Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuỗi Đời Bất Tận

Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Nhưng không may, cô bé bị dây rốn quấn quanh cổ và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Bác sĩ cắt dây rốn, cô bé được cứu sống. Nhưng năm bốn tuổi, cô bé lại bị rơi xuống biển và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Cô sống. Nhưng năm năm tuổi, cô bé lại bị rơi ra ngoài cửa sổ và chết. Ursula cứ sinh ra rồi chết đi, và lại sinh ra để được sống, cứ như vậy qua cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, rồi Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Chuỗi đời của Ursula dường như bất tận, cho đến một ngày, cô quyết định tự mình thay đổi thế giới... *** Thông tin giải thưởng: Chuỗi đời bất tận (Life after life) là cuốn sách đầu tiên trong bộ 2 tiểu thuyết về gia đình Todd. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tại Anh năm 2013 thuộc thể loại hư cấu lịch sử. Chuỗi đời bất tận đã chiến thắng giải Costa Book Award năm 2013, nằm trong top 10 cuốn sách hay nhất năm do biên tập viên New York Times bình chọn. Tác phẩm của Kate Atkinson cũng được đề cử giải thưởng Cuốn sách của năm 2013 của Warstone, Baileys Women’s Prize 2013 cho hạng mục tiểu thuyết và Walt Scott Prize 2014. Bên cạnh đó, cuốn sách còn thắng giải Goodread Choices Award 2013 hạng mục Hư cấu lịch sử do chính độc giả bình chọn.  *** VỀ TÁC GIẢ KATE ATKINSON Kate Atkinson, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1951, là nhà văn người Anh có các tác phẩm đạt khá nhiều giải thưởng. Bà là tác giả lập kỷ lục ba lần thắng giải Costa Book, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tựa đề Behind the Scenes at Museum (năm 1995), Chuỗi đời bất tận (Life after Life - năm 2013) và Những chú chim chưa bao giờ được hót (A God in Ruins - năm 2015). Ngoài ra, bà còn viết bộ bốn cuốn tiểu thuyết bestselling về cựu thám tử Jackson Brodie được chuyển thể thành phim truyền hình ăn khách trên đài BBC. Năm 2011, bà được phong tước MBE của Hoàng gia Anh vì những đóng góp cho nền văn học. Các giải thưởng bà Kate Atkinson đã giành được: ???? 1995, chiến thắng giải Whitbread Awards (tiền thân của giải Costa Book Prize) cho tiểu thuyết Behind the Scenes at the Museum. ???? 2009, đề cử giải Crime Thriller Award của The CWA Gold Dagger cho tiểu thuyết When Will There Be Good News? ???? 2009, chiến thắng giải British Book Awards, Hội đọc sách của Richard và Judy Bookclub cho tiểu thuyết When Will There Be Good News? ???? 2013, chiến thắng giải Costa Book Awards (hạng mục tiểu thuyết), Chuỗi đời bất tận ???? 2014, đề cử giải Walter Scott Prize Chuỗi đời bất tận 2014, chiến thắng giải South Bank Sky Arts Award Chuỗi đời bất tận. ???? 2015, chiến thắng giải Costa Book Awards (hạng mục tiểu thuyết), Những chú chim chưa bao giờ được hót. Atkinson đã từng sống ở Whitby, North Yorkshire một thời gian nhưng giờ bà đang sống tại Edinburgh gần các nhà văn nổi tiếng khác như J.K Rowling, Ian Rankin và Alexander McCall Smith. *** Teddy nhìn chiếc F-Fox bốc cháy ngùn ngụt trên đầu và rơi xuống đất trước anh, nổ tung, bùng lên thành những quầng sáng rực rỡ. Anh nhận ra rằng mình sẽ sống. Rốt cuộc anh sẽ có một tương lai. Anh gửi lời cảm ơn đến bất cứ vị thần nào đã ra tay cứu anh. Edward Todd, hay còn được mọi người gọi với cái tên thân mật là Teddy, là một chàng trai trẻ yêu thiên nhiên và thích làm thơ. Anh luôn muốn được sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Nhưng thật không may, chiến tranh lại nổ ra. Teddy nộp đơn gia nhập lực lượng không quân Anh và trở thành một phi công thời chiến. Teddy trở về, kết hôn với cô bạn thời nhỏ Nancy, hai người có một đứa con - cô con gái bướng bỉnh và khó bảo Viola. Teddy thậm chí còn có hai đứa cháu ngoại Sun và Moon Bertie. Nhưng sống sót sau chiến tranh không hẳn là một điều may mắn, những ký ức đau thương trên bầu trời, cả dưới mặt đất lũ lượt ùa về xen lẫn với những sóng gió và khó khăn của thời bình khiến tương lai của Teddy cũng mờ mịt như chính màn khói của chiếc máy bay cháy rụi trong trận chiến cuối cùng của anh.Teddy không nhớ nổi bao nhiêu lần anh đã khởi động máy bay và bay trên bầu trời, bao nhiêu tấn bom thả xuống các làng mạc ở nước Đức, bao nhiêu con người cùng tổ bay với anh đã hy sinh. Nhưng anh nhớ rất rõ chuyến bay cuối cùng của mình. Tất cả mọi người cùng cho rằng chuyến bay ấy sẽ đi vào chỗ chết, nhưng anh lại sống và có tương lai. Những chú chim chưa bao giờ được hót là cuốn sách thứ hai trong bộ tiểu thuyết về gia đình Todd được xuất bản năm 2015 của Kate Atkinson. