Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cháu ông Rameau - Denis Diderot

Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dòng Sông Thơ Ấu
Hai Quang bị xã hội cũ đẩy vào tầng lớp lưu manh, làm dân anh chị ở bến xe rồi bị tù.Tuy nhiên bản chất là người lương thiện nên những hành động anh chị của Hai Quang đều có nét hào hiệp. Được cách mạng giác ngộ, anh trở thành một chiến sĩ kiên cường. Ông Tư Ghe vốn là học trò thầy giáo cách mạng Châu Văn Liêm, ông đã từng dẫn đầu các đoàn biểu tình và phanh ngực ra trước mũi giặc: “Cái ngực đồng của tau đây nè, bắn đi!”. Thế mà khi cách mạng thoái trào, anh em bị khủng bố thì ông theo Hòa Hảo, hãnh tiến và cuồng tín trong “sứ mệnh” truyền đạo của mình. Hai nhân vật chính của thiên tiểu thuyết, với những mâu thuẫn về quan điểm sống và chịu tác động của dòng đời đưa đẩy, là hai số phận điển hình trong thời Kháng chiến. Từ góc nhìn của nhân vật, tác giả đã khéo trình bày những sự kiện lịch sử và những đấu tranh trong lòng người thay đổi theo thời gian, như con sông khi trôi khi đục, chảy đi mang theo tất cả. "Bức tranh quê hương trong tiểu thuyết Dòng Sông Thơ Ấu sở dĩ sinh động vì đều là những hồi ức có thật. Tui theo kháng chiến 30 năm, mỗi khi nghe trên thế giới có dòng sông cạn thì tui lại nghĩ không biết dòng sông bên nhà mình ra sao. Dòng sông thời nhỏ của tui trải qua hai cuộc chiến tranh vẫn tràn trề sức sống. Ban đầu, tui viết dòng sông đó trong Đất lửa, Nguyễn Tuân chê "hiền quá". Sau ngày miền Nam giải phóng, tui đưa Nguyễn Tuân về ngồi nhậu trước nhà tui ngó ra dòng sông. Chỉ nghe loáng thoáng vài câu chuyện sông nước thôi, Nguyễn Tuân đã nhắc: 'Dòng sông là nguồn cảm hứng của văn chương Nam Bộ đấy, viết tiếp đi!' Năm 1980 tui viết những chữ mở đầu Dòng Sông Thơ Ấu..." - nhà văn Nguyễn Quang Sáng *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Thơ Ấu của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Mùa Gió Chướng
Tác phẩm Mùa Gió Chướng này được ông viết vào năm 1975. Cuốn sách mô tả tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống lại sự đàn áp, ý đồ dời dân lập ấp của kẻ địch. Cuộc đấu tranh đó đã trải qua nhiều gian nan, thử thách, biết bao hy sinh mất mát. Tiểu thuyết Mùa gió chướng đã từng được dịch sang tiếng Nga. Tác phẩm này cũng được đạo diễn Hồng Sến dựng thành phim. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Mùa Gió Chướng của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Cánh Đồng Hoang
Bối cảnh chính Cánh Đồng Hoang là vùng Đồng Tháp Mười trong những ngày diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam. Vợ chồng Ba Đô và đứa con nhỏ sống trong một căn chòi nhỏ giữa dòng nước. Họ được phía Cách mạng Việt Nam giao nhiệm vụ giữ đường dây liên lạc cho bộ đội. Tác giả tập trung khai thác nhiều vào cuộc sống thường ngày của đôi vợ chồng như việc trồng lúa, nuôi con, bắt trăn, bắt cá nhưng xen kẽ vào đó còn có những cảnh trực thăng của quân đội Mĩ quần thảo khu vực đồng nước này nhằm phát hiện đội du kích hoạt động. Khi Ba Đô bị trực thăng Mĩ bắn trúng, để trả thù cho chồng, vợ Ba Đô đã bắn cháy chiếc trực thăng. Cánh đồng hoang là một truyện vừa về đề tài Chiến tranh Việt Nam của Việt Nam. Không gian đề cập tới trong bộ phim chỉ vỏn vẹn trong chu vi của một cánh đồng hoang, nhưng lại khai