Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trở Lại Tìm Nhau - Guillaume Musso
24 tiếng từ cõi chết trở về, liệu anh có kịp để tìm lại tình yêu? Mười năm năm trước, Ethan Whitaker đã rũ bỏ mọi thứ: người bạn thân từ nhỏ, vị hôn thê và cuộc sống tẻ nhạt nơi công trường. Anh đang khát khao trở thành người khác, có mọi thứ khác hẳn với nhịp điệu buồn tẻ, nghèo nàn hàng ngày. Anh bỏ đi đúng vào ngày sinh nhật, khi người bạn và người yêu đang chờ anh nơi điểm hẹn, thời điểm cô gái trẻ Marisa nôn nóng gặp anh báo một tin vui. Không một lần trở lại. Nhiều năm sau đó, Ethan đã trở thành một vị bác sĩ tâm lý tên tuổi. Anh giàu có và hơn thế nữa, đã gặp được tình yêu của đời mình, Céline Paladino, nữ tiếp viên hàng không. Anh đã từng có những quyết định điên rồ nhất để chớp lấy cơ hội gặp cô. Anh đã từng nghĩ mình là người hạnh phúc nhất song lại bị giày vò với ý nghĩ phải xa cô bằng mọi giá. Một cuộc chia tay đã diễn ra buồn bã như nó phải thế. Và năm năm đã trôi qua cùng trái tim không hề nguôi ngoai. Ethan Whitaker lúc này đã trở thành người khác, hệt như mơ ước ngông cuồng của chàng trai nghèo khó ngày nào. Anh đã thực hiện lời hứa với bản thân, hình ảnh của Ethan xuất hiện trên tờ Thời báo New York cùng cái tít rõ kêu “Vị bác sĩ tâm lý quyến rũ nước Mỹ”. Anh là khách mời bản tin buổi sáng của kênh truyền hình NBC nổi tiếng. Anh đã có một cuộc sống giàu sang cùng chiếc du thuyền sang trọng neo dọc con sông Hudson… Nhưng bên trong, Ethan Whitaker là một người trống rỗng, anh giấu diếm bí mật về vụ chơi bài Poker bị thua với số tiền đặt cửa là 2 triệu đô-la. Mọi thứ rồi sẽ nhàn nhạt trôi qua, khi Ethan là nạn nhân của chính bản thân anh. Ước mơ bất chợt dấy lên hồi trẻ đã khiến anh cắt rời quá khứ để theo đuổi tham vọng. Sự liều lĩnh mang lại cho anh cả tiền bạc, tên tuổi và tình yêu. Nhưng nó cũng khiến Ethan chợt mất tất cả, kể cả mạng sống của mình. Trong Trở lại tìm nhau, Ethan cứ lần lượt quay trở lại 24 giờ cuối cùng. Anh có thêm cơ hội nữa để sống lại ngày định mệnh ấy. Anh đã nhận ra cô con gái mình bỏ rơi nay đang tìm đến bố. Anh đã tới đám cưới của Céline để chứng kiến tim mình đập trong nhói đau. Anh đã đối diện với cái chết tức tưởi giữa đường. Và anh sẽ làm gì nếu được quay trở lại? Với cách dựng truyện độc đáo khiến độc giả lần lượt trải qua những tâm trạng trái ngược, sự hồi hộp được dồn nén, thôi thúc – Trở lại tìm nhau mang đến một thông điệp sống, thông điệp yêu cho những ai đang còn trẻ. Bạn luôn nghĩ rằng mình có nhiều thời gian cùng những cơ hội vàng phía trước, đôi khi bạn sẽ bẵng quên những điều giản dị đang có… ............ “Cách dựng truyện độc đáo và tài tình, mộ tphong cách có thể nhận ra giữa vô vàn những ngòi bút khác, những nhân vật cá tính, tất cả đều có trong tác phẩm của Musso” – Métro *** Hãy tưởng tượng... Thành phố New York. Sự sôi động của Quảng trường Thời đại. Những tiếng kêu hét, tiếng cười, âm nhạc. Mùi bắp rang bơ, bánh mì kẹp xúc xích, khói. Ánh đèn nê ông, những màn hình lớn, những biển hiện sáng choang nơi mặt tiền các tòa nhà chọc trời. Tắc nghẽn giao thông, xe taxi, tiếng còi hụ của xe cảnh sát và tiếng còi inh ỏi. Và rồi đám người đang đè bẹp tất thảy, đnag chen lấn xô đẩy. Làn sóng bất tận khách du lịch, những người bán hàng trái phép và lũ móc túi. Anh là một trong vô vàn hạt cát của đám đông đó. Anh hai mươi ba tuổi. Trên vỉa hè, vị hôn thê và người bạn thân nhất của anh đang tản bộ trước anh hai mét. Nàng tên là Marisa. Hai người hẹn hò nhau từ năm đầu cấp ba và đám cưới được dự định tổ chức vào cuối tháng này. Với Jimmy thì sự gắn bó còn lâu hơn nữa; hai người đã lớn lên cùng nhau tại khu công nhân ở phía Nam thành phố Boston. Tối nay là sinh nhật anh. Để anh vui, hai người đã tổ chức chuyến đi dạo ở Manhattan này và cả ba đã từ Boston phóng lên đây trong một chiếc xe Mustang xập xệ. Anh mới hai mươi ba tuổi, nhưng đối với anh, cuộc sống có vẻ như đã được khuôn định sẵn và không hy vọng. Phải nói là khi anh chào đời, các bà tiên đã không đứng vây xung quanh nôi. Cha mẹ anh đã lao động vất vả cả đời nhưng cũng không đủ để trả tiền ăn học cho anh, nên khi học xong tú tài, anh đã bắt đầu làm việc tại các công trường cùng với Jimmy. Cuộc sống thường nhật của anh là các bao xi măng, dàn giáo, là mồ hôi và những lời chửi mắng của đốc công. Giải trí ư? Làm vài vại bia sau giờ làm, đưa Marisa đi siêu thị, mỗi tuần chơi bowling hai lần với đám bạn. Hơi lơ đễnh một chút, đầu óc trên mây trên gió và bị thôi miên bởi ánh đèn, anh để kệ cho dòng người cuốn đi. Trên màn hình đang nhấp nháy những đoạn quảng cáo các loại xe hơi mà anh sẽ không bao giờ được cầm lái, những chiếc đồng hồ đeo tay xịn giá gấp mười lần lương của anh, những áo xống dành cho các phụ nữ thanh tao sẽ không bao giờ hạ cố liếc anh. Tương lai ư? Sẽ là một đám cưới không tình yêu say đắm, hai hoặc ba đứa nhóc ra đời, cày như điên để trả khoản vay bất động sản được dùng vào việc mua một chái nhà mà anh sẽ không thích. Và anh sẽ lại tiếp tục chơi bowling, uống bia, làm việc cùng với Jimmy nhưng không hề thực sự để tâm vào công việc đó. Anh mới hai mươi ba tuổi đầu mà đã bị phết dính chặt vào một cuộc sống không tương xứng với anh. Đã từ lâu, anh cảm thấy khác với thế giới xung quanh mình. Không phải anh khinh thường gia đình hay bè bạn. Chuyện này hoàn toàn khác, anh cảm thấy nhục nhã vì nghèo khó và đó là nỗi nhục thường trực. Chuyện đó chả tác động gì đến Marisa lẫn Jimmy, hai người vẫn thích nhắc đi nhắc lại: "Có thể chúng ta nghèo, nhưng ít ra chúng ta cũng hạnh phúc". ... Mời các bạn đón đọc Trở Lại Tìm Nhau của tác giả Guillaume Musso.
