải. Một số điểm nổi bật của cuốn sách bao gồm: Altucher đã đưa ra một định nghĩa mới về sự thành công trong thế giới hiện đại. Sự thành công không chỉ là kiếm được nhiều tiền, mà còn là đạt được sự tự do tài chính, tự do cá nhân và sự thỏa mãn trong công việc. Altucher đã cung cấp cho người đọc những lời khuyên thực tế và hữu ích để trở thành một nhân viên giàu có. Những lời khuyên này bao gồm cách xây dựng thói quen tốt, cách tạo ra việc làm thêm, cách xử lý khi bị người khác ganh tị và ghét bỏ, cách học hỏi và phát triển bản thân,... Altucher đã truyền cảm hứng cho người đọc tin rằng họ có thể đạt được sự thành công, ngay cả khi họ đang làm thuê cho một công ty khác. Đánh giá Cuốn sách "The Rich Employee" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn đạt được sự thành công trong cuộc sống. Cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn những lời khuyên thực tế và hữu ích để giúp bạn đạt được mục tiêu của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách đã đưa ra một định nghĩa mới về sự thành công trong thế giới hiện đại. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những lời khuyên thực tế và hữu ích để trở thành một nhân viên giàu có. Cuốn sách truyền cảm hứng cho người đọc tin rằng họ có thể đạt được sự thành công, ngay cả khi họ đang làm thuê cho một công ty khác. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Chủ Nghèo Khó Hay Nhân Viên Giàu Có của tác giả James Altucher.
Content Marketing Tất Tần Tật Từ A Đến Z
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Content Marketing Tất Tần Tật Từ A Đến Z của tác giả MediaZ. CONTENT Content được dịch là “nội dung”, đơn giản là thuật ngữ để chỉ toàn bộ các dạng thức nội dung sử dụng trong ngành marketing bao gồm chữ viết, hình ảnh, video, âm thanh… Bất kỳ một dạng thức nào mà bạn nhìn, nghe, thấy trên các phương tiện truyền thông. Ai cũng có thể tạo ra content, dù trong tay là một dàn thiết bị khủng hay chỉ là một cây bút chì. Content hiện hữu khắp mọi nơi và không bị giới hạn trong bất kỳ định dạng nào. Mọi thứ bạn nói, bạn viết, bạn vẽ ra đều là content hay thậm chí cả những thứ chỉ nảy sinh trong đầu bạn đều có tiềm năng trở thành content sau này. CONTENT MARKETING “Content marketing là một phương pháp marketing có tính chiến lược, tập trung vào việc xây dựng các nội dung hữu ích, phù hợp và nhất quán, nhằm thu hút và giữ chân một nhóm công chúng riêng biệt để đưa họ tới hoạt động nào đó giúp phát sinh lợi nhuận.” • Content marketing phải hiểu được khách hàng/công chúng mục tiêu của bạn đang gặp phải vấn đề gì? Content marketing không chỉ là cứ sản xuất bừa mà phải sản xuất có chủ ý, có thông điệp và biến thông điệp đó thành một cái gì đó phù hợp, gần gũi với công chúng mục tiêu. • Content marketing phải tạo ra giá trị ngược lại cho doanh nghiệp, ví dụ như giúp doanh nghiệp được yêu thích hơn, được nhiều công chúng biết đến hơn và bán được nhiều hàng hơn. *** Tóm tắt Cuốn sách Content Marketing Tất Tần Tật Từ A Đến Z của tác giả MediaZ là một cuốn sách rất hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về content marketing. Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan về content marketing, từ khái niệm, lịch sử, đến các nguyên tắc, phương pháp, và các công cụ cần thiết. Cuốn sách được chia thành 5 phần chính: Phần 1: Giới thiệu về content marketing Phần 2: Xây dựng chiến lược content marketing Phần 3: Tạo ra content chất lượng Phần 4: Phân phối và đo lường hiệu quả content marketing Phần 5: Case study Đánh giá Cuốn sách được viết với văn phong dễ hiểu, dễ tiếp cận, và đầy đủ thông tin. Nội dung cuốn sách được trình bày logic, mạch lạc, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt các kiến thức về content marketing. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức nền tảng về content marketing, từ khái niệm, lịch sử, đến các nguyên tắc, phương pháp, và các công cụ cần thiết. Những kiến thức này sẽ giúp người đọc hiểu rõ về content marketing và áp dụng nó một cách hiệu quả. Cuốn sách cũng cung cấp một số case study thực tế của các doanh nghiệp đã sử dụng content marketing thành công. Những case study này sẽ giúp người đọc có thêm kinh nghiệm và ý tưởng để áp dụng content marketing vào doanh nghiệp của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách cung cấp các kiến thức nền tảng về content marketing một cách đầy đủ và dễ hiểu. Nội dung cuốn sách được trình bày logic, mạch lạc, giúp người đọc dễ dàng nắm bắt các kiến thức. Cuốn sách cung cấp một số case study thực tế của các doanh nghiệp đã sử dụng content marketing thành công. Kết luận Cuốn sách Content Marketing Tất Tần Tật Từ A Đến Z là một cuốn sách rất hữu ích cho những người muốn tìm hiểu về content marketing. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức nền tảng và các kinh nghiệm thực tế để áp dụng content marketing một cách hiệu quả. Mời các bạn mượn đọc sách Content Marketing Tất Tần Tật Từ A Đến Z của tác giả MediaZ.
Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound của tác giả Brian Signorelli & Lại Tuấn Cường (dịch). LỜI KHEN TẶNG DÀNH CHO CUỐN SÁCH INBOUND SELLING “Inbound Selling là cuốn sổ tay cho các doanh nghiệp, nhà quản lý và những chuyên gia của ngành sales, những người sẽ phải thay đổi để thích ứng với một thị trường đầy tính cạnh tranh, nơi những người mua đang nắm quyền làm chủ. Đi từ một nhân viên sales cho tới một nhà quản lý, một người đầy năng lực và ham học hỏi, Signorelli đã cống hiến hết mình từ lúc doanh thu công ty đi từ con số hàng chục cho tới hàng trăm triệu đô la mỗi năm. Sự kết hợp giữa các bài phỏng vấn những nhà lãnh đạo tài năng cùng với những bài học từ sách vở và việc huấn luyện, Signorelli đã xây dựng hệ thống chuyên môn về ngành sales tích lũy trong mấy thập kỷ, dành cho mọi cá nhân và tổ chức trong ngành sales. Tôi đã đọc mấy trăm quyển sách về bán hàng, nhưng chưa bao giờ đọc được một cuốn sách đem đến những bài học thực tiễn toàn diện như thế này.” - Peter Caputa IV CEO của Databox “Inbound Selling loại bỏ nhận định cho rằng bán hàng là một từ bẩn thỉu và thay đổi cách bạn nghĩ về việc bán hàng. Đi từ những chiến thuật bán hàng thiếu kiên nhẫn và thiếu sáng tạo phổ biến suốt nhiều năm qua, Brian ủng hộ tính cá nhân hóa và phương pháp tiếp cận người dùng bằng cách xác định và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Mỗi trang đều đan xen những giai thoại hài hước về kinh nghiệm của tác giả để thể hiện một môi trường học hỏi đầy hứng thú cho những người làm sales và những người đang quan tâm tới nó. Đây là một tài liệu đọc gợi cảm hứng và đem đến một chiến lược có tính bước ngoặt, toàn diện và thực tế. Nói một cách ngắn gọn, nếu bạn không sử dụng inbound thì bạn đang làm sai.” - Rachael Plummer Chuyên gia về bán hàng tại HubSpot “Bạn đang cầm trên tay một cuốn sách hoàn chỉnh về hành trình của một người làm sales từ thời xưa cho tới thời nay. Người mua hàng đã thay đổi nhưng nhiều người bán hàng vẫn chưa thay đổi theo. Gần như