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là Teddy, cậu con trai vàng của nhà Todd, em trai của Ursula - nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Chuỗi đời bất tận. Kate Atkinson đã gọi cuốn sách là tác phẩm đồng hành của cuốn tiểu thuyết trước đó. Nếu như ở Chuỗi đời bất tận, thời gian là yếu tố quan trọng dẫn đến vòng xoay định mệnh lặp đi lặp lại của Ursula, thì đến với Những chú chim chưa bao giờ được hót, thời gian lại bị xé nhỏ, khiến người đọc có thể thấy bất kỳ khoảnh khắc nào trong cuộc đời nhân vật Teddy cũng trở nên khác đi trong một cái nhìn dài hơn và sâu hơn. Chẳng hạn như vào một buổi chiều mùa hè năm 1925, cậu bé Teddy 11 tuổi, trong khi đang chịu đựng một cách lịch sự những câu hỏi ngớ ngẩn của dì Izzie để nghiên cứu sáng tác cho cuốn sách mới về nhân vật Augustus, cậu đã nghĩ đến việc đi học ở trường nội trú và tương lai có một đứa con, cả hai điều đó thậm chí còn chưa xảy ra. Những khoảng thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai liên tục đan xen vào nhau theo dòng suy nghĩ của Teddy khiến đến chính cậu cũng không biết được đâu là thật, đâu là mơ. Với một người yêu thiên nhiên, và đặc biệt là say mê tiếng hót tuyệt diệu của chim chiền chiện như Teddy, chỉ tưởng tượng ra một chú chim bị vặt cánh thôi đã rùng mình. Vậy nên với anh, chứng kiến những người hy sinh trong chiến tranh trở thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời. Những chú chim chưa bao giờ được hót chiến thắng Costa Book Awards năm 2015, sự kiện này đã giúp nhà văn Kate Atkinson lập kỷ lục là người đầu tiên ba lần thắng giải Costa Book.7 triệu người Đức bị chết, trong đó có 500.000 người bị giết bởi chiến dịch ném bom của quân Đồng minh. Tổng cộng có 60 triệu người chết trong cuộc Thế chiến II, bao gồm cả 11 triệu người bị giết trong cuộc diệt chủng Holocaust. Teddy gọi họ là những chú chim chưa bao giờ được sinh ra, những tiếng hót chưa bao giờ được cất lên. Atkinson khẳng định Những chú chim chưa bao giờ được hót "có lẽ là tiểu thuyết hay nhất tôi từng viết". Và tờ báo Newsday của Mỹ đã gọi tác phẩm là "cuốn tiểu thuyết dành cho bất cứ ai yêu tiểu thuyết". *** Tuyết! Ngày Ursula chào đời, tuyết rơi nhiều đến mức trở thành một huyền thoại trong gia đình. Cô đã nghe câu chuyện này nhiều đến nỗi cô nghĩ là mình có thể nhớ được cảnh tượng đó. “Chết tức là hết, sẽ chẳng còn gì ở lại”, Dylan Thomas từng viết như vậy. Nhưng với Ursula Todd, cái chết đối với cô chỉ là một khởi đầu mới. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Nhưng không may, cô bị dây rốn quấn quanh cổ và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Bác sĩ cắt dây rốn, cô bé được cứu sống. Nhưng năm bốn tuổi, cô bé lại bị rơi xuống biển và chết đuối. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Cô sống. Nhưng năm năm tuổi, cô bé lại bị trượt ngã trên mái nhà và bỏ mạng. Ursula cứ sinh ra rồi chết đi, và lại sinh ra để được sống, cứ như vậy qua cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, rồi Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nhưng không cuộc đời nào của cô giống lần trước. Mỗi lần bóng tối phủ xuống, Ursula lại tái sinh trong vòng tuần hoàn mới và những con đường mà cô đã chọn trong kiếp trước. Chuỗi đời của Ursula dường như bất tận, cho đến một ngày, cô quyết định tự mình thay đổi thế giới… Ursula mang trong mình ký ức đồng quê xanh mát của nước Anh trong những tháng ngày rong chơi tại căn nhà Góc Cáo. Và rồi cô lại là nhân viên văn phòng chính phủ chán ghét thời kỳ chiến tranh giả tạo khi Anh, Pháp, Đức tuyên chiến với nhau nhưng chẳng có lấy một cuộc tấn công thực sự. Lúc cô lại là một công dân Đức, ngày ngày làm bạn với người tình của Hitle. Hoặc là thành viên đội cứu hộ giữa lòng thủ đô London hứng chịu bom đạn hàng giờ đồng hồ.Chuỗi đời bất tận là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn người Anh Kate Atkinson, đồng thời là cuốn sách đã đem về giải thưởng Costa Novel lần thứ hai trên tổng số ba lần đoạt giải của bà. Xoay quanh một chuỗi đời lặp đi lặp lại của Ursula Todd, Atkinson đã miêu tả lại nhiều khía cạnh của cuộc sống và biến nhân vật trung tâm của mình thành một chứng nhân lịch sử. Nhưng xuyên suốt cuốn sách là câu hỏi ám ảnh tâm trí người đọc: Nếu được sống thêm một lần nữa và vô số lần khác nữa cuộc đời mà ta đang sống và đã sống, chúng ta sẽ làm gì để xứng đáng với cơ hội ấy? Trong tiếng Latin có một thành ngữ rất nổi tiếng - Amor fati - Hãy yêu lấy vận mệnh của mình, cho dù có chuyện gì xảy ra. Urusla đã yêu thứ được gọi là vận mệnh ấy hàng trăm lần, dẫu vậy lần nào nó cũng phản bội cô ở phút chót. Nhưng cô vẫn sống, vẫn tồn tại để làm lại cuộc đời mình. Giống như hình ảnh con rắn ngậm đuôi trong miệng, biểu tượng cho sự tuần hoàn của vũ trụ. Không có quá khứ hay hiện tại, chỉ có khoảnh khắc bây giờ mà thôi. Khai thác một chủ đề không mới, nhưng cuốn sách Chuỗi đời bất tận của Kate Atkinson lại chứng tỏ cho người đọc thấy khả năng sáng tạo vô hạn của trí tưởng tượng: một tiểu thuyết gia có thể đưa chúng ta đi xa được đến đâu. Mời các bạn đón đọc Chuỗi Đời Bất Tận của tác giả Kate Atkinson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng - Nguyễn Nhật Ánh
