Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nơi Trái Tim Hội Ngộ - WM. Paul Young

LỜI GIỚI THIỆU Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy . Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít. Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack. Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội. Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu. Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu. Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson. Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường. Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm. Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa. Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh. Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình. Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó. Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài. Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu. Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này. Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt. Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình. Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe. Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp. Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi. Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack. Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Hội Ngộc của tác giả WM. Paul Young.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quỷ Cái Vận Đồ Prada - Lauren Weisberger
Khi Andrea Sachs đặt chân lên văn phòng lộng lẫy của tờ Runway, cô không biết gì hết. Không biết tới tờ tạp chí thời trang nhất của thế giới, hay nữ Tổng biên tập được sợ hãi và tâng bốc quá đáng của nó, Miranda Priestly. Rồi cô sẽ biết quá nhiều. Và đây, chính là thế giới của đồ hiệu đỉnh cao, nơi những tên "Prada! Armani! Versace!" được vang lên mọi lúc mọi nơi, rồi những bữa tiệc thời thượng, những chuyện hậu trường của giới sành điệu, những gì nối kết sắc đẹp với hình ảnh báo chí, và trên tất cả, một bà chủ khiến người ta mệt mỏi đang thống trị bên trên toàn bộ cỗ máy của Runway, nơi vừa là thiên đường vừa là địa ngục cho các cô gái thích ăn diện đang tìm đường lập thân trong những cao ốc kiêu kỳ của Mahattan. Quỷ cái vận đồ Prada, tác phẩm đầu tay của Lauren Weisberger sau quãng thời gian làm việc cho Vogue Mỹ - một cuốn sách nhẹ nhõm vui tươi về thế giới hào nhoáng đã tìm ra được công thức hấp dẫn để giải trí cho hàng triệu thanh niên đô thị, và trở thành một hiện tượng vang dội của ngành xuất bản thế giới khi liên tục sáu tháng liền đứng trong danh sách bán chạy nhất của The New York Times. *** “Tuyệt diệu, một cái nhìn sáng suốt vào thế giới của các tạp chí và thời trang.” – Red “Kể từ thời hoàng kim của Sex and the City chưa có câu chuyện nào nắm bắt được tinh thần của các quý cô như vậy.” – Harper & Queen “Tươi mát, thấu suốt và thật là Sex and the city! Bạn phải lao tới hiệu sách mà mua cho được một cuốn như thể đó là đồ Prada giảm giá một nửa.” – Company “Một câu chuyện hài hước, vui nhộn… Văn học cho giới sành điệu.” – People “Viên ngọc nhỏ này đã kết hợp vẻ duyên dáng của Sex and the City với chất dí dỏm sắc bén của New York.” – Red “Một cuốn sách kỳ diệu khiến bạn không thể đặt xuống.” – The Sun “Một cuốn tiểu thuyết dí dỏm và lắm chuyện bậc nhất.” – Publisher Weekly “Một món trang sức không thể thiếu của mùa sách năm nay.” – Rocky Mountain News *** Đèn giao thông ở ngã tư đường 17 cắt Broadway chưa kịp chuyển hẳn sang màu xanh thì cả một bầy taxi vàng vênh váo đã