các quyết định mua hàng đều thực hiện online. Người mua tự tìm kiếm nhiều thông tin hơn là người bán hàng. Người bán hàng cần tìm cách cải thiện những mối quan hệ dễ bị đổ vỡ giữa người bán và người mua. Công nghệ phá vỡ quy trình bán hàng thông thường. Brian đã chứng kiến hết mọi thứ. Anh ấy nói: “Lẽ ra tôi không chọn nghề sales…”. Nhưng sau đó anh ấy đã học và trưởng thành từ một nhân viên trẻ thành trưởng nhóm sales tại HubSpot, trải qua mọi đắng cay ngọt bùi với công việc của mình. Anh ấy dồn hết sức mình vào cuốn sách để đem đến những lời khuyên làm sao để định hướng con đường bán hàng theo lối sống của khách hàng hiện nay. Brian bắt đầu sự nghiệp từ một nhân viên thiếu kinh nghiệm rồi từng bước thăng tiến theo thời gian. Trong suốt cuộc hành trình đó, anh ấy đã phải nghe rất nhiều câu trả lời “Không” đến nỗi mà nghe như là “Có”, tiếp đó là những kinh nghiệm thực tế và cách anh ấy vượt qua khó khăn, tại sao anh ấy quyết định giữ vị trí quản lý sales. Không giống như một cuốn sách về chiến lược lãnh đạo – giáo điều và không thiết thực – cuốn sách này đào sâu từng vấn đề, chia sẻ những thấu hiểu quý báu từ kinh nghiệm cá nhân và bàn luận sâu về cơ chế bán hàng hiện đại. Hãy đồng hành với cuộc hành trình inbound sales này.” - Lindsay Kelley Lãnh đạo Digital and Content Marketing, Telit “Sách bán hàng có hàng tá nhưng hầu như không truyền được cảm hứng và toàn là những nhận định mà chúng ta đã được nghe hàng triệu lần, chỉ có thêm một vài phương pháp luận cho khác biệt. Còn những cuốn sách truyền cảm hứng và độc đáo thì rất ít, thậm chí những cuốn áp dụng được còn ít hơn nữa, và Inbound Selling là một trong những cuốn sách như vậy.” - Sam Belt Chuyên gia bán hàng tại HubSpot “Đây là cuốn sách phải đọc cho bất kỳ ai làm trong ngành bán hàng hoặc đang muốn gia nhập ngành này. Brian đã chỉ ra các bước để có thể chinh phục inbound sales bằng các ví dụ thực tế và những câu chuyện có thật từ những ngày đầu tiên.” - Jill Fratianne Chuyên gia bán hàng và nhà kinh doanh *** Tôi không thể tìm đâu một bộ đôi thú vị, năng động và giàu kinh nghiệm hơn Dan Tyre và Mark Roberge để viết lời mở đầu cho cuốn sách này. Dan Tyre hiện là giám đốc kinh doanh tại HubSpot và từng là nhân viên thứ sáu của công ty. Dan được biết đến trên toàn thế giới với vai trò là diễn giả nổi tiếng, nhà tư vấn, người hướng dẫn, nhà đầu tư cho các cá nhân, công ty về lĩnh vực sales. Mark Roberge từng là nhân viên thứ tư của HubSpot và từng giữ chức vụ trưởng bộ phận kinh doanh, đóng góp của ông đã giúp cho lợi nhuận của HubSpot tăng lên 100 triệu đô la chỉ trong một thời gian ngắn. Hiện tại, Mark vừa là một giảng viên lâu năm tại trường Kinh doanh Harvard, vừa là SVP của Global Sales và giám đốc doanh thu từ năm 2007 đến năm 2016. Và đây cũng chính là “cha đẻ” của cuốn sách bán chạy The Sales Acceleration Formula. Tôi đã đề nghị Dan và Mark cùng bàn luận về lịch sử, tình trạng hiện tại và tương lai của ngành sales trên những luận điểm cá nhân của họ. Lịch sử ngành sales qua nhãn quan của nhân viên bán hàng Dan Tyre Từ trước đến nay, ngành sales luôn phải gánh chịu một vết nhơ trong mắt của tất cả mọi người nhưng không ai biết chính xác tai tiếng này bắt nguồn từ đâu. Cuối thế kỷ thứ 19 là sự khởi đầu của quá trình mở rộng lãnh thổ tại Hoa Kỳ, người dân phải mua hàng hóa thiết yếu từ những tay bán hàng rong bởi vì họ không còn lựa chọn nào khác. Ngành sales chưa thực sự được xem là một “ngành” bởi vì nó chỉ đơn giản là một người nào