Nữ Sinh - Dazai Osamu
Sau “Tà dương” và “Thất lạc cõi người”, chúng tôi xin được giới thiệu đến quý độc giả một tác phẩm tiêu biểu nữa của Dazai là “Nữ sinh” cùng với năm truyện ngắn xuất sắc khác. Hầu hết các truyện trong tuyển tập đều có nhân vật chính là nữ với những miêu tả tâm lý hết sức tinh tế và cao sang. Không những thành công với thể loại tự truyện (tư tiểu thuyết), Dazai còn chứng tỏ bản lĩnh bậc thầy của mình trong việc am hiểu tâm lý phụ nữ xứ Phù Tang. Qua tác phẩm của Dazai, tâm hồn Nhật Bản; vốn kiềm nén và khép kín, có thể hiện cũng rất cô đọng, như thơ Haiku, như kịch No, như phim của Ozu; lại được chuyên chở qua ngôn ngữ của văn chương một cách dịu dàng nhưng không kém phần mãnh liệt. Truyện “Nữ sinh” được dịch từ nguyên tác “Nữ sinh đồ” (女生徒) trong tập truyện ngắn “Nữ sinh” (女生徒) do Nhà xuất bản Kadokawa (角川文庫) tái bản có sửa chữa lần thứ năm năm Bình Thành 21 (2009). Tác phẩm này được đăng tải lần đầu tiên trên tạp chí “Văn học giới” số tháng 4 năm 1939. Dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết thành một truyện vừa xuất sắc nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ. Tác phẩm khắc họa rất thành công tâm lý bi quan hay trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì với một văn phong vô cùng tinh tế. Chính vì vậy, ngay từ khi ra đời, tác phẩm được giới văn nghệ thời bấy giờ, tiêu biểu là văn hào Kawabata Yasunari vô cùng tán thưởng. Đến năm sau, 1940, tác phẩm được giải nhì của giải thưởng văn học Kitamura Tokoku[1]. Tác phẩm đã được tái bản rất nhiều lần và luôn được các độc giả nữ yêu thích cho đến nay. Bản thân tập nhật ký của Ariake đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cũng như “Nữ sinh”, sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lý phụ nữ của Dazai một lần nữa được thể hiện qua truyện “Nữ tác gia”. Tâm lý của một cô gái nuôi mộng văn chương hiện ra thật sinh động và thú vị vô cùng. Là chứng nhân của cuộc thế chiến tàn khốc và là nạn nhân của thời cuộc, Dazai đã đưa những trải nghiệm cay đắng của mình vào tác phẩm. Truyện ngắn “Tờ tiền giấy” nói về sự đảo điên của cuộc thế chiến nhưng vẫn có một tia sáng ấm áp nhỏ nhoi của tình người. Qua hai tác phẩm “Một ngày trọng đại” và “Người vợ” những tâm tình của người phụ nữ Nhật Bản trong ngày mở màn cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, hay khi bị chồng phản bội đều hiện ra hết sức chân thật. Riêng truyện “Một chuyến đi” nói về nhà văn Kasai, một chân dung tự họa của Dazai, qua đó chúng ta thấy được phần nào sự cố gắng của tác giả trong việc theo đuổi văn chương, nhiều khi không phải vì đam mê mà còn vì sinh kế nữa. Như vậy là sau ba năm ròng rã đọc và dịch Dazai, chúng tôi đã giới thiệu đến quý độc giả những tác phẩm chính yếu, xuất sắc nhất của ông, cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Chỉ riêng một số thư từ, vài truyện ngắn khác như “Kỷ niệm” (思い出), “Vợ của Villon” (ヴィヨンのつま) và vở kịch “Pháo hoa mùa đông” (冬の花火) là chưa được dịch và giới thiệu. Hy vọng những tác phẩm đó sẽ được bổ sung đầy đủ khi ấn hành tuyển tập tác phẩm của Dazai trong tương lai. Nagoya, tháng 9 năm 2012 Hoàng Long *** Truyện “Người vợ” được dịch từ nguyên tác “Osan” (おさん) trong tập truyện ngắn “Nữ sinh” (女生徒) do Nhà xuất bản Kadokawa (角川文庫) tái bản có sửa chữa lần thứ năm năm Bình Thành 21 (2009), từ trang 215 đến trang 236. Nguyên văn Osan là tên người vợ của Kamiji (紙治) trong vở tuồng “Joururi” (浄瑠璃) “Tự sát đôi ở Amijima” (Shinjuten no Amijima - 心中天の網島), được dựa trên câu chuyện có thật. Kamiji vốn là một thợ buôn giấy ở Tenma Osaka, qua lại thân mật với một cô du nữ tên Koharu (小春), bị dằn vặt giữa nàng với người vợ trinh thục Osan, cuối cùng cùng với Koharu tự sát đôi ở chùa Daichouji (大長寺)ở Amijima Mời các bạn đón đọc Nữ Sinh của tác giả Dazai Osamu.