Sách Nói Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng   Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng là tác phẩm mới nhất của nhà văn chuyên viết cho thanh thiếu niên Nguyễn Nhật Ánh, nối tiếp sau Bảy bước tới mùa hè, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh… gây sóng gió thị trường sách năm 2015. 5 chương sách với 86 câu chuyện cực kỳ thú vị và hài hước về 5 con chó 5 loài 5 tính cách trong 1 gia đình có 3 người đều yêu chúng nhưng theo từng cách riêng của mình. Các câu chuyện về tình bạn giữa chúng với nhau, giữa chúng với chị Ni, ba mẹ, khách đến nhà… thực sự mang lại một thế giới trong trẻo, những đoạn đời dễ thương quyến rũ tuổi mới lớn. Một quyển sách lôi cuốn viết cho tất cả chúng ta: trẻ con và người lớn. Cuộc đời của 5 con chó nhỏ: Haili, Batô, Suku, Êmê và Pig  được tái hiện như đời sống của mỗi con người: tình bạn, tình yêu, đam mê, lòng dũng cảm, sự sợ hãi, và những ước mơ... *** Suku là một thằng cún nói chung ai nhìn cũng thích. Đôi mắt tròn, đen lay láy, ngây thơ ngơ ngác, mỗi khi nhin ai là khiến người ta phải động lòng. Cún là theo thói quen hồi bé, chứ thật ra chúng tôi đã sống bên nhau nhiều năm rồi, tóm lại đã qua tuổi vị thành niên từ lâu. Dù vậy, so với thời niên thiếu bộ dạng của thằng suku không thay đổi là mấy. Nó chỉ có béo lên vì ăn nhiều quá. Suku có đôi tai dài. Lông nó màu trắng, óng ánh và xoăn từng cụm, phủ dày từ chỏm đầu đến tận các ngón chân - trông nó giống hệt một con cừu. Khi nó nằm im, rất nhiều người tưởng nó là một con chó nhồi bông. Suku xinh đẹp như thế, tiên nhiên ai cũng muốn vuốt ve. Rất nhiều người bị bề ngoài của nó đánh lừa, nhưng chuyện đó tôi kể sau. Như đã nói, thằng suku bây giờ trông bảnh bao, nhưng đã bắt đầu ục ịch. Lý do thì ai trong nhà cũng có thể chỉ ra: Suku không những ăn nhiều mà khẩu vị của nó có thể dung nạp mọi thứ thức ăn, mọi loại mùi vị. Những con chó khác, như con Haili con Pig, con Êmê và cả tôi nữa chỉ ăn những thứ gì mình thích. Suku thì khác. Nó ăn cơm, ăn xương, ăn bánh, ăn kẹo, ăn mọi thứ trái cây, nói chung thứ gì dạ dày tiêu hóa được là nó không bao giờ từ chối. Có vẻ như nó có thể nói "không" với tình yêu chứ nhất định không bao giờ nói "không" với thức ăn. Chị Ni đặt cho nó biệt danh là "cỗ máy nghiền". ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Điệu Valse Giã Từ - Milan Kundera
"Điệu valse giã từ" là tác phẩm thứ ba của nhà viết tiểu thuyết trứ danh người Czech Milan Kundera, người từng được độc giả VN hâm mộ qua "Sự bất tử", "Cuộc sống không ở đây"... Một câu hỏi đi suốt cuốn sách: Phần nhân tính trong con người còn được bao nhiêu? Có những nhân vật được dựng lên như một cái cớ để cuốn các nhân vật khác vào chính tâm điểm của đời họ. Ba nhân vật chính, thương gia người Mỹ Bertlef, tay trí thức Jakub và bác sĩ Skreta xoay mòng mòng quanh cái trục cám dỗ của ba người đàn bà: Nữ y tá Ruzena, cô sinh viên Olga và cựu ca sĩ Kamila. Khi bị cuốn vào cơn mê sảng vô thức này, mỗi nhân vật chính đều lần lượt tìm ra cách thức di chuyển, dời gót hay những nhịp điệu riêng cho điệu valse tâm trạng lạ lùng của họ, một điệu valse với ma quỷ nhưng đủ sức giúp họ nhìn thấy con người thực của mình. Mỗi người tự cho mình là một vị chúa của chính bản thân họ. Cuối cùng để làm gì?  Không ai thoát khỏi định mệnh, khỏi điệu valse khắc nghiệt của cuộc đời. Khi nhảy với ma quỷ, họ ngỡ mình là Thượng đế, nhưng khi điệu valse kết thúc, họ trở lại là những con người bất hạnh, hoài nghi, bất an hoặc không kiên định. Thứ âm nhạc phát ra từ điệu valse ấy chính là tinh thần cuộc sống, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực của nó, có thể lột trái bản chất của từng con người ấy ra. Đó là thái độ thờ ơ trước cái chết của kẻ khác, những kẻ giết người trá hình, gián tiếp mà lương tâm không hề cắn rứt, là những trạng huống phi lý mà khi lạc vào đó, con người trở nên độc ác và không thoát khỏi mê lộ của sự sinh sát, huỷ diệt trong chính tâm hồn họ. Nhưng có một điều an ủi lớn lao là trước khi rời khỏi thành phố để ra nước ngoài, nhân vật nhiều chất suy tư Jakuk đã nhìn thấy cái đẹp cao quý, thánh thiện ẩn trong con người Kamila. Thế là đủ cho anh dấn bước vào một tương lai trước mặt. Có cảm giác chính Milan Kundera ưu ái chạm trổ nhân vật này, vì