thác cả không gian từ dưới nước (phía dưới mặt nước cánh đồng) đến tận trên không (nơi máy bay Mỹ đang quần thảo). Tác phẩm mang tính cô đọng, khái quát cao, tả rõ tội ác của đế quốc Mỹ và lột tả tình cảm gia đình, tình cha con, tình vợ chồng sâu sắc và thắm thiết, nói lên việc mặc dù chiến tranh khốc liệt và sự hiểm nguy hằng ngày rình rập vẫn không thể ngăn nổi sự hồn nhiên, yêu đời trong cuộc sống của người dân thường yêu nước. Xuyên suốt cuốn sách là sự giằng co chiến đấu về cả sắc thái tinh thần giữa hai bên, một bên là gia đình đầm ấm của Ba Đô, với cảnh vợ chồng âu yếm nhau và đứa con luôn được cho bú với một bên là cảnh gầm rú và bắn phá khốc liệt của máy bay được trang bị đầy súng đạn. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của nhân dân đất nước Việt Nam nghèo, nhỏ chống lại một thế lực lớn và giàu là đế quốc Mỹ. Với hai hình ảnh này, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chứng minh sinh động một nghịch lý vẫn được xem như là một bản sắc độc đáo và nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Cánh Đồng Hoang của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Mang Thai Tuổi 17
"Tuổi thanh xuân giống như một cơn mưa rào. Dù cho bạn từng bị cảm lạnh vì tắm mưa. Bạn vẫn muốn đắm mình trong cơn mưa ấy..." Tác giả của tiểu thuyết đang được dựng thành phim "Ngốc ơi tuổi 17!" cho biết những câu chuyện nổi cộm trên mạng xã hội đã gợi tứ cho cô viết tác phẩm. Mới đây, bộ phim điện ảnh Ngốc ơi tuổi 17 đã được bấm máy. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết Mang thai tuổi 17 của Võ Anh Thơ. Nhân dịp này, tác giả trẻ chia sẻ về tác phẩm, con đường sáng tác, và quan điểm về viết lách.   Tiểu thuyết Mang thai tuổi 17 có tựa gốc là Nhật ký mang thai khi 17 mà tôi ấp ủ từ năm 2012, đến tháng 4/2013 mới bắt tay viết. Nguồn cảm hứng đến từ những bài viết trên các báo mạng, xoay quanh vấn đề mang thai sớm, khi đọc tâm sự của các em nhỏ, tôi rất xúc động nên quyết định viết về đề tài khá “nhạy cảm” này. Tôi viết truyện này cũng vì cô bạn tiểu học của mình từng mang thai năm 17 tuổi. Tác phẩm được hoàn thành trong khoảng bốn tháng. Do mỗi ngày đều viết nên thời gian hoàn thành không quá lâu. Trong quá trình viết, tôi phải liên tục tìm hiểu nhiều thứ: về que thử thai, khám thai ở các bệnh viện như thế nào, kiến thức chăm sóc em bé, sự thay đổi của phụ nữ khi mang thai ra sao, các lớp học tiền sản dạy những gì, đặc biệt là đọc nhiều những bài tâm sự của những em nhỏ mang thai sớm..v..v.. *** Võ Anh Thơ sinh năm 1991, hiện sinh sống và viết văn tại TP.HCM. Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ năm học cấp 2, tới nay là tác giả của nhiều tiểu thuyết như: Hạ tuyết, Mang thai tuổi 17, Nữ hoàng tạo mẫu tóc, Gái xấu công sở, Người mẹ được gửi từ thiên đường, Lời hứa thủy chung... cùng một số tập truyện vừa, truyện ngắn in chung khác. Tác phẩm: Hạ Tuyết Nhật Ký Mang Thai Tuổi 17 Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc Lời Hứa Thủy Chung Gái Xấu Công Sở Người Mẹ Được Gửi Từ Thiên Đường Làm Dâu Nhà Ma Để Được Yêu Nam Phụ, Nguyện Không Làm Nữ Chính (1970) Chú Hãy Ngủ Với Tôi Gặp Anh Là Điều Đẹp Nhất Của Thanh Xuân - Stay With You 2003 Thanh Mai Không Lấy Trúc Mã (1802) Tâm Ý Thành Từ Bi Khúc Trừng Phạt (Punishment) Bướm Báo Thù (Điệp