Những Công Chúa Prada - Jasmine Oliver
Năm học đầu tiên của bộ ba xinh đẹp tại trương thời Trang sắp kết thúc. Marina - cô tiểu thư duyên dáng của một gia đình nền nếp đã chọn cho mình ngành thiết kế giày. Sinead - cô con gái của một bà mẹ nổi tiếng trong làng thời trang cũng quyết định theo ngành thiết kế quần áo. Còn Frankie - cô em bốc đồng của bộ ba lại đi theo chuyên ngành nữ trang. Nhưng họ đang phải đối diện với nhiều chuyện phiền phức, áp lực học hành, bố mẹ ngoại tình, bạn trai lừa gạt, người yêu hiểu lầm... Họ chỉ mới 18 tuổi. Họ sẽ phải làm gì để vượt qua những rắc rối "người lớn" ấy? *** Bộ sách ​Câu Chuyện Thời Trang gồm có: Câu Chuyện Thời Trang Tập 1: Những cô nàng Gucci Câu Chuyện Thời Trang Tập 2: Những thiên thần Armani Câu Chuyện Thời Trang Tập 3: Những công chúa Prada *** “Thôi đi!” Marina gắt Travis. Travis đã thế càng dí sát camera vào mặt cô hơn. Marina thè lưỡi vào ống kính, “Đang bận muốn chết đây này!” Cô đang bù đầu bù cổ thiết kế giày cho cuộc triển lãm cuối năm; mặt mũi nhợt nhạt không son phấn cũng chẳng mascara; tóc vàng xổ tung vì không xong việc, ấy thế mà Travis - bạn trai của Sinead - lại còn cứ quay phim, mà quay mọi khoảnh khắc rã rời mới khổ. “Tớ là ruồi-trên-tường mà!” Travis bảo Marina. “Truyền hình thực tế nó phải thế!” “Để người ta yên với chứ!” Frankie rên rỉ. Travis đã lẵng nhẵng bám theo bọn cô 24/24 suốt hai tuần qua, hết lăm lăm máy quay kỹ thuật số vào mặt Frankie trong lúc cô đang trang điểm để chụp ảnh thời trang, lại chộp lúc cô đang lả lướt trên sàn catwalk ở McCartney và Manolos. “Nhìn đây nhìn đây,” Travis gọi Frankie trong buồng thay đồ chật hẹp ngay lúc cô đang nhét mình vào một bộ Donna Karan [1] xanh rực rỡ. Frankie xỉa thẳng ngón tay về phía anh chàng. “Quá duyên!” Travis phá ra cười, rà máy quay lại gần hơn nữa. “Làm lại đi, Frankie! Những lúc nổi cáu trông em thật hấp dẫn!” “Tắt cái đó ngay!” Sinead thở dài. Cô ngồi thu cả hai chân lên ghế xô-pha nhà Travis sau một ngày phờ phạc trên giảng đường. Chỉ còn hai tuần nữa là tới cuộc Triển lãm Năm Nhất, thế mà giờ cô vẫn còn phải vật vã thuyết phục đám giáo viên hướng dẫn rằng những gì cô trình bày với họ thực sự là nghiêm túc. “Ý em là sao... không một mảnh vải á?” thầy Tristan Fox cau mày. “Dạ, không vải, không da thú, không trang sức - chỉ mỗi tranh vẽ trên cơ thể,” Sinead khẳng định. Từ lâu cô đã nung nấu ý định vẽ lên chính cơ thể mình những hoa văn thần kỳ bằng màu lá móng cùng các loại màu thiên nhiên khác. Xong xuôi, Travis sẽ chụp hình cô, và những bức ảnh đó sẽ được trưng bày trong cuộc triển lãm. “Em nên nhớ đây là đại học Thời Trang !” thầy Tristan nhắc nhở. “Thế thì sao ạ? Chẳng phải vẽ trên cơ thể là nền móng để ngành thời trang phát triển sao thầy? Xăm mình đấy, xỏ khuyên đấy...” Sinead tin chắc là mình đúng, và cuối cùng thầy Tristan đành phải nhượng bộ. “Sao anh cứ quay em mãi thế?” giờ thì Sinead bắt đầu cáu với Travis. Cô giấu gương mặt vào hai bàn tay. Travis cứ lẵng nhẵng bám theo cô khắp nhà, thậm chí còn vào cả buồng tắm, tới mức cô phải đóng sầm cửa lại trước mũi anh chàng. “Vì em đẹp,” Travis nịnh. Từ những đường chỉ tay, đến đôi môi trông như hờn dỗi, đến mái tóc vàng mềm mại. Chiếc máy quay phim của Travis mê mệt đến từng chi tiết. “Thôi, thôi ngay đi!” Sinead gắt. Nhưng mặc cho cô lấy gối che mặt, Travis vẫn tiếp tục ghi hình. ... Mời các bạn đón đọc Những Công Chúa Prada của tác giả Jasmine Oliver.
