Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kim Các Tự

“Tôi hầu như ngây say với ý nghĩ ngọn lửa thiêu hủy tôi cũng là ngọn lửa sẽ hủy thiêu Kim Các. Cùng chịu một kiếp nạn, một vận mệnh của ngọn lửa tai họa, Kim Các và cõi thế nơi tôi sống sẽ cùng thuộc một chiều không gian. Cũng giống như thân xác mỏng giòn, xấu xí của tôi, tòa kiến trúc, dẫu là cứng cạnh, cũng ôm một thân thể làm bằng các bon dễ cháy. Khi nghĩ như thế, đôi khi tôi cảm thấy là tôi có thể trốn chạy đồng thời giấu Kim Các trong máu thịt tôi, trong cấu trúc thân thể tôi, giống như tên ăn trộm nuốt đá quý vào bụng rồi chạy trốn.” TÁC GIẢ: MISHIMA YUKIO (1925-1970) Ông sinh tại Tokyo, tốt nghiệp khoa Luật Đại học Tokyo năm 1947, sau đó làm việc cho Bộ tài chính. Sau 9 tháng, ông từ chức và bắt đầu viết văn. Các tác phẩm tiêu biểu: Khát vọng yêu đương (năm 1950), Tiếng triều dâng (năm 1954, giải thưởng Văn học Shinchosha), Kim Các Tự (năm 1956, giải thưởng Văn học Yomiuri), Sau bữa tiệc (năm 1960)… Ngày 25 tháng 11 năm 1970, ông tự sát tại doanh trại Ichigaya của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản, sau khi hoàn thành những trang cuối bản thảo “Năm tướng suy của người trời” – tập thứ 4 trong tác phẩm trường thiên Biển phì nhiêu. Các tác phẩm của Mishima Yukio đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được yêu thích trên toàn thế giới. Tác phẩm khác của Mishima Yukio do Nhã Nam xuất bản: Tiếng triều dâng. *** Là một trong những nhà văn quan trọng hàng đầu của Nhật Bản thế kỷ XX, Mishima Yukio được biết đến qua các tác phẩm giàu mỹ cảm, tinh tế và đầy ám ảnh. Cái Đẹp trong văn chương ông thường được gắn với sự hủy diệt, gây ra vô số tranh cãi và những ý kiến trái chiều... Ngày 2.7.1950, toà Kim Các Tự chìm trong biển lửa. Di sản trân quý của Kyoto đã hoá tro tàn dưới tay phóng hỏa của một tiểu tăng của chùa. Cả nước Nhật sững sờ và thương xót trước tin ngôi chùa hơn một trăm năm tuổi đã bị thiêu rụi. Dựa trên sự kiện phóng hỏa ở Kim Các, Mishima Yukio đã cất công thu thập tư liệu từ khắp nơi, thậm chí vào thăm hung thủ phóng hỏa trong tù để gom nhặt chất liệu cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình. Năm năm sau biến cố, tiểu thuyết gắn liền với tên tuổi của Mishima ra đời. Kim Các Tự xoay quanh Mizoguchi - một tiểu tăng đang theo học tại chùa, có tật nói lắp và luôn tự ti về khuyết tật cũng như diện mạo của mình. Từ thuở thiếu thời, Mizoguchi đã được nghe cha mình kể về Kim Các, rằng “toà Kim Các là một báu vật tuyệt thế”. Hình ảnh ngôi chùa vàng hiện lên trong tâm trí thơ trẻ của Mizoguchi rực rỡ đến mức mọi điều đẹp đẽ lọt vào mắt cậu đều được so sánh với Kim Các Tự: cánh đồng dưới ánh mặt trời vàng ruộm, một cô gái có dung nhan đẹp, hay một cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ. Kim Các Tự đã trở thành biểu tượng vô song của Cái Đẹp hiện hữu. Nếu như quan điểm về Cái Đẹp theo lẽ thường là những gì tươi sáng, hướng thiện nhất thì quan điểm của những nhân vật khiếm khuyết trong Kim Các Tự về Cái Đẹp lại chìm trong bóng tối, tương phản một màu cực đoan. Lấy bối cảnh Thế chiến II ở Nhật Bản, thông qua quan điểm duy mĩ cực đoan của Mizoguchi, Mishima Yukio đã vẽ nên một bức tranh về Cái Đẹp đứng trước nguy cơ bị huỷ hoại bởi bàn tay bom đạn và chiến tranh. Là Cái Đẹp chân chính không thể tồn tại với thời gian hay bởi chiến trận khiến những di sản đẹp đẽ đứng trước bờ vực diệt vong? Cuộn xoáy trong những ám ảnh của Mizoguchi về Kim Các Tự và khao khát ngày một lớn dần muốn huỷ hoại vẻ đẹp của ngôi chùa, Mishima Yukio đã đi sâu vào ngóc ngách tâm tưởng của một con người mặc cảm, từ đó lột tả tâm lý của kẻ yếu thế trước Cái Đẹp. Sinh ra là một kẻ thiệt thòi về thể xác, thân thể yếu ớt lại nói lắp, Mizoguchi thu mình lại, đeo trên mình mặc cảm bị “ngăn cách với ngoại giới”. Cậu luôn sống trong một thế giới nội tại, tự vơ vào mình những mộng tưởng hoặc viển vông, hoặc tàn ác. Đối nghịch với sự thiệt thòi vĩnh viễn của cậu là vẻ đẹp sừng sững và vĩnh hằng của Kim Các Tự. Theo lời cha cậu, một vị trụ trì: “Trên thế gian này chẳng có gì đẹp như Kim Các”. Mizoguchi giữ trong mình những ám ảnh nặng nề rằng sự tồn tại của Kim Các đối nghịch với