đó đi khắp nơi với một con ngựa và một chiếc xe đẩy. Yếu tố tạo nên sự khác biệt nằm ở việc vận chuyển, còn sản phẩm và chất lượng chỉ là yếu tố xếp thứ hai. Những người bán hàng rong có quyền lựa chọn chỉ thực hiện giao dịch một lần và không gặp lại khách hàng thêm lần nào nữa nên khách hàng thường xuyên gánh chịu hậu quả xấu. Hoạt động này đã tạo ra một ấn tượng không tốt về người bán hàng. Khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu khởi sắc, các gian trưng bày dần trở thành nơi mua sản phẩm nên vai trò của nhân viên sales hoặc chủ cửa hàng bắt đầu trở nên có ích. Việc cung cấp sản phẩm chất lượng đi kèm với dịch vụ tốt được quan tâm hơn do khách hàng biết bạn là ai, bạn ở đâu, và dễ dàng gặp bạn mỗi ngày. Tiến đến những năm 1950, sự thay đổi tất yếu của ngành truyền thông đại chúng và ngành công nghệ đã tạo nên thời đại hoàng kim của lĩnh vực marketing, khi mà đế chế “những gã điên” (Mad Men) đóng góp vào sự nở rộ của xu hướng tiếp thị đại chúng các sản phẩm, dịch vụ trên tivi và radio. Thời điểm đó, marketing được ưu ái hơn sales vì khả năng tạo cầu hiệu quả, ấy vậy mà những nhân viên bán hàng vẫn duy trì mức độ tương đối thấp về phẩm chất, đạo đức và sự tín nhiệm. Khởi đầu của tôi với ngành sales: Những người mua bị tước quyền Vào những năm 1970, tôi đã bắt đầu sự nghiệp bán hàng của mình từ khi còn là một cậu bé tuổi vị thành niên, quả nhiên đây là một công việc rất “chiêu trò”. Hồi đó, sales là sự lựa chọn cuối cùng trong tất cả các ngành nghề, những người lựa chọn nó thường là bất quá mới phải làm hoặc không được sáng dạ cho lắm. Công việc này đúng là vất vả nhưng lại được trả lương tương đối hậu hĩnh mà bạn chẳng cần phải ngồi trong văn phòng cả ngày để làm công việc giấy tờ hoặc đổ công sức học hành vất vả để có học vị cao. Thực tế, thành tích của tôi chỉ rơi vào hạng trung bình và luôn khiến phụ huynh phải cau mày nên tôi nghĩ làm sales là con đường kiếm sống lý tưởng. Công việc đầu tiên tôi làm là bán từ điển cho hãng Southwestern Corporation từ năm 1976 đến năm 1977. Trải nghiệm đó đã dạy cho tôi tất cả về con người, quá trình, nỗ lực và sự vất vả. Tôi đi học tại một ngôi trường nằm ở phía Bắc vùng đô thị New York, nhưng được chỉ định làm việc ở các vùng Bellingham, bang Washington, và Portland, bang Oregon. Tôi không được nhận một đồng lương nào, trải qua một tuần huấn luyện nhóm, tôi và hai người được chiêu mộ khác bắt đầu đi “thực chiến”. Hồi đó, cuốn How to Master the Art of Selling*của Tom Hopkins là “kinh thánh” và tỷ lệ thành công là rất cao. Tuy nhiên, có một vài điều đắt giá mà tôi đã rút ra trong suốt sự nghiệp kinh doanh của mình. Đầu tiên, mọi người không giống nhau và lý do mua hàng của họ cũng không giống nhau, vì thế một người làm sales thành công cần phải biết điều chỉnh hành vi của mình nhằm tăng tỷ lệ chốt đơn. Thứ hai, cần thiết lập một quy trình sales lặp đi lặp lại, ở đó bạn phải xác định đối tượng và cách tiếp cận khách hàng mỗi giai đoạn. Thứ ba, tỷ lệ thành công sẽ tỷ lệ thuận với số lần bạn áp dụng quy trình sẵn có của mình. * Sách đã được First News – Trí Việt xuất bản với tựa Làm chủ nghệ thuật bán hàng. Trong khoảng thời gian đó, chúng tôi tuân theo quy trình tập trung vào người bán, không hề chọn lựa phương pháp tiếp cận và chào hàng với gần như tất cả mọi người (mặc dù đối tượng phù hợp là học sinh và trẻ nhỏ). Việc tiếp cận khách hàng tiềm năng thực sự là một quá trình vật lý, bởi vì bạn phải gõ cửa đến từng nhà và gặp mặt trực tiếp. Quá