Ngày Mai Không Hẹn Trước - Debbie Macomber
"Thậm chí những độc giả khó tính nhất cũng sẽ tích cực ủng hộ những phụ nữ trong câu chuyện tràn đầy niềm hy vọng này trong lúc len lén chùi nước mắt và thầm bay bổng với những giấc mơ riêng.” - Booklist Ngày mai không hẹn trước thả một mảnh ghép bí hiểm vào tấm kính vạn hoa của Vịnh Cedar: Đang bằng lòng với cuộc sống êm đềm, Grace Sherman đột ngột bị ném vào vòng xoáy bi kịch đầy khiêu khích, khi người bạn tình của nàng bỗng dưng biến mất như một kẻ lẩn trốn trách nhiệm sau đêm ái ân vụng trộm. Đau khổ, nhớ tiếc và trên hết là tổn thương, nàng quyết đi tìm cho ra sự thực. Trong lúc ấy, cách Grace không xa, Justine và Seth đang giằng co trong mối quan hệ lơ lửng của họ. Seth có thể khiến Justine mê muội dưới nụ hôn của mình, chàng sẵn sàng luồn đôi bàn tay ma quỷ vào khắp ngóc ngách trên thân thể nóng bỏng của người yêu, nhưng cũng sẵn sàng dứt bỏ đỉnh cao hoan lạc khi nàng chỉ coi chàng là sự thoả mãn nhất thời. Con người dễ bị cuốn theo những ham muốn phù phiếm, liệu họ có thức tỉnh đúng lúc để đi đến tận cùng tình yêu đích thực của mình... *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Những lời ca ngợi dành cho tiểu thuyết của Debbie Macomber “Thật thú vị khi phát hiện ra một nhà văn không hề dựa vào tình dục và những hành động báng bổ để viết nên những câu chuyện hấp dẫn tuyệt vời.” – G.Schmorleizt, một độc giả ở California đã vượt qua chứng trầm cảm nhờ đọc tiểu thuyết “Tiểu thuyết lãng mạng của Debbie Macomber rất mới lạ vì cách phát triển đầy thực tế, nhẹ nhàng và mãnh liệt của câu chuyện. Nó vươn mình trong thế giới tình yêu, một thế giới cho phép sự say mê, đắm đuối phát triển thành một thứ gì đó tồn tại mãi mãi và đủ đặc biệt để vượt qua mọi khó khăn thử thách!...” – CrystalRiviers.com “Những cuốn sách trong loạt truyện về Vịnh Cedar của Macomber giống như một hộp bánh nướng Krispy Kreme: nhừ và mịn nhưng cực kỳ ngon và càng ăn càng nghiện.” – Publishers Weekly “Đôi khi lối kể chuyện của Macomber khiến người ta trào nước mắt, có lúc lại khiến người ta mỉm cười.” – Newport News, VA, Daily Press *** Grace Sherman đang ngồi trong văn phòng luật sư, trân trối nhìn tờ đơn xin ly hôn. Cô con gái lớn Maryellen đi cùng chị để xem có giúp gì được cho mẹ không. Grace tự nhủ rằng chuyện này cần phải giải quyết một cách thẳng thắn và cởi mở, thế là chị đi đến quyết định. Chị đã sẵn sàng chấm dứt cuộc hôn nhân này, sẵn sàng bù đắp lại những khoảng thời gian đã mất. Mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu... Vậy mà đến khi cầm bút lên, chị lại thấy tay mình ngập ngừng. Thật lòng mà nói, Grace không mong muốn chuyện này xảy ra, thế nhưng Dan đã không cho chị một lối thoát nào khác. Cách đây năm tháng, khoảng tháng Tư gì đó, người chồng đã chung sống với chị gần ba mươi sáu năm tự nhiên mất tích. Ngày hôm trước mọi chuyện