Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Đàn Bà Trong Cồn Cát (Kobo Abe)

“Người đàn bà trong cồn cát” được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director.

Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh.

Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xóa sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình”, châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó.

Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng.

Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này. Tìm mua: Người Đàn Bà Trong Cồn Cát TiKi Lazada Shopee

Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi “tại sao Niki chọn ở lại” to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao!***

Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”.

Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist.

Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản.

Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974).

Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.

Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người.

Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1]

Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966).

Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993.

Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.

Hà Nội, Mùa hạ 2009Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Kobo Abe":Bọn Chiếm ĐóngChiếc Thuyền Nô-ÊKhuôn Mặt Người KhácNgười Đàn Bà Trong Cồn Cát

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Trong Cồn Cát PDF của tác giả Kobo Abe nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn
Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn – Mark Twain Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn được đánh giá là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong nền văn học Hoa Kỳ. Câu chuyện về cậu bé Huck thông minh, dũng cảm, nhân hậu và Jim, người bạn da đen của Huck trên con sông Mississippi và miền đất dọc theo dòng sông này. Bạn đọc sẽ có nhiều phen thót tim và hồi hộp với những câu chuyện đầy hấp dẫn, ly kỳ của Huck cùng và Jim. Ngay từ khi được xuất bản, Huckleberry Finn đã gây nhiều tranh cãi. Thư viện tại Concord, Massachussetts đã cấm lưu hành quyển này sau khi nó được xuất bản vì “đề tài lòe loẹt”. Những tác phẩm văn học hay: Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới Dế Mèn Phiêu Lưu Ký Tuy nhiên, tờ báo San Francisco Chronicle đã biện hộ quyển này. Tuy đề tài của cuốn này rõ ràng chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nó dùng một số từ ngữ của thời đó mà thời nay bị xem là miệt thị (chữ “nigger” được dùng 215 lần). Vì thế, một số cá nhân và tổ chức không quen thuộc với nội dung tác phẩm cho rằng nó phân biệt chủng tộc và vận động cấm lưu hành quyển này tại thư viện cũng như tại nhà trường. Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc tác phẩm văn học Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Đừng quên chia sẻ cuốn sách này đến thật nhiều người và đăng ký email nhận sách hay mỗi tuần nhé.
Xứ Cát