cuộc đời ông cũng tha hương đi tìm một chân trời khác. Tương tự như thế giới đàn ông, thế giới phụ nữ cũng có những mặt xấu, nhưng bản chất của họ dù là suối nguồn bị ô nhiễm nhưng có thể cứu vãn được. Họ vẫn còn những bản năng tốt đẹp để giúp người khác nhận ra những giá trị thực trên đời. Bản dịch của Cao Việt Dũng (cũng là người đã dịch "Cuộc sống không ở đây") khá nhuần nhuyễn, dễ hiểu, không rườm rà. Đây là giai đoạn đầu trong quá trình đổi mới cách thức viết tiểu thuyết, mang lại cho tiểu thuyết một sức sống mới trong bút pháp của Kundera, nên chưa đến nỗi phức tạp. Song chính bậc thầy tiểu thuyết hiện đại này đã nói: "Tinh thần tiểu thuyết là tinh thần của sự phức tạp. Mỗi tiểu thuyết nói với độc giả: Sự đời phức tạp hơn là anh tưởng". *** Bắt đầu mùa thu, cây cối khoác màu vàng, đỏ, nâu; trong thung lũng xinhđẹp, thành phố nước nóng dường như đang chịu một trận cháy. Dưới những mái vòm, nhiều phụ nữ đến và đi, tập trung bên những dòng suối. Đó là những người phụ nữ không thể có con, hy vọng nước nóng sẽ ban cho mình khả năng sinh đẻ. Trong số những người dưỡng bệnh tại đây có ít đàn ông hơn nhiều, nhưng dẫu sao vẫn có, vì hình như nước nóng ngoài công dụng phụ khoa còn tốt cho tim mạch. Dù thế, cứ chín phụ nữ một có một đàn ông, tỉ lệ này gây ra nỗi lo sợ lớn lao cho cổ gái trẻ độc thân làm y tá ở đây, những người trông coi bể bơi dành cho phụ nữa đến chữa bệnh hiếm muộn! Ruzena sinh ra ở đây, ở đây cô có bố mẹ. Liệu có bao giờ cô thoát khỏi được nơi đây, cái nơi nhung nhúc toàn phụ nữ này không? Đang là thứ hai và ngày làm việc sắp kết thúc. Chỉ còn lại vài bà béo quấn mình trong khăn tắm, duỗi dài trên giường trị liệu, công việc là lau mặt và mỉm cười với họ. - Thế nào, cô sẽ gọi điện chứ? – Các đồng nghiệp hỏi Ruzena, một trong số đó là một phụ nữ phì nhiêu tuổi trạc bốn mươi, người còn lại trẻ hơn và gầy gò. - Tại sao không nhỉ? – Ruzena đáp. - Thế thì gọi đi! – Người phụ nữ tứ tuần nói, và dẫn cô ra sau dãy phòng thay áo, tại đó các y tá có tủ, bàn và điện thoại. - Gọi thẳng đến nhà ông ta ấy – người gầy gò lưu ý một cách độc ác, và cả ba người phì cười. - Em chỉ biết số nhà hát thôi – Ruzena nói khi tiếng cười đã lắng xuống. Đó là một cuộc nói chuyện khủng khiếp. Ngay khi nghe giọng Ruzena trong máy, anh đã cảm thấy lo sợ. Phụ nữ thường xuyên làm anh sợ, tuy nhiên không cô nào chịu tin vào điều dó, nếu anh cứ khăng khăng thì họ sẽ coi đó là một sự giận hờn vớ vẩn. - Em thế nào? – anh hỏi. - Không khoẻ lắm – cô đáp. ... Mời các bạn đón đọc Điệu Valse Giã Từ của tác giả Milan Kundera.
Người Phàm - Philip Roth
Tên của cuốn tiểu thuyết mỏng viết bởi một trong những nhà văn đương đại vĩ đại nhất nước Mỹ này được đặt theo tên một vở kịch dụ ngôn khuyết danh từ thế kỷ mười lăm. Nhưng không hẳn như vở kịch ấy, Người phàm của thời hiện đại này là một nghệ sĩ thị trường làm việc cho một hãng quảng cáo ở New York, với ba cuộc hôn nhân thất bại, ba người vợ hoàn toàn khác nhau, hai đứa con trai căm ghét ông, một cô con gái yêu thương ông hết mực, một tuổi trẻ sống động theo sau đó là cuộc vật lộn dai dẳng với bệnh tật và tuổi già dưới hình hài vô số lần phẫu thuật, sáu ống stent và máy khử rung tim. Philip Roth đã lần theo số phận của Người phàm này từ lần chạm trán choáng váng với cái chết trên bờ biển New Jersey êm đềm thời thơ ấu tới những năm tháng sau này, khi ông chứng kiến sự lụi tàn của sinh mệnh ở những người cùng thời mình, sự hủy hoại của sức khỏe bản thân, và cả lòng tự tin cùng niềm hy vọng vẫn thường đi kèm sức khỏe ấy. Thông qua người đàn ông không mang tên này, Philip Roth đã kể một câu chuyện vừa riêng tư vừa phổ quát về đời người, về mất mát, về tội lỗi, về ân hận, về nỗi sợ hãi, về lòng ham sống và can đảm vô song của con người trong hành trình đi tới đích cuối của số phận.   ***   Nhận định   “Cuốn sách nhỏ tinh tế này lấp lánh những bí ẩn và hối tiếc của cả một đời người…” - Lionel Shriver, Daily Telegraph   "Nếu ta tìm chỉ một nhà văn xuất sắc nhất trong vòng hai mươi lăm năm qua, [Roth] sẽ là người chiến thắng.” - Nhà phê bình A.O. Scott, New York Times   “Rất hiếm nhà văn có thể viết sống động như Roth về sức tàn phá của các cuộc hôn nhân thất bại và thuyết phục như Roth về sự bất khả của lòng chung thủy hay tình yêu.” - Tim Adams, Obserbver   “Văn phong của Roth có vẻ thẳng thắn không thỏa hiệp, nhưng thực ra tinh tế và khéo léo… Một câu chuyện nhân bản dành cho thời đại chúng ta.” - A.S. Byatt, New Statesman   “Thiên tài của cuốn tiểu thuyết ngắn ảm đạm nhưng xuất sắc này đến từ cái cách Roth chuyển những nhận định u sầu của mình về cái chết thành một điều mang lại sức mạnh: sự chấp nhận đầy giận dữ rằng đạo đức là cái