trình này bao gồm khám phá khách hàng tiềm năng, thẩm định sơ qua về chất lượng, giới thiệu sản phẩm, dựa vào lý do mang tính cảm xúc để mua hàng, giải đáp các phản biện, rồi chốt đơn. Chúng tôi sử dụng các kỹ thuật sales như “Puppy Dog” (cho phép khách hàng giữ cuốn từ điển mà không phải trả lại) hoặc “Porcupine” (trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi). Học được các kỹ năng này rất thú vị bởi vì ngành sales đầy rẫy những điều khó đoán, hơn nữa việc thấu hiểu quá trình ra quyết định mua sẽ cho bạn kiến thức về hành vi con người, điều bạn có thể áp dụng đâu đó trong cuộc đời mình. Vào những năm 1980, tôi làm việc cho một công ty start-up bán máy tính cá nhân IBM và học được một chiến thuật bán hàng tiến bộ hơn, đó là chiến thuật “Định hướng giải pháp”. Thật ra cách này vẫn lấy người bán làm trung tâm nhưng nó lại đề cao việc tập trung khai thác vấn đề của khách hàng thông qua các câu hỏi cụ thể và đem đến cho họ một giải pháp thích hợp. Tính chất của phương pháp này có thể tạo ra sự thay đổi. Đầu tiên, nó liên quan đến việc khai phá nhu cầu thật sự của khách hàng thay vì tập trung vào tính năng của thứ bạn đang bán. Thứ hai, phương pháp này cần bạn phải hiểu rõ mô hình kinh doanh của khách hàng và đánh giá liệu sản phẩm có thể đặt vừa trong mô hình đó hay không. Thứ ba, việc giải quyết được khó khăn của khách hàng tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp của bạn, tăng lòng tin và dễ dàng chốt đơn. Phương pháp này đã mang lại hiệu quả cho công ty của tôi. Sales trong buổi bình minh của content marketing Trong suốt hai mươi lăm năm đầu lăn lộn trong ngành, tôi đã chứng kiến sales và marketing luôn ở hai thái cực trái ngược nhau. Ở thời điểm đó, những người điều hành công ty tăng lợi nhuận bằng việc tuyển một trưởng nhóm sales có tham vọng và tuyển những người làm field sale* để tăng thị phần. Càng có nhiều nhân viên sales thì công ty đó càng ăn nên làm ra. Ngược lại, các nhân viên marketing bị rơi vào thế thất sủng. Với những người trong ban điều hành, marketing là thứ tốn nhiều chi phí nhưng mang lại ít kết quả. Còn với những người quản lý có thâm niên thì cho rằng marketing rất “sến sẩm” và khó định lượng. Việc của marketing là làm thương hiệu và tạo ra nguồn lead**, nhưng nguồn lead này thường đến chậm và tạo ra nhiều câu hỏi nghi ngại về chất lượng. ** Những chuyên viên bán hàng thường hoạt động bên ngoài văn phòng, gặp gỡ khách hàng, đàm phán và thương lượng để trực tiếp chốt đơn hàng. *** Lead: tập hợp đối tượng khách hàng có phản hồi hoặc thể hiện sự quan tâm tới sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sau chiến dịch marketing. Đối tượng này được coi là khách hàng tiềm năng, có khả năng thuyết phục mua hàng. Khi cả thế giới gần như thay đổi hành vi mua hàng từ các điểm bán trực tiếp sang các kênh online (2000 – 2010) thì marketing mới chứng minh được khả năng của nó trong việc sản sinh lợi nhuận. Vậy nguyên nhân cụ thể tạo ra sự thay đổi đó là gì? Thứ nhất, hiệu quả của việc thu lead từ website cao hơn hẳn việc thu thập bằng tay của bộ phận sales hoặc marketing. Thứ hai, công việc khám phá người mua chất lượng được giảm bớt gánh nặng do nhân viên sales hiểu được đối tượng nào quan tâm đến sản phẩm. Thứ ba, inbound marketing*loại bỏ hoạt động prospecting ** (công việc tốn thời gian và ít giá trị nhất trong quy trình sales) và thay bằng quá trình self-selection (khách hàng tự chủ động khám phá và lựa chọn) để có thể kết nối với những khách