Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Du Khách Bất Đắc Dĩ

Macon Leary thường xuyên du hý khắp châu Âu và nước Mỹ để viết sách cẩm nang du lịch. Với nhiều người, đó hẳn là công việc trong mơ. Tuy nhiên tất cả những gì Macon khuyên độc giả của anh lại nhằm mục đích: Làm thế nào để có được cảm giác như ở nhà trong mỗi chuyến đi. Bởi vì anh là một du khách bất đắc dĩ. Trên đường đời cũng vậy. Macon luôn luôn bình lặng đón nhận những đổi thay của cuộc sống, dù đó là niềm vui nho nhỏ hay mất mát lớn lao. Nhịp điệu đều đặn ngày thường đã trở thành sự yên ủi bất tận với anh. Cho đến một ngày kia, trong rạo rực của khu phố nghèo dưới nắng đầu xuân, giữa đống quần áo cũ quăng bừa bộn, nơi gian bếp ấm áp đượm mùi cà phê và bánh nướng của một người phụ nữ đầy sức sống, lần đầu tiên anh đưa ra một quyết định lớn cho cuộc đời của chính mình... Du khách bất đắc dĩ là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Mỹ nổi tiếng Anne Tyler, được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà. Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giảithưởng Pulitzer năm 1989. The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô. Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa. Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.” Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.” Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn. Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi. “Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng. Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.” Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe. “Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói. “Có lẽ em nên đeo kính của em vào.” “Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?” “Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.” Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô. Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng. “Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?” “Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.” “Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.” “Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.” “Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.” “Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy." Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn. Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?” “Để ý?” “Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.” “Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...” “Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.” Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ. “Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.” “Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.” Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.” “À, đôi lúc em nghĩ thế thật.” Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải. Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp. “Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.” Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.” “Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!” “Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.” Sarah ngồi thụp xuống ghế. “Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.” “Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng. Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?” “Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.” Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...” “Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh. “Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.” “Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.” Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ. Mời các bạn mượn đọc sách Du Khách Bất Đắc Dĩ của tác giả Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.