giá ta cần trả để có được cái kỳ quan tối thượng mang tên cuộc sống ấy.” - Douglas Kennedy, Times *** Philip Milton Roth (sinh ngày 19/3/1933) tại New Jersey, Mỹ trong một gia đình Do Thái nhập cư. Ông tốt nghiệp ngành Ngữ Văn tại Đại học Bucknell, tiếp đó học cao học Văn chương Anh tại Đại học Chicago. Roth dạy sáng tác tại Đại học Iowa và Đại học Princeton. Sự nghiệp học thuật của ông tiếp tục tại Đại học Pennsylvania cho tới khi về hưu vào năm 1991. Trong khi ở Chicago, Roth đã gặp Saul Bellow và Margaret Martinson Williams, người sau này trở thành vợ ông. Cuộc chia tay với Margaret năm 1963, cùng cái chết của bà năm 1968 đã để lại rất nhiều dấu ấn trong các tác phẩm của Roth, đặc biệt là trong When She Was Good và My Life As a Man. Trước khi được xuất bản cuốn sách đầu tiên vào năm 1959, Roth có hai năm phục vụ trong quân đội và từng viết nhiều truyện ngắn, phê bình cho tạp chí. Mãi đến năm 1990, ông mới tái hôn với người bạn lâu năm, Claire Bloom, một diễn viên người Anh. Năm 1994 họ chia tay và hai năm sau Bloom xuất bản một cuốn hồi ký miêu tả chi tiết cuộc hôn nhân ấy. Nhiều nhà phê bình cho rằng một vài chi tiết trong I Married a Communist đã được viết để phản đối những lời buộc tội đưa ra trong hồi ký của Bloom. Philip Roth là nhà văn đương đại lớn của Mỹ với hai lần được tặng giải thưởng National Book Award, hai lần nhận giải National Book Critics Circle Award (do giới phê bình trao), và ba lần nhận giải PEN/Faulkner Award. Năm 1998, ông nhận giải Pulitzer cho tiểu thuyết American Pastor, khắc họa nhân vật nổi tiếng nhất của ông: Nathan Zuckerman. Cùng năm đó, Philip Roth lại được vinh danh bằng Huân chương Nghệ thuật Quốc gia cao quý tại ngay Nhà Trắng. Năm 2001, The Human stain, một tiểu thuyết nữa về Zuckerman, đã giành được giải WH Smith Literary Award của Anh. Sau đó một năm, ông nhận được giải thưởng cao nhất của Viện hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Mỹ - Huân chương Vàng Tiểu thuyết - giải từng được trao cho John Dos Passos, William Faulkner và Saul Bellow. Năm 2005, The Plot Against America nhận được giải của Hội sử gia Mỹ cho "cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất sắc có chủ đề nước Mỹ năm 2003-2004", đồng thời được hơn một tờ báo lớn bình chọn là tiểu thuyết xuất sắc nhất năm. Tại Anh, The Plot Against America cũng giành giải WH Smith Literary Award, biến Roth trở thành nhà văn đầu tiên hai lần đoạt giải trong suốt bốn mươi sáu năm lịch sử giải này. Năm 2005, Philip Roth trở thành nhà văn Mỹ thứ ba được Library of America xuất bản toàn tập ngay từ khi còn sống. Tập thứ tám dự kiến sẽ ra đời vào năm 2013. Đây, nơi con người ngồi nghe tiếng nhau than thở; Nơi sự tê liệt làm run rẩy nhúm tóc bạc buồn bã cuối cùng, Nơi tuổi trẻ úa tàn, mong manh như bóng ma rồi lụi tắt; Nơi chẳng thể nghĩ gì ngoài nỗi sầu muộn chứa chan... - JOHN KEATS, "Tụng ca một chú Sơn ca" Mời các bạn đón đọc Người Phàm của tác giả Philip Roth
Những Đốm Lửa Lưu Lạc
"Đôi khi người ta cần phải cắt đứt quan hệ với những nơi họ sinh ra, với quá khứ của chính họ và bắt đầu lại từ đầu. Giống như những ngọn lửa thảo nguyên. Sau khi lửa thiêu rụi, đất sẽ màu mỡ hơn và những thứ mới mẻ có thể sinh sôi." Ở Shaker Heights, một vùng ngoại ô cấp tiến và yên bình, mọi thứ đều tuân theo trật tự định sẵn - từ cách bố trí các con đường quanh co, màu sắc của những ngôi nhà, đến sự sung túc, thịnh vượng của cư dân trong vùng. Không ai hiểu rõ điều ấy như Elena Richardson. Thế nhưng, sự xuất hiện của người mẹ đơn thân Mia Warren cùng cô con gái tuổi teen Pearl đã làm thay đổi cuộc sống của gia đình Richardson, gây xáo trộn cộng đồng vốn nề nếp đến từng chi tiết này. Một câu chuyện xúc động về sự gắn kết mãnh liệt của tình mẫu tử, sức nặng của những bí mật, bản chất của nghệ thuật và tính đồng nhất trong một cộng đồng, như những ngọn lửa âm ỉ ủ trong vẻ ngoài tĩnh lặng, cứ chực chờ bùng cháy. "Dí dỏm, thông minh và êm ái. Thật là một điều kỳ diệu." - Paula Hawkins "Phi thường! Những quyển sách thế này không thường xuất hiện." - John Green *** Có quá nhiều câu hỏi về hạnh phúc trong tiểu thuyết “Những đốm lửa lưu lạc” của tác giả người Mỹ gốc Hoa Celeste Ng. Ðây là tác phẩm day dứt về gia đình và cả bản ngã của mỗi người. Sách do NXB Phụ nữ phối hợp với Phương Nam Book phát hành năm 2019. Mở đầu câu chuyện là vụ hỏa hoạn thiêu rụi căn nhà của gia đình Richardson, may mắn không ai thiệt mạng hay bị thương. Từ đây, những chuyện xảy ra trước đó được kể lại. Lần lượt từng gia đình, nhân vật được khắc họa, mở ra nhiều bí mật, bất ngờ. Hai mẹ con Mia Warren và Pear đi khắp nơi bằng chiếc xe tải chất đầy đồ đạc và đổi chỗ ở liên tục. Nhưng đến vùng