sự tồn tại của cậu. Cậu bất mãn và bực bội vì nếu Cái Đẹp tồn tại thực sự ở Kim Các, thì tồn tại của cậu đã bị tách rời khỏi Cái Đẹp. Nỗi bất mãn ấy lập tức chuyển thành ngây say kể từ giây phút cậu hay tin ngôi chùa có thể bị huỷ hoại trong làn bom đạn. Cái vĩnh cửu vốn chia cắt cậu khỏi vẻ đẹp của Kim Các chẳng bao lâu nữa sẽ bị huỷ diệt. Cậu khấp khởi và say mê vẻ đẹp sắp bị tuyệt diệt của ngôi chùa vàng. Đó cũng là thái độ của Mizoguchi dành cho tất cả những Cái Đẹp xuất hiện trong cuộc đời cậu: kéo mọi vẻ đẹp về gần với sự huỷ diệt để giải thoát những ẩn ức mặc cảm của cậu. Bằng bút pháp sắc sảo và sự am hiểm đến tường tận từng góc khuất u tối trong tâm lý của con người, Mishima Yukio đã gửi đến độc giả một kiến giải duy mỹ về Cái Đẹp cùng những ẩn ức của con người khi Cái Đẹp chìm trong bóng tối... *** Ngay từ khi tôi còn thơ ấu, Ba vẫn thường kể câu chuyện về Kim Các Tự cho tôi nghe. Tôi ra đời trên một mũi biển hiu quạnh nhô ra ra biển Nhật Bản ở phía đông bắc Maizuru. Tuy nhiên, nguyên quán của Ba không ở đây mà ở Shiraku, miền ngoại ô phía đông thành phố Maizuru. Ba được thúc đẩy gia nhập giáo hội và trở nên tu sĩ trụ trì một ngôi chùa tên một mỏm đất xa xôi. Ba lập gia đình ở nơi này và sinh ra một đứa con trai, ấy chính là tôi vậy. Trong khắp miền lân cận ngôi chùa, trên mỏm đất Nariu, không hề có một trường trung học nào thích hợp cho tôi. Kết cục, tôi phải rời cha mẹ đến ngụ ở nhà chú tôi tại sinh quán của Ba ngày trước; trong thời gian sống ở nơi này, tôi theo trường trung học Đông Maizuru, cuốc bộ đi học cũng như lúc về nhà. Bầu trời nơi quê cũ của Ba rất trong sáng. Nhưng mỗi năm vào tháng mười một và mười hai ngay trong những ngày trên trời dường như không có lấy một cụm mây, mỗi ngày chúng tôi vẫn bị bốn năm trận mưa rào đột ngột đổ ụp xuống đầu. Tôi nghĩ là chính vì miền đất này mà tôi đã có cái tâm tính thực là hay thay đổi. Vào những chiều tháng Năm, sau khi đi học về, tôi thường ngồi trong phòng học trên tầng gác thứ nhì trong căn nhà chú tôi và mơ màng ngắm nhìn những vì ngọn đồi trước mặt. Ánh chiều tà lấp lánh trên các cành lá non bao phủ sườn đồi trông như giữa những cánh đồng người ta đã dựng lên một bức bình phong bằng hoàng kim óng ánh. Mỗi khi trông thấy cái này, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh Kim Các Tự. Mặc dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy Kim Các Tự thật sự trong các tấm ảnh và các sách giáo khoa, song hình ảnh chế ngự tâm hồn tôi vẫn là hình ảnh Kim Các Tự theo lời Ba miêu tả. Ba chưa bao giờ kể cho tôi nghe là Kim Các Tự thật sự óng ánh hoàng kim hoặc có một vẻ gì na ná như thế; tuy vậy, theo Ba, trên khắp trái đất này chẳng có gì đẹp đẽ cho bằng Kim Các Tự hết. Vả lại, chính mặt chữ và chính âm ận của từ ngữ đã gán cho Kim Các Tự một vài tính chất hoang đường nào đó in sâu trong tâm khảm tôi. Khi nhìn ánh mặt trời, tôi cảm thấy chắc chắn đó là một ánh hoàng kim do ngôi chùa vô hình rọi đến. Hiệp lộ Yoshizaka, ranh giới giữa huyện Fukui và phủ Kyoto thực sự nằm ở hướng đối nghịch, tôi vẫn quen nhìn thấy Kim Các Tự hiện hình vụt lên bầu trời buổi sớm giữa những ánh triêu dương trong khi mặt trời lên sau những rặng đồi chập chùng ở phía đông. Như thế là Kim Các Tự hiển hiện ở khắp mọi nơi. Chừng nào mà tôi chưa được thực sự để mắt ngắm nhìn, Kim Các Tự vẫn còn giống như bể cả. Vì mặc dù vịnh Maizuru chỉ cách làng Shiraku nơi tôi cư ngụ có ba dặm rưỡi về phía Tây, những ngọn đồi vẫn chặn lấp không cho người ta nhìn thấy nước bể; tuy vậy trong không khí luôn luôn phảng phất một thứ dự cảm về bể cả; một đôi khi gặp thời tiết xấu, từng đàn chim hải âu bay xà xuống những cánh đồng kế cận để tìm chỗ ẩn náu. Tôi vốn yếu đuối và tôi vẫn luôn luôn bị những thằng bạn khác đánh bại trong những cuộc chạy đua hay là đánh thiết bổng. Ngoài ra, ngay từ khi lọt lòng tôi đã mắc tật nói lắp và cái tật này lại càng làm cho tôi có khuynh hướng khép kín không ưa giao tế hơn. Và ai nấy đều biết tôi là con một thầy tu ở chùa. Một vài thằng bé tai ác vẫn thường chế nhạo tôi bằng cách bắt chước một tu sĩ nói lắp trong khi ông ta đang khó nhọc mà lắp bắp từng câu kinh. Trong một quyển sách của chúng tôi có một