hàng mang lại giá trị cao. Thứ tư, quy trình sales được nâng cao mang lại nguồn thu lớn. Thứ năm, giao dịch online thông qua trang web và di động giảm cho sales rất nhiều khoản phí. Cuối cùng, mua bán online tích trữ các nguồn dữ liệu giá trị cho việc cải tiến quy trình sales. * Inbound marketing là marketing dựa trên giá trị, nghĩa là bạn tìm kiếm khách hàng bằng cách thu hút và “nuôi dưỡng” khách hàng tiềm năng với những nội dung, dữ liệu và dịch vụ khách hàng chất lượng, chứ không phải làm phiền họ bằng những email, tin nhắn rác hoặc những quảng cáo phản cảm. ** Prospecting là sự tìm kiếm thông tin khách hàng ở ba cấp độ: Lead (đầu mối khách hàng), Prospect (khách hàng tiềm năng), và Qualified Prospect (khách hàng tiềm năng đủ điều kiện). Vào năm 2007, với vai trò là nhân viên sales thứ hai của HubSpot, tôi rất may mắn được làm việc với Mark Roberge và chứng kiến sự khởi đầu của kỷ nguyên inbound marketing. Ban đầu, tôi tạo lập các mối làm ăn bằng việc gọi điện thoại trực tiếp – từ gia đình, bạn bè cho đến những ai sẵn sàng nghe tôi nói – và giải thích cho họ về giá trị mà HubSpot Inbound Marketing mang lại. Tôi nhận được hai câu hỏi điển hình: “Inbound marketing là gì?” và “Nó sẽ hiệu quả thật chứ?”. Tôi mỉm cười và nói với họ rằng đây là một nguyên lý mới, nhưng tôi hiểu nó và nhận được giá trị nó mang lại với vai trò là một trong những khách hàng đầu tiên tại HubSpot. Chuyển từ sales truyền thống sang sales theo phương thức inbound là một sự cải tiến lớn. Tôi không phải gặp khách hàng trực tiếp nữa mà chỉ cần nói chuyện với họ qua điện thoại. Thay vì đổ thời gian đi tìm đối tượng, tôi chỉ cần làm việc với những người đã có sự quan tâm đến nội dung của công ty (như các bài nghiên cứu hay các bài blog). Tôi không cần phải thực hiện các bài diễn thuyết mà chỉ đơn giản là ngồi xuống nói chuyện với họ sau khi đã tìm hiểu về nhu cầu của khách hàng. Trong mười năm tới, những người làm sales sẽ có những cơ hội mà các marketer đang sở hữu để phân biệt giá trị dựa vào cách thức họ bán hàng. Những marketer đầu tư vào inbound nhận thấy một sự gia tăng rõ rệt trong tỷ suất lợi nhuận từ một thập kỷ qua. Điều này cũng sẽ xảy ra với những người làm sales. Theo tôi, những người làm sales sẽ gặp nhiều thách thức hơn khi thay đổi “luật chơi”, nhưng điều đó không phải là nỗ lực vô ích. Tương lai phía trước cực kỳ mở rộng cho dân sales, đặc biệt là những người sẵn sàng tiếp thu phương thức bán hàng mới, tận dụng công nghệ ngay trước mắt họ và thậm chí đổi sang cách tiếp cận theo nhu cầu khách hàng. Sales hiện tại và tương lai Mark Roberge Khi tôi phỏng vấn và tuyển dụng tác giả của cuốn sách này vào năm 2012, tôi không hề đoán được anh ấy sẽ gây ảnh hưởng đến công ty này như thế nào. Thứ hạng của anh ấy tiến bộ theo thời gian, từ nhân viên sales có biểu hiện tốt nhất cho đến trưởng nhóm sales, tôi thực sự rất tự hào với thành tích mà Brian đạt được. Nhưng tôi còn tự hào hơn nữa khi chứng kiến quá trình Brian thực hiện cuốn sách này. Vào năm 2007, tôi cùng với một vài người bạn cùng lớp tại MIT gia nhập HubSpot, một công ty phần mềm đặt ở Cambridge, Massachusetts. Tôi là nhân viên thứ tư và là nhân viên sales đầu tiên. Sử dụng phần lớn khái niệm mà Brian đã nhắc đến trong cuốn sách này, tôi đã giúp công ty tăng lên 10.000 khách hàng và tạo ra hơn 100 triệu đô la trong doanh thu hàng năm và lãnh đạo một đội ngũ toàn cầu gồm 400 người. Đây là một chuyến hành trình tuyệt vời với những nhịp điệu đầy hào hứng bởi