ngoại ô Shaker Heights, thuê được căn hộ tốt của ông bà Richardson với giá bình dân, cuộc sống của họ ổn định hơn. Khi thấy con gái Pear gắn bó và vui vẻ khi ở cạnh gia đình Richardson, người mẹ đơn thân Mia quyết định sẽ ở hẳn nơi này. Thế nhưng, mối quan hệ giữa những đứa con vị thành niên của hai nhà, rồi việc ông bà McCullough, một gia đình hàng xóm hiếm muộn, nhận con nuôi, bị vướng vào kiện tụng với mẹ ruột đứa trẻ; đã khiến mọi chuyện phức tạp, dẫn đến kết cục không ngờ. Tác phẩm có nhiều nhân vật, nhiều chi tiết, nhưng tác giả đã khéo léo khắc họa rõ nét tính cách và tâm lý, vừa dẫn dắt câu chuyện khúc chiết. Ấn tượng nhất là những người mẹ và tình mẫu tử. Mia Warren, một tài năng nhiếp ảnh đã từ bỏ tương lai, trốn gia đình mà cô ký hợp đồng mang thai hộ, để được sống bên cạnh con. Bà Richardson nghiêm khắc với con gái út khiến cô bé luôn chống đối, nhưng cũng vì bà lo lắng cho đứa con sinh non, ốm yếu này. Hai người phụ nữ ấy đối lập trong tính cách, hoàn cảnh sống và cả cách nuôi dạy con cái. Nếu Mia phóng khoáng, cảm xúc và đeo đuổi nghệ thuật; thì Richardson gò mình trong khuôn khổ và kế hoạch cuộc đời. Cuối cùng, họ đối đầu vì những đứa con. Ở một hoàn cảnh khác là cuộc tranh chấp của 2 người phụ nữ giành quyền nuôi con. BeBe Châu, cô gái Trung Quốc, trong lúc túng quẫn, trầm cảm đã bỏ rơi đứa con mới sinh khi người yêu bỏ rơi. Sau những tháng ngày dằn vặt, cô đòi lại con từ gia đình nhận nuôi đứa trẻ. Trong khi đó, bà McCullough quyết liệt giữ đứa bé đến cùng, khiến người đọc xót xa trước những đau khổ của cả hai người mẹ. Tình mẫu tử là chủ đề của tác phẩm, nhưng có lẽ bản ngã và sự cố chấp của mỗi người, từ các bà mẹ đến những đứa con, mới là mấu chốt làm nên câu chuyện hấp dẫn, giúp “Những đốm lửa lưu lạc” là một trong những tác phẩm bán chạy nhất do New York Times bình chọn. Cát Ðằng *** Ở Shaker Heights mọi người vẫn đang bàn tán về chuyện xảy ra vào mùa hè năm ấy: tại sao mà con bé Isabelle, đứa con út của gia đình Richardson, lại có thể phát điên mà châm lửa đốt nhà. Suốt mùa xuân, chuyện về bé Mirabelle McCullough trở thành chủ đề buôn chuyện - hoặc, tùy bạn đứng về phía nào, mà có thể gọi bé là Châu Mai Linh - còn bây giờ, rốt cuộc cũng có chuyện mới, một đề tài hấp dẫn để bàn luận. Một sáng thứ Bảy của tháng Năm, vừa non trưa, nhiều khách đang đẩy xe hàng mua sắm trong siêu thị Heinen’s đã nghe tiếng xe cứu hỏa inh ỏi chạy loạn xạ, hướng thẳng về phía hồ vịt. Khoảng 12 giờ 15 phút, bốn chiếc xe cứu hỏa đỗ thành một dãy đỏ lộn xộn dọc đường Parkland Drive, nơi cả sáu phòng ngủ của gia đình Richardson đang ngùn ngụt cháy, ai nấy trong vòng nửa dặm đều thấy khói bốc lên từ những ngọn cây giống như đám mây giông đen ngòm dày đặc. Sau đó, người ta đồn rằng từ lâu đã xuất hiện nhiều dấu hiệu rõ ràng: rằng Izzy là con nhỏ điên loạn, rằng gia đình Richardson lúc nào cũng có gì đó kỳ lạ, rằng vừa nghe tiếng còi báo động vào sáng hôm ấy thì họ biết chắc có chuyện khủng khiếp đã xảy ra rồi. Dĩ nhiên, lúc bấy giờ Izzy vẫn mất tích, không ai biện hộ cho cô và thiên hạ có thể - hoặc đã - đồn đoán bất cứ thứ gì mà họ thích. Dù khi xe cứu hỏa đến, và rồi sau đó một lúc, cũng không ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Những người hàng xóm nép sát hết mức vào rào chắn tạm thời - chiếc xe tuần dương của cảnh sát, đỗ chắn ngang cách xa vài trăm mét - để quan sát đội cứu hỏa tháo các cuộn ống trong nét mặt khắc nghiệt của người đã nhận ra sự vô vọng. Bên kia đường, đàn ngỗng trong hồ vẫn ngụp đầu xuống nước lặn tìm rong, hoàn toàn không chút xáo trộn trước sự hỗn loạn này. Bà Richardson đứng trên bờ cỏ, tay túm chặt cổ áo choàng màu xanh nhạt. Dù trời đã sang chiều, bà vẫn còn đang ngủ khi đầu báo khói rú lên. Bà đã đi ngủ muộn, cố vào giấc, tự nhủ thầm phải gắng nghỉ ngơi sau một ngày dài khó nhọc. Tối hôm qua, từ cửa sổ tầng trên, bà nhác thấy một chiếc xe hơi cố đậu lại trước nhà. Lối lái xe vào nhà vừa xa vừa vòng, hình cung trũng kiểu móng ngựa uốn cong từ lề đường đến trước cửa rồi trở ra - vì vậy con đường chính chỉ cách cỡ trăm bước, nhưng với bà nó xa đến mức bà khó lòng nhìn rõ, dù bây giờ vẫn đang là tháng Năm , huống hồ lúc đó là chín giờ rưỡi đêm, trời đã sầm tối. Tuy vậy bà nhận ra chiếc Volkswagen cỡ nhỏ màu nâu vàng nhạt của vị khách thuê nhà, cô Mia, với chiếc đèn pha sáng rực. Cửa phụ mở ra, một dáng người mảnh mai xuất hiện, khép hờ cánh cửa: đứa con gái tuổi teen của Mia, là Pearl. Đèn dưới mui chiếu sáng bên trong khiến chiếc xe giống như một hộp trưng bày, nhưng chiếc xe xếp đầy nào hộp, nào túi đến gần chạm trần và bà Richardson chỉ có thể nhận ra chiếc bóng mờ nhạt tạo ra từ đầu cô Mia với búi tóc rối bù ngự