câu truyện trong đó xuất hiện một nhà trinh thám nói lắp và mấy thằng kia thường đặc biệt cao giọng đọc những đoạn đó cho tôi nghe. Chẳng cần phải nói là tật nói lắp của tôi đã dựng một chướng ngại vật giữa tôi và ngoại giới. Tôi vẫn thường vấp váp khi phát ra âm thanh đầu tiên. Cái âm thanh đầu tiên này giống như một cái chìa khóa của cánh cửa ngăn cách thế giới nội tâm của tôi và thế giới và thế giới ngoại tại, và tôi chưa bao giờ được thấy cái chìa khóa này xoay vặn trơn tru trong ổ khóa. Phần lớn người đời nhờ tài nói năng trôi chẩy có thể giữ cho cánh cửa giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài luôn mở rộng để cho không khí tự do qua lại giữa hai thế giới này, nhưng với tôi thì điều đó hoàn toàn không thể có được. Trên chìa khóa đã có một lớp rỉ sắt dầy đặc mất rồi. Khi một kẻ nói lắp vật lộn một cách tuyệt vọng để thốt ra được âm thanh đầu tiên, hắn ta thực giống như một con chim bé nhỏ đang cố gắng gỡ mình ra khỏi một vũng bùn dầy đặc. Cuối cùng khi nó xoay xỏa để tự giải thoát thì đã quá muộn mất rồi. Tất nhiên là có những lúc mà thực tế của thế giới bên ngoài dường như đã chờ đợi tôi, khoanh tay nơi nó đứng trong khi tôi đang cố gắng vật lộn để tự giải thoát. Nhưng cái thực tại đang đợi chờ tôi không phải là một thực tại tốt tươi. Khi mà cuối cùng sau biết bao cố gắng mới tới được thế giới bên ngoài tôi chỉ còn thấy một thực tại vừa mới tức thời thay đổi màu sắc và vượt ra ngoài tiêu điểm - một thực tại đã mất hết các màu sắc mới mẻ mà tôi coi là thích hợp với chính mình, và đến lúc đó đã bốc ra một mùi hôi hôi ung ủng. Mời các bạn đón đọc Kim Các Tự của tác giả Yukio Mishima & Đỗ Khánh Hoan (dịch) & Nguyễn Tường Minh dịch.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kazan - James Oliver Curwood
Tazan - một chú chó sói, dòng máu chảy trong người chú với ba phần chó nhà và một phần sói. Tuy nhiên, sự tàn bạo, độc ác của thế giới văn minh con người đã đẩy chú trở lại với tiếng gọi của rừng xanh, của thiên nhiên hoang dã. Ở đó, chú được tự do, thoát khỏi kìm kẹp, thoát khỏi roi vọt ngục tù và chú đã tìm thấy hạnh phúc của mình. Thế nhưng, những ngọn lửa yêu thương dù nhỏ nhoi đã xóa đi những hận thù nơi chú đối với con người, khiến chú - dù đã trở thành một chú chó sói đích thực - vẫn không bị thú tính lấn át. Chú sẵn sàng xả thân để cứu vớt con người, sẵn sàng bỏ bao công sức, bỏ đồng loại của mình để đi theo tiếng gọi của tình thương yêu. "Curwood có được một món quà vô giá củ một người kể chuyện thiên bẩm - đó là khả năng kể một câu chuyện và khiến câu chuyện đó trở thành thú vị với sức hấp dẫn mãnh liệt nhất." - The New York Times Book Review. *** Kazan đang nằm im lặng, bất động, mắt lim dim, cái mõm xám gác lên hai chân trước. Trong dòng máu của nó có một phần tư là sói, ba phần tư là chó husky, trải qua bốn tuổi đời, nó toàn sống trên những vùng heo hút rộng lớn của miền Bắc Địa. Người ta gọi nó là Kazan, con chó hoang dã, trong số anh em cùng giống, nó thuộc loại to nhất và lòng dũng cảm của nó thể hiện cũng chẳng kém những người cầm cương dắt nó qua bao nguy hiểm của một vùng trời đất băng giá. Cho đến tận bây giờ, nó chưa hề biết sợ là gì. Nhưng hiện tại, nó không biết tại sao nó lại lo sợ. Nó chỉ hiểu rằng nó đang dấn thân vào một thế giới khác hẳn, nơi có nhiều điều khiến nó lo lắng. Đây là lần đầu tiên nó tiếp xúc với thế giới văn minh. Nó hy vọng rằng ông chủ sẽ sớm quay trở lại căn phòng kỳ lạ, nơi ông đã bỏ rơi nó. Gian buồng ngổn ngang những đồ vật thật gớm guốc. Trên tường, nhiều bộ mặt người to tướng, bất động và lặng lẽ, cứ chằm chằm nhìn nó với một ánh mắt mà nó chưa hề biết đến ở con người. Nó cũng đã từng nhìn thấy một người nằm sóng soài, bất động, lạnh cứng trong tuyết. Nó còn nhớ rõ, lúc đó nó đã ngồi bệt xuống và tru lên một tiếng thật dài...  