Xứ Cát là một trong những cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn tiểu thuyết không chỉ là lựa chọn đối với những tín đồ của Chúa nhẫn, Chiến tranh giữa các vì sao… mà còn chinh phục độc giả đủ mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp và sở thích bởi sự đa dạng và phức tạp của con người và không gian trong truyện. Đôi nét về tác giả Franklin Patrick Herbert, Jr. là nhà văn khoa học giả tưởng lừng danh người Mỹ, vừa được giới phê bình ca ngợi vừa rất thành công về mặt doanh thu. Ông sinh ngày 8/10/1920 ở Tacoma, bang Washington. Ông bắt đầu làm báo ngay từ năm 19 tuổi và theo đuổi công việc này gần trọn cuộc đời. Ngoài làm báo, chụp ảnh, phát thanh viên, Herbert còn làm cả những nghề như thợ lặn bắt hàu, chuyên viên hướng dẫn kỹ năng sống sót trong rừng rậm, những nghề không mấy liên quan đến văn chương. Năm 1947, Frank Herbert gửi truyện ngắn khoa học giả tưởng đầu tiên của mình là Looking for Something cho tạp chí Startling Stories. Sự nghiệp tiểu thuyết của ông khởi đầu với việc ấn hành cuốn Rồng ở biển (The Dragon in the Sea) năm 1955. Cuốn sách đã tiên báo những cuộc xung đột trên toàn cầu trong việc tiêu thụ và sản xuất dầu lửa. Herbert bắt đầu nghiên cứu để viết Xứ Cát năm 1959. Thời gian này, ông “chịu ơn” Beverly, người vợ tâm đầu ý hợp đã tận tụy gánh vác trách nhiệm là lao động chính nuôi gia đình trong suốt thập niên 1960 để ông có thể dành thời gian và tâm lực cho viết lách. Ý tưởng về cuốn tiểu thuyết hình thành vào thời gian ông được tòa soạn giao viết một bài nói về những cồn cát ở Oregon Dunes gần Florence, bang Oregon, nhưng rốt cuộc ông đâm ra mê đắm vào đề tài đó và thu thập quá nhiều tư liệu so với mức cần thiết cho một bài báo. Dù ông không hoàn thành bài báo này nhưng chính nó là hạt nhân cho những ý tưởng rồi ra sẽ dẫn tới Xứ Cát. Nội dung tiểu thuyết Xứ Cát chinh phục độc giả bởi sự tinh tế trong xây dựng tâm lý, bởi sự hấp dẫn, căng thẳng và bất ngờ của cốt truyện, bởi sự độc đáo và thú vị của khối lượng kiến thức khổng lồ cũng như bởi sự hấp dẫn trong những tư tưởng về tôn giáo, về tự do, về tình yêu, về sự sống và cái chết. Ngay sau khi ra đời, Xứ Cát đã nhanh chóng được giới phê bình nhiệt liệt chào đón, được trao giải Nebula dành cho tiểu thuyết khoa học giả tưởng hay nhất năm 1965, rồi năm sau lại đoạt giải Hugo. Xứ Cát đã được bán hàng triệu bản và trở thành tiểu thuyết khoa học giả tưởng bán chạy nhất mọi thời đại. Cũng như J.J. Tolkien đã tạo ra cả một vũ trụ riêng, hoàn toàn khác biệt – Middleworld – cho Lord of the Ringđồ sộ của ông, Frank Herbert khai sinh cả một vũ trụ mênh mông, kỳ vĩ của riêng mình – Dune Universe – làm bối cảnh cho loạt truyện lừng danh Xứ Cát. Vũ trụ đó quá rộng lớn không thể nào tóm gọn trong khuôn khổ một bài viết, và thậm chí bản thuật ngữ mà chính ông cung cấp cho độc giả ở cuối Xứ Cát cũng còn xa mới gọi là đủ để có được một hình dung tạm gọi là khái quát về nó. Đọc Xứ Cát đòi hỏi một niềm đam mê thực sự, cũng như một cam kết nghiêm túc và lòng kiên nhẫn. Bạn đọc biết tiếng Anh có thể (và cần phải) tham khảo các nguồn như Wikipedia hầu tìm hiểu sâu hơn về Vũ trụ Dune, lĩnh hội và hân thưởng đầy đủ hơn kích thước đồ sộ và mức độ tinh vi khó lường của nó. Xứ Cát đích thực là một tác phẩm kinh điển của văn chương khoa học giả tưởng, và, về thực chất, là một cuốn sách kinh điển của văn chương. Review tiểu thuyết Xứ Cát Văn phong kể chuyện cuốn hút mạch lạc đúng chất kinh điển với ngôn ngữ miêu tả tỉ mỉ cùng rất nhiều thông tin kèm theo khiến cho thế giới của Dune sống động hơn thế giới Trung Địa của bộ truyện Chúa Nhẫn. Tuy nhiên, chính sự đồ sộ của tác phẩm mà để cảm nhận được tốt nhất trước tiên hãy xem phim dù