sự tác động của chúng tôi đã đem đến sự hài lòng cho cuộc sống của khách hàng. Tuy nhiên, tuyển vào những người như Brian, theo dõi sự trưởng thành của họ trong tổ chức của chúng tôi và nhìn thấy những đóng góp của họ cho lĩnh vực này có lẽ là phần thỏa mãn nhất trong trải nghiệm của tôi. Từ khi tôi rời HubSpot, tầm nhìn của tôi rộng mở hơn vì tôi có cơ hội được làm việc trong các bối cảnh thị trường đa dạng. Hiện tại, tôi đang giảng dạy toàn thời gian tại Harvard về sales và entrepreneurship. Tôi đã giúp cho nhiều công ty lớn cải tạo thị trường mục tiêu với vai trò là chuyên gia tư vấn tại Boston Consulting Group. Tôi giúp các công ty start-up tăng doanh số bằng việc đầu tư, cố vấn chiến lược, và tham gia vào hội đồng quản trị. Từ những kinh nghiệm này, tôi càng trân trọng phạm vi ứng dụng rộng lớn của inbound selling*. * Trong inbound selling (inbound sales), mục đích của việc bán hàng là bán những giá trị lợi ích cho khách hàng chứ không chỉ đơn thuần là bán sản phẩm. Internet mang quyền làm chủ về tay khách hàng Giống như Dan đã đề cập, ở giai đoạn tiền Internet, người mua hàng phải nói chuyện với nhân viên sales để mua sản phẩm vì họ cần thông tin chi tiết về lời đề nghị mua hàng, so sánh giá cả giữa các bên, cần nguồn lực như thế nào để cài đặt hoặc sử dụng sản phẩm,... Và nhân viên bán hàng đã làm méo mó những thông tin này để khiến khách hàng hợp tác dù họ không phải là đối tượng dành cho sản phẩm. Vì vậy, khi sự đã rồi thì người mua hàng cũng khó tìm lại được kẻ lừa đảo để bắt đền. Cũng từ đây, ngành sales phải chịu một vết nhơ trong hình tượng của mình. Nhưng Internet ra đời đã thay đổi tình cảnh này. Người mua không cần nhờ đến nhân viên để mua hàng nữa vì họ có thể đọc thông tin sản phẩm trên mạng, so sánh sản phẩm giữa các thương hiệu và tìm ra một cái giá hợp lý. Thỉnh thoảng họ có thể thử dùng sản phẩm và mua luôn mà chẳng cần phải nói chuyện với một người nào cả. Vậy điều đó có nghĩa là ngành sales đang dần chết? Tôi không nghĩ như vậy. Nhưng dù sao sự thay đổi của hoàn cảnh cũng khiến cho cách làm sales thay đổi đáng kể. Những kẻ bán hàng thiếu đạo đức cũng không thể thoát tội một cách dễ dàng bởi vì thông tin trên mạng Internet được truyền đi theo từng phút nên việc tìm ra kẻ xấu rất dễ dàng. Điều đó là do sự hiện diện của các trang mạng xã hội (như Facebook, LinkedIn, Twitter,…), các trang review khách hàng (như Yelp, G2 Crowd,…) và các diễn đàn của các công ty. Thực hiện hành vi bán hàng xuyên tạc là một nụ hôn tử thần đối với những người làm sales. Chuyển đổi sang mô hình inbound selling Do bối cảnh mua hàng thay đổi nên một vài vai trò của người bán hàng có thể được tự động hóa. Phương thức bán hàng “Crocodile” (tập trung vào khoe khoang sản phẩm mà không quan tâm đến nhu cầu của khách hàng) sẽ tuyệt chủng bởi vì những kẻ bán hàng này không còn có giá trị gì nữa do những thông tin mà những người này cung cấp cho khách hàng có thể có được chỉ với một cú click. Có những tình huống mà tự động hóa không thể thực thi được, lúc này các inbound salesmen sẽ thay thế cho legacy salesmen. Ví dụ, sản phẩm có nhiều phiên bản khiến cho khách hàng bối rối, hay sản phẩm vừa thâm nhập vào một thị trường mới và người mua không có điều kiện để tiếp cận thông tin. Nhưng trường hợp hay xảy ra nhất là chính khách hàng cũng không thể định hình được doanh nghiệp đang tồn tại những khó khăn và cơ hội như thế nào, nên họ rất cần một nhân viên bán hàng có trình độ để khai sáng cho họ về những điều đó trước khi lắng nghe bất kỳ một lời mời mua hàng nào. Trong những hoàn cảnh như vậy, người bán hàng theo phương thức inbound là kẻ chiếm ưu thế vì họ có thể gắn kết với khách hàng một cách thân mật, thậm chí không khiến khách hàng khó chịu khi truy cập vào thông tin cá nhân của mình. *** Tóm tắt Cuốn sách Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound của tác giả Brian Signorelli là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện về inbound selling. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để trở thành một người bán hàng theo phương pháp inbound hiệu quả. Nội dung chính Cuốn sách được chia thành 5 phần, mỗi phần tập trung vào một khía cạnh khác nhau của inbound selling. Phần I: Tại sao lại là inbound selling Phần này giới thiệu về inbound selling và những lợi ích của nó. Brian Signorelli bắt đầu bằng việc chia sẻ câu chuyện của chính mình, về cách anh ấy bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một nhân viên bán hàng và dần dần trở thành một nhà lãnh đạo trong lĩnh vực này. Anh ấy cũng giải thích cách inbound selling đã giúp anh ấy và các đồng nghiệp của mình đạt được thành công trong công việc. Phần II: Làm thế nào để trở thành người bán hàng theo phương pháp inbound? Phần này cung cấp cho người đọc một quy trình bán hàng theo phương pháp inbound bao gồm 7 bước: nhận diện, kết nối, khám phá, tư vấn, kết thúc và đàm phán. Mỗi bước trong quy trình này được giải thích chi tiết, cùng với các ví dụ thực tế và các lời khuyên thực hành. Phần III: Dẫn dắt nhân viên bán hàng theo phương pháp inbound: Những kinh nghiệm dành cho các quản lý sales tiên phong Phần này dành cho các nhà quản lý sales. Brian Signorelli chia sẻ những kinh nghiệm của mình trong việc dẫn dắt một đội ngũ bán hàng theo phương pháp inbound. Anh ấy cũng cung cấp các lời khuyên về cách xây dựng một đội ngũ bán hàng hiệu quả và cách giúp các nhân viên bán hàng của bạn phát triển nghề nghiệp. Phần IV: Inbound selling có ý nghĩa gì trong điều hành? Phần này thảo luận về tầm quan trọng của inbound selling trong việc xây dựng một doanh nghiệp thành công. Brian Signorelli giải thích cách inbound selling có thể giúp các doanh nghiệp thu hút khách hàng tiềm năng, tăng doanh số và cải thiện lợi nhuận. Phần V: Tương lai của ngành sales và nghề sales chuyên nghiệp Phần này đưa ra những dự đoán về tương lai của ngành sales và nghề sales chuyên nghiệp. Brian Signorelli tin rằng inbound selling sẽ trở thành phương pháp bán hàng phổ biến nhất trong tương lai. Anh ấy cũng khuyến khích các doanh nghiệp và người bán hàng chuẩn bị cho sự thay đổi này. Đánh giá Cuốn sách Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound là một cuốn sách hữu ích cho bất kỳ ai quan tâm đến inbound selling. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để trở thành một người bán hàng theo phương pháp inbound hiệu quả. Ưu điểm của cuốn sách: Cung cấp kiến thức và kỹ năng toàn diện về inbound selling Nội dung được trình bày rõ ràng, dễ hiểu Có nhiều ví dụ thực tế minh họa cho các khái niệm Cung cấp các bài tập thực hành giúp người đọc áp dụng kiến thức vào thực tế Nhược điểm của cuốn sách: Một số nội dung có thể hơi cũ, cần được cập nhật Nhìn chung, cuốn sách Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn tìm hiểu về inbound selling và cách áp dụng nó vào thực tế. Mời các bạn mượn đọc sách Inbound Selling - Thay Đổi Phương Thức Bán Hàng Theo Mô Hình Inbound của tác giả Brian Signorelli & Lại Tuấn Cường (dịch).