Bỗng nhiên, nó khẽ vểnh tai. Có tiếng chân, rồi tiếng người nói nhỏ nhe... Một giọng nói là của chủ nó. Nhưng giọng kia! Nó ngẩng đầu lên khi hai người bước vào. Mắt nó rực sáng, đỏ quạch nhìn họ và ngay lập tức nó hiểu rằng chủ nó chắc phải yêu quý người đàn bà mới đến vì ông ta đang ôm xiết nàng. Khi nàng hiện rõ hơn trong ánh sáng, nó phát hiện thấy nàng có mái tóc vàng, bộ mặt tràn đầy sinh lực và đôi mắt sáng ngời tựa hai đóa hoa xanh biếc... Đến lượt mình, khi phát hiện ra nó, nàng khẽ reo lên và lao ngay về phía nó. - Đứng lại em! - Người đàn ông hét lên. -Kazan, con vật nguy hiểm lắm đấy! Nhưng nàng đã quỳ xuống cạnh nó, dịu dàng, lôi cuốn và tế nhị, và bàn tay nàng đã giơ ra để.vuốt ve nó. Nó tự hỏi nên chăng lẩn trốn hay cắn lại? Liệu nàng có giống như những thứ gắn chặt trên tường kia, là thù địch của nó? Liệu có phải tức khắc chồm lên ngoạm vào cái cổ trắng ngần kiả Nó thấy người chủ lao đến, mặt tái mét như xác chết và nó cảm thấy nàng đặt tay lên đầu nó. Nàng vừa chạm đến, toàn thân nó đã run lên. Bằng cả hai tay, thế là nàng buộc nó phải quay đầu lại. Giờ đây, gương mặt nàng cận kề mõm nó và nó nghe nàng nói gần như trong tiếng nức nở. ... Mời các bạn đón đọc Kazan của tác giả James Oliver Curwood.
Gỗ Mun - Ryszard Kapuściński
Trước hết là cái nhìn: Ryszard Kapuściński. Đó là một cái nhìn luôn luôn độc đáo và thấu suốt, cho dù đối tượng sự quan sát của ông có là gì, và cho dù không mấy khi ông thích phân tích dài dòng. Nhất là khi đối tượng ấy là châu Phi, một lục địa dường như rất hợp với tâm tính ông, thì Kapuściński nhìn thấy cả những gì sâu xa, nhỏ bé nhất của nơi đây. Và sau đó là cách chạm vào châu Phi: thông qua sự mô tả cuộc đối đầu nghẹt thở với một con rắn, Kapuściński làm sống lại sự rung động của tâm hồn cả một châu lục, trong đó có sự mãnh liệt và có hiểm nguy tàn khốc. Rồi tất nhiên ta phải nói đến một tài năng văn chương hiếm thấy, hiện ra tràn ngập những trang viết của thông tín viên Ba Lan kiệt xuất này. Tất cả cộng lại để tạo nên một Gỗ Mun như tác phẩm không thể không nhắc tới về châu Phi thế kỷ XX. *** Lời khen tặng dành cho Gỗ Mun: “Giống như Gabriel García Márquez là ông hoàng đen vĩ đại của tiểu thuyết hiện đại, Kapuściński là vị phù thủy kiệt xuất của phóng sự.” - John Le Carré “Ryszard Kapuściński là một ví dụ hiếm hoi trong nền văn hóa của chúng ta về một nhà văn người-Ba-Lan-toàn-cầu. Ông, một công dân thế giới, luôn luôn chống lại việc dựng lên các rào ngăn đối với Người Khác, đóng sập cửa trước mặt họ. Dường như ông muốn nói: bài ngoại là căn bệnh của những kẻ khiếp nhược, bị mặc cảm về sự thấp hèn hành hạ, sợ hãi ý nghĩ đến lượt họ sẽ phải soi mình trong văn hóa của Người Khác.” - Adam Michnik “Chúng ta đang sống trong một thế kỷ nhiều thách đố nhất trong lịch sử thế giới, bản chất thực của nó còn là một bí ẩn tối tăm. Chúng ta rất cần những nhà giải mã như Ryszard Kapuściński.” - Salman Rushdie “Tôi nghĩ đến những cuốn sách ông đã viết với lòng biết ơn sâu sắc, và nghĩ đến những cuốn sách ông còn chưa kịp viết với nỗi buồn sâu sắc. Một nhà văn lớn, một con người cao quý, một người lữ hành không mệt mỏi qua thế giới đầy quyến rũ nhưng mãi luôn luôn bất an của chúng ta. - Wisława Szymborska “Tôi không biết bất cứ ai có viết với sự thấu cảm đến thế về Thế giới Thứ ba. Mỗi lần được tin giải Nobel được trao cho một người khác, tôi lại cảm thấy thất vọng. Tôi luôn luôn chắc chắn rằng Kapuściński sẽ nhận được giải thưởng này.” - Tomas Venclova “Ryszard Kapuściński đã viết một tác phẩm để đời: cuốn sách về châu Phi với nhan đề Gỗ Mun. Cuốn sách của Kapuściński đặt chúng ta trước nhiều câu hỏi. Đó là những câu hỏi cốt yếu. Cuộc sống là gì, ý nghĩa của nó, đạo đức, tội ác, lòng kiêu hãnh và khiêm nhường, sự phản kháng hay chấp nhận số phận? Chúng ta vẫn luôn đặt ra những câu hỏi ấy trong văn hóa của mình, nhưng những lời giải đáp và phản ứng của chúng ta lại hoàn toàn khác.” - Helena Zaworska “Không trực tiếp, nhưng rất rõ ràng, Kapuściński luận chiến với hai lối nghĩ dĩ Âu vi trung rập khuôn về châu Phi: với khuôn mẫu khiến người ta nhìn châu Phi như một châu lục của những người man rợ thấp kém hơn về văn hóa, khó hiểu (vì chẳng đáng được hiểu); và với huyền thoại hậu thực dân đầy cảm tính (dù chỉ như trong Xa mãi Phi châu của Karen Blixen) nhìn thấy ở châu Phi thiên đường đã mất.” - Piotr Bratkowski *** Trước hết là ánh sáng đập vào mắt. Khắp nơi là ánh sáng. Khắp nơi chói lòa. Khắp nơi là nắng. Mới ngày hôm qua, London mùa thu lướt thướt nước mưa. Máy bay lướt thướt nước mưa. Gió lạnh và âm