phim không lột tả được hết toàn bộ tác phẩm và đọc các phần phụ lục để có được cái hình dung tổng quan trước khi thả mình vào thế giới của Xứ Cát. Tác phẩm xoay quanh nhiều yếu tố chính trị tôn giáo nên sẽ không nhẹ nhàng kiểu Harry Potter được vì thế để thấy nó hay cần phải chuẩn bị tâm thế và hãy đọc nó từ tốn chứ đừng đọc nó ào ào. (Việt Phương) Lần đầu đọc một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng và nội dung thì thật hay và rộng lớn bao trùm trên nhiều khí cạnh. Thật bất ngờ là tác giả đã viết cuốn sách từ rất lâu rồi dù đến tận bây giờ mới được chuyển thể phim nhưng ngay từ đầu ra mắt đã mở ra chương mới cho các tác phẩm kinh điển sau này. (Cường Phạm)
10 Huyền Thoại Hy Lạp Hay Nhất Mọi Thời Đại
10 Huyền Thoại Hy Lạp Hay Nhất Mọi Thời Đại 10 Huyền Thoại Hy Lạp Hay Nhất Mọi Thời Đại 10 Huyền Thoại Hy Lạp Hay Nhất Mọi Thời Đại là tập hợp những câu chuyện kỳ thú liên quan đến chủ đề được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau. Cuốn sách với nội dung hài hước, đi kèm với tranh minh họa bắt mắt đặc biệt có tính giải trí cao, phù hợp với mọi độ tuổi kể cả người lớn. Từ thời cổ đại, loài người đã kể chuyện. Họ kể nhiều chuyện cho nhau để giải thích thế giới xung quanh. Những câu chuyện này được ghi nhớ và truyền tụng lại. Có thể những người lang thang đã nghe kể chuyện rồi đem câu chuyện đó đi “phát tán” ở các vùng đất lân cận, sau khi đã thêm mắm giặm muối. Thần Thoại Hy Lạp Mật Mã Maya Thần Thoại Bắc Âu Cùng với sự tiến hóa, con người bắt đầu học cách viết và một số người đã viết lại những câu chuyện thần thoại để truyền bá cho thế hệ sau. Và thế hệ sau chính là chúng ta bây giờ. 10 Huyền Thoại Hy Lạp Hay Nhất Mọi Thời Đại  được kể lại dưới hình thức mới mẻ hơn và sẽ mang dáng dấp những câu chuyện hiện đại. Ngoài ra, bạn sẽ được “khuyến mãi” thêm 10 phần viết về những dữ liệu kỳ thú để bạn tha hồ đào bới và học hỏi thêm về người Hy Lạp, những thú vui và những rắc rối của họ.
Mật Mã Tây Tạng - Tập 10
Mật Mã Tây Tạng – Tập 9 Mật Mã Tây Tạng – Hà Mã Mật mã Tây Tạng là một bộ tiểu thuyết hấp dẫn kết hợp giữa lịch sử có thật và trí tưởng tượng phong phú của tác giảHà Mã đã dắt người đọc làm một chuyến phiêu lưu kỳ bí để khám phá nền văn hóa Tây Tạng huyền bí cũng như những huyền sử khốc liệt của xứ sở băng giá này. Mật mã Tây Tạng nói về cuộc phiêu lưu của Trác Mộc Cường Ba và nhóm bạn trên đường tìm kiếm Tử Kỳ Lân – loài chó dũng mãnh nhất thế giới thuộc chủng loại Tạng Ngao, đã bị vướng vào cuộc tranh giành kho báu ngàn năm của Phật giáo Tây Tạng Cuộc phiêu lưu thoạt đầu là để tìm Tử Kỳ Lân, một loại linh thú từ thời viễn cổ, rồi chuyển sang tìm Bạc Ba La thần miếu. Có lẽ tác giả đã phóng đại khá nhiều khi kể về cuộc phiêu lưu này, với những tòa thành cổ, chùa cổ kỳ vĩ, đạo quân bách chiến bách thắng bí ẩn (Đạo quân Ánh Sáng),v.v… Sách cùng thể loại: Những Cuộc Phiêu Lưu Của Tom Shawyer Tiếng gọi nơi hoang dã Mật Mã Da Vinci Không thể phủ nhận rằng Hà Mã đã tạo nên một bộ tiểu thuyết ly kỳ, có sức hấp dẫn rất lớn. Mật mã Tây Tạng có sức thu hút của tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung kết hợp với Mật mã Da Vinci, Biểu tượng thất truyền… của Dan Brown. Thư viện Sách Mới trân trọng gửi đến bạn đọc bộ tiểu thuyết lừng danh của tác giả Hà Mã – Mật mã Tây Tạng. Các bạn đừng quên chia sẻ sách cho bạn bè cùng đọc và đăng ký nhận sách mới hàng tuần.