trên đỉnh đầu. Pearl cúi xuống hộp thư, và bà Richardson chỉ có thể hình dung được tiếng cót két yếu ớt phát ra khi cửa hộp thư mở ra, rồi đóng lại. Sau đó Pearl nhảy lò cò trở vào xe và đóng cửa. Đèn phanh xe lóe lên đỏ rực sau đó chớp tắt, chiếc xe tất tả lao vào màn đêm đang buông đầy. Lòng thấy nhẹ nhõm, bà Richardson xuống chỗ hộp thư và nhìn thấy bộ chìa khóa đặt trên một chiếc nhẫn trơn, không một lời nhắn. Bà định sáng mai sẽ xem xét kỹ lưỡng cũng như kiểm tra căn hộ ở đường Winslow, dù bà biết rõ hai mẹ con họ đã đi rồi. Nhờ biết chuyện này nên bà mới chịu đi ngủ, và bây giờ là mười hai giờ rưỡi, bà đang đứng trên bờ cỏ trong chiếc áo choàng tắm, chân xỏ đôi giày tennis của cậu con trai Trip, nhìn căn nhà của gia đình đang cháy thành tro bụi. Khi bị đánh thức bởi tiếng rít ầm ĩ từ đầu báo khói, bà chạy hết phòng này đến phòng khác tìm cậu, tìm Lexie, tìm Moody. Thật ngạc nhiên khi bà không tìm Izzy, có vẻ như bà đã đinh ninh rằng Izzy là đứa gây nên tội. Phòng nào cũng trống trơn nhưng lại nồng nặc mùi xăng cùng ngọn lửa nhỏ đang cháy tanh tách ngay giữa mỗi chiếc giường, y như có con điên đang cắm trại trên đó. Đến khi bà kiểm tra phòng khách, phòng sinh hoạt gia đình, phòng giải trí và phòng bếp thì khói đã bắt đầu lan rộng bao phủ hoàn toàn, cuối cùng bà tháo chạy ra ngoài, nghe tiếng còi báo động, tín hiệu phát ra từ hệ thống an toàn của căn nhà. Ngoài ngõ vào, bà thấy chiếc Jeep của Trip không còn, cả chiếc Explorer của Lexie, xe đạp của Moody cũng vậy và dĩ nhiên chiếc ô-tô mui kín của chồng bà cũng vắng mặt. Người ta phải gọi cho ông từ sở làm. Sau đó bà sực nhớ Lexie, ơn trời, tối qua con nhỏ qua đêm ở nhà Serena Vương. Bà tự hỏi liệu Izzy đã đi đâu. Bà tự hỏi liệu mấy đứa con trai của bà đang ở đâu, và làm cách nào tìm được chúng để báo chúng biết chuyện gì đã xảy ra. Khi ngọn lửa được dập tắt, ngôi nhà chưa đến mức bị thiêu rụi hoàn toàn nhưng bà Richardson vẫn còn rất sợ hãi. Tất cả cửa sổ đều cháy rụi nhưng khung gạch của ngôi nhà vẫn còn, ẩm ướt, đen nhẹm đi và bốc đầy hơi nước, phần lớn mái nhà, các tấm bảng màu đen bóng bẩy lấp lánh giống như những chiếc vảy cá họ mới vừa ngâm tẩm. Trong vài ngày tới, gia đình Richardson không được vào nhà cho đến khi các kỹ sư của sở cứu hỏa kiểm tra xong tất cả những thanh xà còn trụ lại, tuy vậy, chỉ cần đứng từ bờ cỏ - nơi gần nhất với bảng CẢNH BÁO màu vàng mà họ được phép đến - họ vẫn nhìn thấy chút gì đó còn sót lại trong căn nhà đổ nát. “Trời ơi,” Lexie sửng sốt. Cô ngồi ngay mép mui xe của mình, chiếc xe đang đỗ bên kia đường, trên bãi cỏ giáp cái hồ vịt. Cô và Serena vẫn đang say ngủ, lưng đâu lưng cuộn tròn trong chiếc chăn cỡ queen của Selena thì bác sĩ Vương lay vai cô, nói nhỏ, “Lexie. Cục cưng Lexie. Dậy nào. Mẹ con vừa gọi đấy.” Họ đã thức đến hơn hai giờ sáng, nói chuyện - như họ đã làm suốt mùa xuân - về bé Mirabelle McCullough, tranh luận về việc quyết định của quan tòa là đúng hay sai, liệu bố mẹ nuôi của con bé có nên nhận được quyền giám hộ hoặc liệu có nên trả nó về với mẹ ruột. Cuối cùng Serena nói “Thậm chí Mirabelle McCullough cũng không phải tên thật của con nhỏ, ôi trời,” và Lexie đáp lại, “Mẹ nó đã từ bỏ nó, đồng nghĩa cô ta từ bỏ luôn quyền đặt tên cho nó,” rồi họ rơi vào không khí tĩnh lặng ảm đạm cho đến khi cả hai ngủ thiếp đi. Bây giờ Lexie nhìn đám khói cuồn cuộn bốc ra từ cửa sổ phòng ngủ của cô, cái cửa sổ hướng ra bãi cỏ, và nghĩ đến mớ đồ đạc trong phòng chẳng còn gì. Mỗi chiếc áo phông trong ngăn tủ kéo, mỗi cái quần jean trong tủ quần áo. Mớ ghi chú mà Serena đã viết cho cô từ hồi lớp Sáu hãy còn xếp lại thành các quả banh giấy, chúng được cất giữ trong một hộp giày đặt dưới giường; cả cái giường, các tấm ga trải giường và chiếc chăn bông đều cháy rụi thành than. Đóa hồng cài áo mà bạn trai Brian đã tặng trong chuyến hành hương được treo trên bàn trang điểm đến khô đi, những cánh hồng đỏ thắm, sẫm lại hóa đỏ bầm. Giờ chẳng còn gì ngoài tro tàn. Đột nhiên Lexie nhận ra rằng, trong bộ đồ vừa thay mà cô mang đến nhà Serena, thì cô còn khá khẩm hơn các thành viên còn lại trong nhà: trên ghế sau cô có cái túi du lịch, cái quần jean và bàn chải đánh răng. Bộ đồ ngủ. Cô liếc vội mấy đứa em, nhìn qua mẹ, mẹ hãy còn mặc áo choàng tắm đứng nơi bờ cỏ, và cô nghĩ, Thật luôn, mọi người chẳng còn gì ngoài bộ đồ dính trên người. “Thật luôn” là một trong những từ cửa miệng của Lexie, thậm chí cô gán nó vào những tình huống chẳng thật chút nào. Trong trường hợp này, chí ít một lần, không ít thì nhiều cô cũng dùng chính xác. Ngay cạnh cô, Trip thất thần đưa tay xước tóc. Lúc này mặt trời đang đứng bóng, mồ hôi làm cho những lọn tóc quăn của cậu cứ ngang tàng dựng ngược. Cậu