u. Còn ở đây, từ sáng sớm cả sân bay ngập trong nắng, tất cả chúng tôi ngập trong nắng. Thời trước, khi người ta đi bộ du hành qua thế giới, cưỡi ngựa hay đi thuyền, cuộc hành trình làm họ thích nghi dần với các thay đổi. Các hình ảnh của trái đất từ từ trôi qua trước mắt họ, sân khấu của thế giới quay chầm chậm từng chút một. Hành trình kéo dài hàng tuần, hàng tháng. Con người có thời gian để thích nghi với môi trường khác, với quang cảnh mới. Khí hậu cũng thay đổi từng bước, qua các giai đoạn. Trước khi một người du hành từ châu Âu lạnh lẽo đến được xích đạo nóng bỏng, anh ta đã trải qua cái ấm áp dễ chịu của Las Palmas, cái nóng nực của Al-Mahara và địa ngục Quần đảo Cape Verde. Ngày nay, những giai đoạn ấy chẳng còn lại chút gì. Máy bay đột ngột bứt chúng ta ra khỏi tuyết và băng giá rồi ngay ngày hôm đó ném ta vào vạc dầu nhiệt đới nóng rực. Đột nhiên, chỉ vừa mới dụi mắt là ta đã ở trong địa ngục ẩm ướt. Ta bắt đầu đổ mồ hôi ngay. Nếu bay đến từ châu Âu mùa đông, ta quăng bỏ áo choàng, cởi áo len. Đó là hành động đầu tiên của chúng ta, người phương Bắc, khi đến châu Phi. Người phương Bắc. Có bao giờ ta từng nghĩ rằng người phương Bắc chỉ chiếm một phần rất nhỏ trên hành tinh này? Người Canada và Ba Lan, người Litva và bán đảo Scandinavia, một bộ phận người Mỹ và Đức, người Nga và Scotland, người Sami[1] và Eskimo, người Evenki và Yakut, danh sách cũng không dài lắm. Tôi không rõ tổng cộng nó có nhiều hơn năm trăm triệu người - chưa đến 10% cư dân trái đất - hay không. Ngược lại, một phần rất lớn sống trong ấm áp, cả đời được sưởi nắng. Vả lại, con người được sinh ra trong ánh nắng, những dấu vết cổ xưa nhất của con người được tìm thấy ở các xứ sở ấm áp. Thiên đường trong Kinh Thánh có khí hậu thế nào? Ở đó ấm áp vĩnh cửu, nóng nực là đằng khác, đến nỗi Eva và Adam có thể trần truồng và không cảm thấy lạnh ngay cả trong bóng cây. Ngay ở cầu thang máy bay ta đã gặp một điều mới mẻ khác: mùi nhiệt đới. Điều mới mẻ? Nhưng đó chính là mùi hương ngập tràn trong cửa tiệm nhỏ của ông Kanzman “Hàng hóa từ thuộc địa và các loại khác” trên phố Pereca ở Pinsk[2] đấy mà! Quả hạnh, đinh hương, chà là, ca cao. Va ni, lá nguyệt quế; cam và chuối bán quả, bạch đậu khấu và nghệ bán cân. Còn Drohobych thì sao? Những cửa hàng quế của Schulz[3] thì sao? Chính là “những đồ vật sẫm màu và trang trọng được chiếu sáng lờ mờ, thơm nồng mùi của màu, sơn, nhang, đẫm hương của các xứ sở xa xôi và những chất liệu quý hiếm”! Tuy vậy, mùi nhiệt đới có khác một chút. Ta nhanh chóng nhận ra sức nặng của nó, sự nhớp nháp của nó. Thứ mùi này cho ta biết ngay rằng ta đang ở một điểm trên trái đất nơi giới thực vật rậm rạp và không mệt mỏi luôn liên tục hoạt động, sinh sôi, lan tràn và nở hoa, song đồng thời cũng đang tật bệnh, bị đốn ngã, sâu ruỗng và héo rụi. Đó là mùi của những tấm thân được sưởi nóng và cá khô, của thịt ôi và sắn nướng, của hoa tươi và tảo rữa, tóm lại là mùi của tất cả những thứ đồng thời vừa dễ chịu vừa khó chịu, vừa lôi cuốn vừa đáng ghét, những thứ cám dỗ hoặc làm người ta ghê tởm. Thứ mùi này bay đến với chúng ta từ những rừng cọ không xa, thoát ra từ mặt đất nóng ran, bốc lên trên những rãnh nước mốc meo của thành phố. Nó không rời chúng ta, nó là một phần của miền nhiệt đới. Và cuối cùng là khám phá quan trọng nhất - con người. Những người ở đây, dân bản xứ. Họ mới hợp với phong cảnh, ánh sáng và thứ mùi này làm sao! Dường như họ tạo thành một tổng thể. Dường như con người và cảnh vật không tách rời nhau, bổ sung cho nhau, là một bản sắc, một cộng đồng hài hòa. Dường như mỗi sắc dân được đặt vào phong cảnh của riêng mình, khí hậu của mình! Chúng ta tạo ra phong cảnh của mình, còn phong cảnh nặn thành hình các đường nét trên gương mặt chúng ta. Người da trắng ở giữa những cây cọ và đám dây leo này, trong các bụi cây và rừng rậm này là một điều gì đó lạc lõng thừa thãi. Nhợt nhạt, yếu ớt, áo đẫm mồ hôi, tóc dính bết, anh ta luôn bị cái khát, cảm giác bất lực và chán nản hành hạ. Anh ta luôn luôn sợ hãi, sợ muỗi, a míp, bọ cạp, rắn - tất cả những gì cử động đều làm anh ta tràn ngập lo sợ, khiếp hãi, hoảng loạn. ... Mời các bạn đón đọc Gỗ Mun của tác giả Ryszard Kapuściński.
CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa - Thomas L. Ahern
Hôm 19/2/2009 cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (Central Intelligence Agency – CIA) đã cho giải mật tài liệu mang tên: “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam”. Tài liệu này do ông  Thomas L. Ahern, Jr., một nhân viên CIA từng làm việc tại Sài gòn từ năm 1963 đến đầu năm 1965 đúc kết từ những tài liệu mật của CIA. Tài liệu được giải mật sau khi cơ quan CIA đã đọc lại và gạch bỏ những tên tuổi và địa danh không lợi cho hoạt động tình báo. Tuy nhiên nếu so chiếu với các tài liệu khác viết về cuộc chiến Việt Nam, người  đọc có thể đoán hầu hết những tên tuổi gạch bỏ đó là ai. Tài liệu dài 243 trang gồm chính yếu là phần Nhập Đề của tác giả và 10 Chương. Tôi tóm tắt lại những sự việc chính của tài liệu trong 6 bài viết: phần Nhập Đề và sau đó hai Chương trong một bài, và sẽ lần lượt cho lên trang nhà www.tranbinhnam.com . Mục đích tóm tắt tài liệu là “ôn cố tri tân” về một giai đoạn lịch sử đã qua nhưng còn ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống của mỗi người Việt chúng ta trong cũng như ngoài nước. Và cũng là kinh nghiệm có thể hữu ích trong mối quan hệ hiện nay giữa Việt Nam và Trung quốc, cũng như giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Một điều cần nói là không có một tài liệu nào, nhất là tài liệu liên quan đến hoạt động tình báo, là hoàn toàn trung thực. Giải mật một tài liệu mật tự nó cũng có thể là một phần của một chương trình tình báo khác. Tài liệu “CIA and the Generals: Covert Support to military government in South Vietnam” cũng không ra ngoài quy luật đó. Cho nên sự xử dụng những thông tin do sự giải mật tài liệu này mang lại như thế nào là trách nhiệm của người xử dụng. Trong phần nhập đề ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30/4/1975. Ông viết rằng, sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Điệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm.  Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào dân vệ (self-defense units) để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam . Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần cộng sản để lại miền Nam trước khi rút ra Bắc theo hiệp định Geneva. Đến năm 1959 hầu hết tổ chức cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không cộng trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác mà không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959 Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn càng ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Hoa Kỳ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963 khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật Giáo nổ ra tại miền Trung, Hoa Kỳ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Hoa Kỳ làm cho Hoa Kỳ bất mãn, và đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm càng ngày càng sa sút, nên vào tháng 8 năm 1963 do đề nghị của đại sứ Henry Cabot Lodge, Hoa Kỳ quyết định hạ bệ ông Diệm. *** Trong phần nhập đề, ông Thomas Ahern nhắc lại quan hệ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa từ năm 1954 cho đến ngày 30-4-1975. Ông viết rằng sau khi người Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, người Mỹ thay thế dần người Pháp vì người Mỹ cho rằng nếu Việt Nam sụp đổ, toàn vùng Đông Nam Á cũng sụp đổ theo thuyết domino. Người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm củng cố miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, qua trung gian ông Ngô Đình Nhu, em ruột của ông Diệm. Cùng với các lực lượng vũ trang của ông Diệm, CIA phát động phong trào tự vệ để bảo vệ nông thôn. Đây là kinh nghiệm chống nổi dậy đầu tiên của CIA tại Việt Nam. Chương trình của ông Diệm là tiêu diệt các thành phần Cộng sản còn lại ở miền Nam trước khi rút ra Bắc theo Hiệp định Giơnevơ. Đến năm 1959, hầu hết tổ chức Cộng sản gài lại miền Nam đều bị tiêu diệt. Nhưng chương trình bài Cộng quá nặng tay và thi hành một cách bừa bãi đụng chạm đến các thành phần không Cộng sản trong quần chúng như thành phần thiểu số và tôn giáo khác và không có chương trình nâng cao đời sống nông thôn để thu phục lòng dân nên mất dần sự ủng hộ của quần chúng. Cuối năm 1959, Hà Nội đưa người vào Nam và làm cho sự kiểm soát