Tử) Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love Đời Bình An (1972) ... *** Tôi tên Min Min. Đó chỉ là biệt danh, nghe dễ thương đó chứ. Tên thật của tôi không xấu nhưng tôi thích mọi người gọi mình là Min Min hơn. Tôi học lớp 11 tức năm nay 17 tuổi. Quả thật tôi không thích cái câu ông bà hay bảo: tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu. Thay vì làm việc vô nghĩa đó tôi thà đi thi hoa hậu thế giới còn sướng hơn. Số đo 3 vòng của tôi không được hoàn hảo, phải chăng vì thế mà tôi chưa có bạn trai. Đời chán quá! Chiều nay tan học vừa bước chân vô nhà tôi đã nghe âm thanh ồn ào, hệt như chạy giặc. Nhà tôi chỉ có 5 người mà nhốn nháo như chuồng gà. Suốt ngày cứ nghe oang oang giọng cha mẹ rồi đến hai thằng em sinh đôi trời đánh. "Ông tháng này chưa đưa tiền tôi" "Gì? Tôi mới đưa hôm trước, bà xem lại đi" "Xem rồi, không có" "Thì bà cứ vào xem lại lầnnuwax cho chắc ăn" "Ơ hay, ông điếc à? Đã bảo không là không, có xem mấy lần cũng thế thôi" Cha mẹ luôn mang tiền bạc ra làm chủ đề tranh cãi, một ngày gần chục bận chứ chả ít. "Con nhỏ này đẹp quá anh ha" "Ai? Con đó hã? Xấu òm, đẹp nỗi gì" "Em thấy vậy là xinh rồi, bữa nào cưa nhỏ thử" "Mày sinh ra uổng quá, có mắt mà như đui" "Chỉ có kẻ hay xem ảnh nude như anh mới bị mù" "Mày coi nhiều hơn tao còn nói gì chứ" Còn đây là cuộc trao đổi mất nết giữa hai thằng em sinh đôi 14 tuổi của tôi. Thằng bên phải tên Huy Hoàng nhưng tôi thấy đời nó giống điêu tàn hơn, còn thằng bên trái tên Quang Vinh, tiếc là nó không phải ca sĩ. Huy Hoàng và Quang Vinh suốt ngày bàn tán về việc cua gái. Nghe mấy câu thô thiển của chúng mà tôi muốn đi đầu xuống đất. Sao tôi không có em gái nhỉ? Không phải vì tôi thích em gái mà chí ít, nó sẽ không thù dai như hai thằng tiên sư trời đánh kia. Cuộc sống của tôi nhàm chán, vô vị dễ sợ! Sáng đi học, nhồi nhét mớ kiến thức to còn hơn núi vào đầu. Quanh đi quẩn lại toàn thấy mấy gương mặt quen thuộc muốn bị mốc cả lên, từ thầy cô qua bạn bè. Chiều về nhà thì nghe cha mẹ và hai thằng em hợp thành cái chợ bà Chiểu. Ông bà hay nói: Hai người đàn bà cộng con vịt ra cái chợ. Nhà tôi có một người đàn bà với ba đàn ông mà ra tới... 4 cái chợ! Giả sử có thêm con vịt nữa thì tôi thề trên bộ tóc giả của mẹ mà tôi lỡ dùng làm giẻ lau là tôi sẽ lên nóc nhà sống. Đời tôi cứ trôi qua 1 cách nhạt nhẽo đơn điệu. Ngày nào cũng như ngày đó. Tôi ước giá như nó xuất hiện sự thay đổi lớn, cái gì đó thật chấn động ấy. Bước ngoặc đổi thay. Chiều qua con bạn thân Thuý Nga bói cho tôi quẻ bài Tarot. Phải công nhận, con này có số làm... bà bói. Nhìn dáng ngồi chân trên chân dưới, mặt mày thỉnh thoảng nhăn như khỉ là tôi biết trước tương lai của nó khỏi cần bói chi mệt. Thuý Nga bói khá ứng nghiệm, có điều ứng toàn những thứ xui xẻo rùng rợn. "Bà sắp gặp chuyện lớn. Rất lớn! Đến nỗi sẽ làm cuộc sống của bà thay đổi hoàn toàn" "Chuyện gì?" "Cũng không rõ nhưng hình như liên quan đến trai" "Ồ! Hay mình sắp gặp 1 công tử nhà giàu, đẹp trai, lạnh lùng?" "Chắc vợi" Vậy là có thứ để tôi hi vọng rồi. Tôi chắp tay vái trời vái đất cho điều ấy xảy ra để kết thúc vòng quay nhàm chán mình đang có. Nếu được thế thì tôi hứa danh dự không lén lấy quần bông của thằng Vinh ra cắt mỗi khi nó chơi trò trả đũa tôi. Mời các bạn đón đọc Nữ Hoàng Tạo Mẫu Tóc của tác giả Võ Anh Thơ.