đang chơi bóng rổ tại trung tâm cộng đồng thì nghe tiếng xe cứu hỏa rền rĩ, nhưng cậu chẳng mấy để ý. Ngay sau đó, mọi người đói bụng và quyết định nghỉ chơi, cậu lập tức lái xe về nhà. Đúng kiểu Trip, thậm chí cửa xe có đang hạ xuống thì cậu cũng không bận tâm đến đám khói khổng lồ phảng phất bay về phía mình mà chỉ bắt đầu nhận ra chuyện không ổn khi thấy xe cảnh sát phong tỏa con đường. Sau mười phút giải thích, cuối cùng cậu cũng được phép đỗ chiếc Jeep của mình ở phía bên kia ngôi nhà, nơi Lexie và Moody đang ngồi đợi từ lúc nào. Ba chị em ngồi trên mui xe theo thứ tự, như thứ tự trong các bức ảnh chân dung gia đình từng treo chỗ cầu thang, những bức ảnh giờ đã thành tro bụi. Lexie, đến Trip, Moody: học sinh năm cuối, năm ba, năm hai. Cạnh bên, mấy chị em nhận ra chỗ trống mà Izzy, học sinh năm nhất, “con cừu đen” trong nhà, một đứa bất định, đã để lại. “Rồi chúng ta sẽ ở đâu?” Trip hỏi. Phút lặng thinh bỗng chốc vây lấy ba chị em khi họ nhìn lại tình cảnh của nhà mình. “Chúng ta sẽ đến khách sạn hoặc nơi nào đó đại loại thế,” cuối cùng Lexie trả lời. “Chị nghĩ trước đây gia đình Josh Trammell cũng làm vậy.” Ai cũng biết chuyện này: vài năm trước, Josh Trammell, một học sinh năm hai đã ngủ quên khi đèn cầy còn cháy làm căn nhà của bố mẹ cậu bị thiêu rụi. Nhiều năm qua, ở trường trung học vẫn đồn rằng nguyên nhân không phải cây đèn cầy mà vì hút cần sa, nhưng bên trong ngôi nhà đã bị hủy hoại hoàn toàn nên chẳng thể nào biết được, và Josh mắc kẹt trong chuyện cây đèn cầy của chính mình. Người ta vẫn xem cậu là thằng đầu đất đốt nhà, dù chuyện này đã trôi qua nhiều năm, và mới đây Josh đã tốt nghiệp Đại học Ohio State với tấm bằng danh dự. Giờ đây, dĩ nhiên, đám cháy của Josh Trammell không còn là vụ hỏa hoạn lừng danh nhất ở Shaker Heights này nữa. “Một phòng khách sạn? Cho cả bọn?” “Sao cũng được. Thì hai phòng. Hoặc chúng ta sẽ đến khách sạn Embassy Suites. Chị không biết.” Lexie nhịp mấy ngón tay lên đầu gối. Cô muốn làm một điếu, nhưng sau những gì vừa xảy ra - và trước mắt mẹ với mười người lính cứu hỏa - cô không dám châm điếu. “Bố mẹ sẽ tính toán thiệt hại. Và phía bảo hiểm sẽ bồi thường cho nhà mình.” Mặc dù chỉ hiểu biết mơ hồ về thủ tục bảo hiểm, thì suy nghĩ này của cô nghe có vẻ hợp lý. Dù sao đi nữa, đây là chuyện của người lớn, không phải của bọn trẻ. Những lính cứu hỏa cuối cùng đang từ nhà bước ra, kéo chiếc mặt nạ bảo hộ ra khỏi mặt. Khói từ đám cháy hầu như đã không còn, nhưng cảm giác oi bức vẫn bao phủ khắp nơi rất giống bầu không khí phòng tắm sau khi tắm nước nóng. Mui xe nóng dần lên và Trip duỗi chân xuống kính chắn gió, di mũi dép tông đẩy đẩy vào cần gạt nước. Rồi cậu phì cười. “Gì mà vui vậy?” Lexie hỏi. “Chỉ đang tưởng tượng cảnh con Izzy chạy loanh quanh để đánh diêm khắp nhà.” Cậu khịt mũi. “Cái con điên.” Moody đang ngồi vắt chéo chân trên bãi cỏ cạnh chiếc xe đạp của mình. “Sao ai cũng khẳng định là nó?” “Thôi đi.” Trip nhảy khỏi xe. “Là Izzy chứ ai. Chúng ta đều ở đây. Mẹ cũng ở đây. Bố thì trên đường về. Còn thiếu ai nữa?” “Vì Izzy không có ở đây. Nên nó là đứa duy nhất có khả năng gây ra hay sao?” “Thủ phạm?” Lexie cắt ngang. “Izzy á?” “Bố đang ở sở làm,” Trip nói tiếp. “Chị Lexie ở nhà Serena. Em thì đang chơi bóng bên đường Sussex. Còn em, Moody?” Moody ngập ngừng. “Em đạp xe đến thư viện.” “Đó. Chị thấy chưa?” Với Trip, đáp án quá hiển nhiên. “Kẻ tình nghi duy nhất chỉ còn Izzy và mẹ. Mà mẹ thì đang ngủ.” “Biết đâu đường điện nhà mình bị chập. Hoặc giả có người quên tắt lò nướng thì sao.” “Đội cứu hỏa nói có nhiều mồi lửa rải khắp nhà,” Lexie nói. “Rất nhiều điểm phát lửa. Khả năng có cả chất xúc tác. Không phải sự cố.” “Chúng ta đều biết con nhỏ đó thần kinh mà.” Trip ngả người tựa vào cửa xe. Bên kia đường, xe cứu hỏa bắt đầu cuộn ống vào guồng. Ba đứa trẻ còn lại của nhà Richardson dõi theo đội cứu hỏa buông rìu xuống và cởi bỏ những lớp áo khoác vàng ám đầy mùi khói. “Đứa nào qua đó ngồi với mẹ đi,” Lexie bảo, nhưng chẳng ai nhúc nhích. Sau một phút, Trip tuyên bố, “Khi bố mẹ tìm thấy Iz, họ sẽ nhốt nó vào bệnh viện tâm thần đến hết đời.” Không ai bận tâm đến việc cô Mia và Pearl vừa rời khỏi căn hộ ở đường Winslow. Bà Richardson, đang quan sát đội trưởng đội cứu hỏa tỉ mỉ ghi chép vào hồ sơ tạm nên đã hoàn toàn quên mất hai vị khách thuê cũ của mình. Bà còn chưa báo với chồng hay bọn trẻ về chuyện đó; nhưng sáng sớm hôm ấy, Moody đã phát hiện sự vắng mặt của họ và cậu vẫn không chắc mình nên làm gì. Phía cuối đường Parkland Drive, đốm xanh nhỏ - chiếc BMW của bố chúng - đang tiến lại gần. “Sao anh biết chắc họ sẽ tìm ra nó?” Moody hỏi. Mời các bạn đón đọc Những Đốm Lửa Lưu Lạc của tác giả Celeste Ng.