của ông Diệm tại nông thôn ngày càng lỏng dần. Để cứu chế độ Diệm, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và kinh tế. Đầu năm 1963, khi cao trào chống chế độ ông Diệm của Phật giáo nổ ra tại miền Trung, Mỹ có 12.000 cố vấn quân sự tại miền Nam. Cung cách đàn áp phong trào Phật giáo của ông Diệm không phù hợp với quan niệm tự do tôn giáo của Mỹ làm cho Mỹ bất mãn, đồng thời sự kiểm soát nông thôn của ông Diệm ngày càng sa sút, nên vào tháng 8-1963, theo đề nghị của Đại sứ Henry Cabot Lodge, Mỹ quyết định hạ bệ ông Diệm. Sau khi quân đảo chính chiếm Bộ Tổng tham mưu và giết Đại tá Lê Quang Tung, người làm việc cận kề với CIA và là Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt, các tướng đảo chính kêu gọi anh em ông Diệm đầu hàng. Ông Diệm và ông Nhu lợi dụng trời tối rời Dinh Độc Lập và sau đó bị bắt tại một nhà thờ Công giáo ở Chợ Lớn. Trước đó Đại sứ Cabot Lodge có hứa giúp hai anh em ông Diệm và ông Nhu an toàn rời khỏi Việt Nam, nhưng khi ông Diệm và ông Nhu bị bắt không thấy Mỹ nhắc lại. Các sĩ quan của tướng Dương Văn Minh, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã bắn chết hai ông Diệm và Nhu trên một xe thiết giáp… “Hòa bình ló dạng” Tình hình chính trị tạm ổn định sau khi tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống vào tháng 9-1967 qua một bản Hiến pháp mới. Tháng 2-1968, Cộng sản tổng tấn công vào các đô thị miền Nam (cuộc tổng tấn công Mậu Thân). Cuộc tấn công không thành công nhưng làm cho chương trình bình định của ông Thiệu giậm chân tại chỗ, tạo một tâm lý bi quan đối với dân chúng Mỹ và báo giới Mỹ nên không khí chống chiến tranh tại Mỹ lên cao buộc Tổng thống Johnson vào cuối tháng 3-1968 tuyên bố không ra ứng cử Tổng thống lần thứ hai và đề nghị thương thuyết với Hà Nội. Tháng 5-1968, khi các cuộc tiếp xúc chính thức giữa Mỹ và Hà Nội bắt đầu tại Paris, Cộng sản mở cuộc tấn công Mậu Thân 2 nhưng cũng không thành công, giúp quân đội Việt Nam Cộng hòa và Mỹ lấy lại thế tấn công và cuối năm 1968 xem như bình định và kiểm soát 73% dân chúng miền Nam. Tuy nhiên, tình hình này không giúp cho Hubert Humphrey (ứng cử viên đảng Dân chủ) đắc cử để có thể tiếp tục đường hướng của Johnson. Tổng thống Nixon đắc cử và bắt đầu chương trình Việt Nam hóa chiến tranh. Giữa năm 1969, Tổng thống Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên. Đặc điểm của tình hình chiến trường Việt Nam trong những năm 1969-1971 là trong khi Mỹ ra sức cải tiến và trang bị cho quân đội miền Nam thì Liên Xô và Trung Quốc cũng viện trợ dồi dào cho Bắc Việt. Hai bên Nam-Bắc cố giành đất và dân chuẩn bị cho một giải pháp chính trị từ cuộc hòa đàm Paris. Mời các bạn đón đọc CIA và Các Tướng Lãnh Cộng Hòa của tác giả Thomas L. Ahern.
Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất - Jules Verne
Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất được xuất bản vào năm 1864. Câu chuyện kể về một giáo sư người Đức tin rằng có những miệng núi lửa có con những con đường đi thẳng cuống trung tâm Trái đất. Ông, đứa cháu trai Axel, và người dẫn đường Hans của họ đã trải qua những chuyến phiêu lưu thú vị, gặp gỡ những con vật thời tiền sử cùng các thảm họa tự nhiên, cuối cùng đã quay lại mặt đất ở miền Nam nước Ý. *** Chuyện bắt đầu khi giáo sư Lindenbrock mua được cuốn sách cổ rồi cùng đứa cháu trai Axel giải mã và tìm ra con đường đi xuống tâm trái đất qua núi lửa Sneffels Jukull ở Iceland. Đoàn thám hiểm ba người gồm giáo sư, Axel và người dẫn đường Hans đã gặp những hiện tượng kỳ lạ và cả những nguy hiểm chết người: có một hang động đầy khí dễ cháy, những loại cây hóa thạch và nấm khổng lồ, những sinh vật thời tiền sử trong đó có người khổng lồ cao tới 12 feet… Làm thế nào đoàn thám hiểm có thể thoát khỏi mọi nguy hiểm luôn rình rập, quay trở lại mặt đất với cuộc sống trước kia? Câu trả lời đang chờ bạn giải đáp, vậy bạn có đủ can đảm để đối mặt với những thử thách và nhận được danh hiệu “nhà thám hiểm tài ba” không. Hãy cùng Jules Verne tham gia cuộc thám hiểm vào lòng đất! *** Chủ nhật, ngày 24 tháng 5 năm 1863, giáo sư Lidenbrockenbrock vội vã trở về ngôi nhà của ông ở số 19 đường Konigstasse, nằm trong khu phố cổ kính nhất ở thành phố Hambourg. Trong khi ấy, Dì Marthe, người đầu bếp của chúng tôi, đang vội vã nổi