vẫn còn yên lành, nhưng hôm sau anh ta đã đi biệt dạng. Rõ ràng Dan đã có sự lựa chọn từ trước nên không để lại một lời nhắn nhủ hay giải thích nào. Thậm chí cho đến giờ phút này, Grace vẫn thấy khó mà tin nổi tại sao người chồng mà mình đã cùng đầu ấp tay gối, người đàn ông mà chị vô cùng yêu thương, và đã có chung hai mụn con gái lại nỡ lòng hành động tàn nhẫn đến như vậy. Ví thử không còn được Dan yếu thương nữa thì Grare lại có thể chấp nhận được. Chị sẽ giải thoát cho anh mà vẫn có thể ngẩng cao đầu với vẻ tự hào và sự độ lượng mà không hề cảm thấy cay đắng. Ví như Dan vật vã khổ sở trong mối quan hệ hôn nhân này, Grace cũng vui vẻ giải phóng cho anh tự do đi tìm hạnh phúc với người phụ nữ khác. Nhưng điều Grace không thể tha thứ chính là nỗi đau Dan đã chất đầy lên vai những người trong gia đình, cho những cô con gái đáng yêu của họ, đặc biệt là Kelly. Dan đã biến mất ngay sau khi Kelly và Paul báo tin mừng cho cả nhà. Trải qua bao nhiêu năm mong đợi mỏi mòn, cuối cùng Kelly cũng đã mang bầu. Dan xúc động biết bao, và Grace cũng thế. Đứa trẻ này sẽ là đứa cháu đầu tiên của họ sau ngần ấy tháng ngày chờ đợi. Kelly lúc nào cũng gần gũi với bố. Vậy mà bỗng dưng Dan biến mất, đúng vào thời khắc quan trọng trong cuộc đời con bé và khiến nó đau khổ thế này. Kelly đã khẩn này Grace hoãn lại vụ ly dị, cô cố thuyết phục mẹ rằng bố sẽ trở về trước khi bé Tyler ra đời. Rằng khi ấy, chắc chắc Dan sẽ có lý do chính đáng và sẽ giải thích ngọn ngành mọi chuyện. Nhưng Dan vẫn bặt vô âm tín, chẳng hề có tin tức gì hết, khiến Grace rơi vào trạng thái đầy rẫy nghi ngờ, băn khoăn thắc mắc và cả giận dữ điên cuồng trong những tuần liên tiếp sau đó. Khi không thể chịu đựng thêm được nữa, Grace đã thuê Roy McAfee, một cảnh sát đáng tin cậy hiện đang hành nghề thám tử tư, Roy đã lập tức tiến hành việc tìm kiếm. Anh ta tin chắc Dan phải để lại dấu vết gì đó trên các giấy tờ và anh ta đúng. Tình tiết mà Roy tìm thấy đã gây cho Grace một cứ sốc mạnh. Một năm trước, Dan mua một chiếc xe moóc và thanh toán bằng tiền mặt. Grace không hiểu Dan kiếm đâu ra số tiền này và cũng chẳng biết gì về chiếc xe đó cả. Chị chưa bao giờ nhìn thấy nó và cũng chưa hề nghe chồng đả động đến lần nào. Dan giấu giếm chiếc xe trong suốt ngần ấy tháng trời mà Grace chẳng biết gì, và bây giờ nó ở đâu chị cũng không biết. Trước những bằng chứng liên tiếp như vậy, Grace càng có lý do để củng cố nghi ngờ của mình. Chị nghi Dan đã dùng chiếc xe này lén lút trốn đi với một người đàn bà khác. Hồi cuối tháng năm, đã có người trông thấy anh ta. Grace linh cảm rằng chính chồng mình đã dàn dựng màn xuất hiện ngắn ngủi đó, như thể chế giễu, thách đố chị tìm ra anh ta. Đó là một ngày tồi tệ nhất trong cuộc đời Grace. ... Mời các bạn đón đọc tập thứ hai của bộ sách Chuyện tình Vịnh Cedar: Ngày Mai Không Hẹn Trước của tác giả Debbie Macomber.