lửa làm bữa ăn chiều. - Dì Marthe này, chú tôi là người háu đói nhất hạng đấy. Ông ta về mà chưa chuẩn bị xong bữa ăn thì thế nào cũng lối ầm ĩ lên cho xem. - Giáo sư Lindenbrock về rồi à? - Phải, dì Marthe ạ. – Tôi trấn an người đầu bếp đáng thương. – Nhưng dì đừng lo vì còn đến nửa giờ nữa mới đến bữa ăn chiều. - Nhưng sao hôm nay giáo sư lại về sớm vậy hả? - Cháu không rõ, nhưng chắc lát nữa chú sẽ nói cho chúng ta nghe chứ gì. - Thật khổ! – Dì Marthe kêu lên. – Thôi tôi phải xuông nhà bếp để tiếp tục chuẩn bị bữa ăn, cậu hỏi dùm vì sao hôm nay giáo sư về sớm quá và nói giúp dùm tôi về bữa ăn chưa nấu xong nhé. Nói xong, dì Marthe trở vào nhà bếp, bỏ tôi lại một. Nhưng làm cách nào để giải thích cho chú tôi hiểu ra tại sao bữa ăn chưa nấu xong quả là một việc làm khó khăn đối với tôi. Nên tôi định rút êm lên căn phòng nhỏ của mình trên lầu thì nghe tiếng cửa mở ra, rồi những bước chân nặng nề làm rung rinh cả chiếc cầu thang gỗ và chú tôi xồng xộc đi vào phòng làm việc của ông ta. Vừa đến nơi, chú tôi quăng cây gậy vào góc phòng và vứt cái nón lên bàn làm việc rồi nóng nảy gọi to: - Axel, đi theo chú mau! Tôi chưa kịp nhúc nhích thì chú tôi đã nổi nóng và hét lên một lần nữa với giọng không thể tưởng tượng nổi: - Thế nào! Sao chưa mau tới đây hả? Tôi nhảy phắt lên rồi vội vàng chạy theo chú tôi vào phòng của ông. Tôi cũng phải nói rõ rằng chú Otto Lidenbrockenbrock không phải là người xấu bụng nhưng chỉ có một cố tật là quá nóng tính, khó mà làm vừa lòng chú ấy. Đôi khi chỉ vì một chuyện nhỏ, ông trở lên kỳ quặc khủng khiếp. Chú tôi là giáo sư ở đại học Hambourg, giảng dạy về môn địa chất học và trong mỗi buổi giảng về môn học này chú thường hay nổi cáu lên một vài lần. Nhưng dù sao đi nữa, có một việc mà mọi người đều không thể phủ nhận được là giáo sư Lidenbrock là một nhà khoa học có tài. Nếu có ai đưa cho chú một viên đá, chú sẽ ngắm nghía, gõ rồi nghe tiếng phát ra hoặc ngửi mùi và mỗi lần như vậy chú sẽ cho biết nó làm bằng chất gì và xuất xứ của nó. Hiện thời, người ta biết hết thảy khoảng 600 loại đá và chú tôi có thể nói ngay tức khắc là viên đá này thuộc loại nào trong số đó. Các nhà khoa học lừng danh khác thường hay đến thăm chú tôi. Họ đến để tham khảo ý kiến của chú tôi về những vấn đề khó khăn nhất mà họ không thể giải quyết nổi. Chú tôi đã khám phá được nhiều điều rất quan trọng cho nền khoa học hiện đại và là tác giả của những bài báo lớn. Ông còn là giám đốc một viện bảo tàng địa chất có chứa một bộ sưu tập khoáng sản giá trị và nổi tiếng khắp châu Âu. Do đó, tên tuổi của giáo sư Lidenbrock luôn được nhắc tới một cách trang trọng tại mọi trường đại học và các viện hàn lâm khoa học. Và bây giờ, vị giáo sư đáng kính ấy đang nóng nảy gào thật to tên tôi. Bạn hãy tưởng tượng ra một người cao, gầy, sức khỏe rất tốt. Ông có một nước da thật đẹp và trẻ trung khiến ông trông nhỏ hơn nhiều so với cái tuổi năm mươi của mình. Đôi mắt to của ông lúc nào cũng đảo lia lịa sau đôi tròng kính thật to. Chú tôi sống trong ngôi nhà nhỏ ở đường Konigstrasse. Ngôi nhà trông xuống một trong những dòng kênh ngoằn ngèo chảy qua khu phố cổ kính của thành phố Hambourg. Dù chỉ là giáo sư đại học nhưng chú tôi quả là giàu. Ông làm chủ cả ngôi nhà và tất cả mọi thứ đồ vật bên trong, kể cả tôi, dì Marthe và cả Grauben, cô thiếu nữ xinh đẹp người xứ Virland vày mới mười bảy tuổi, là cháu họ của giáo sư. Còn tôi với tư cách là cháu của giáo sư, tôi cũng là một đứa trẻ mồ côi. Khi cha mẹ tôi mất, tôi đến ở trong ngôi nhà này và trở thành phụ tá cho ông. Phải thú nhận rằng tôi rất thích môn địa chất học. Hình như có một dòng máu của nhà địa chất học đang chảy trong cơ thể của tôi. Tôi thích nó đến nỗi không bao giờ biết chán trong việc nghiên cứu những mẫu đá. Nói chung thì cuộc sống của tôi cũng khá sung sướng trong căn nhà nhỏ trên đường Konigstrasse này mặc dù chủ của nó hơi khó tính và hay gắt gỏng nhưng rất yêu mến tôi. Cố điều ông hoàn toàn không có khả năng kiên nhẫn chờ đợi và lúc nào cũng tỏ vẻ vô cùng vội vã. Hồi tháng tư vừa qua, ông có gieo mấy hạt giống vào chậu kiểng đặt trong phòng khách. Và ông đã nóng nảy đến độ cứ mỗi sáng đều ra mớm những cái lá cho chúng lớn nhanh hơn. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất của tác giả Jules Verne.