vượt qua tôi, trong khi tôi gây ùn tắc cả làn đường bên phải bằng cái bẫy giết người mà tôi phải lái đi khắp phố phường New York. Đạp côn, nhấn ga, vào số (từ mo vào số một hay từ số một lên số hai?) Nhả côn, tôi lẩm nhẩm quy tắc thần thánh ấy cả chục lượt, song giữa đám xe cộ đan như mắc cửi buổi trưa cây thần chú này chẳng giúp gì được. Chiếc ôtô lồng lên hai bận như con ngựa bất kham, để rồi tiếp đó ngật ngưỡng như con thỏ què qua ngã tư. Tim tôi nhảy thình thịch trong ngực. Đột ngột xe thôi ngật ngưỡng và chuyển động trơn tru. Trơn như bôi mỡ. Tôi liếc nhanh xuống xem có đúng là vẫn đang số hai, và khi ngẩng lên thì mũi xe đã gí sát đuôi chiếc taxi vàng phía trước, làm cho tôi không còn cách nào khác ngoài việc nghiến răng đạp trí mạng lên bàn phanh và gãy quặp gót giày. Khốn nạn! Lại một đôi giày 700$ đi tong vì sự vụng về của tôi – đôi thứ ba trong tháng này rồi. Tôi nhẹ cả người khi thấy động cơ chết nhóm (hình như trong lúc đạp cú phanh cứu mạng thì đáng lẽ tôi phải đạp cả côn mới đúng). Giờ thì tôi có mấy giây đồng hồ, đủ để thong thả tháo đôi Manolo quẳng lên ghế phụ, trong khi xung quanh tôi inh ỏi tiếng còi xe và rào rào những cây quát chửi tục tĩu. Lấy gì chùi bàn tay đẫm mồ hôi bây giờ, ngoài cái quần Gucci bó chặt người đến nỗi máu hết đường chảy, và chỉ riêng chui được vào rồi cài đến chiếc khuy trên cùng không khác gì đánh vật. Những ngón tay quẹt thành từng vệt kinh tởm trên lớp da lộn mềm như nhung. Tôi phải làm hơi thuốc thôi, không thì khó mà đưa nổi cái xe mui trần 84.000$ này lành lặn qua khỏi ma trận của Mahattan đúng vào giờ nghỉ trưa. “Biến nhanh đi được không chị gái!” Một tay lái xe trông rất bụi với túm lông ngực thò qua cổ may ô ba lỗ. “Hay là chị gái tưởng đây là bãi học lái xe? Biến!” ... Mời các bạn đón đọc Quỷ Cái Vận Đồ Prada của tác giả Lauren Weisberger.
Phút Dành Cho Con - Kent Nerburn
“Phút dành cho con” là một quyển sách có thể giúp tất cả những cậu con trai xây dựng cuộc đời và là một quyển sách mà bất cứ một ông bố tận tụy nào cũng có thể tự hào khi mang tặng con trai mình.” — AMERICAN BOOKSELLER “Phút dành cho con” được tác giả Kent Nerburn viết dành tặng con trai của mình, đồng thời cũng là những thông điệp sống hữu ích và cần thiết cho tất cả chúng ta. Đây là tác phẩm được viết bằng một phong cách tuyệt vời với sự thông thái ẩn chứa trong mỗi trang sách. Với niềm yêu thương con dạt dào, với những trải nghiệm nhất định về cuộc sống, tác giả đã dành tặng cho con trai mình những lời khuyên hữu ích thông qua cuốn sách. Quá trình trưởng thành của một người đàn ông cũng như mọi vấn đề của cuộc sống được tác giả nhìn nhận sâu xát và chân thực qua những lời khuyên dành cho con trai mình. Mỗi lá thư mang một chủ đề khác nhau: Tri thức - học hành; Tiền bạc và sự giàu có; Bi kịch và nỗi đau; Giá trị của tình bạn, tình yêu; cả những vấn đề mà một người đàn ông trưởng thành cần quan tâm như Bí ẩn của Tình dục, Ma túy và rượu bia, Hôn nhân v.v… đều được nhìn nhận và chia sẻ chân thành. Trong cuốn sách này, ta có thể thấy tác giả ngoài việc đề cập đến những kỹ năng và trải nghiệm của mình: tình yêu dành cho ngôn ngữ, niềm tin vào tầm nhìn tiến bộ của loài người, sự phức tạp của những nỗi sợ hãi còn là sự chia sẻ niềm tin cuộc sống, về điều kỳ diệu của tình yêu, của nghệ thuật, của những chuyến du hành… Những thông điệp nhẹ nhàng nhưng sâu sắc được nhắn nhủ, được kể lại qua những câu chuyện thú vị. Một cuốn sách hay với giọng văn sâu sắc, đầy chất thơ rất đáng để chúng ta chiêm nghiệm, học hỏi và dành tặng cho cậu con trai yêu quý của mình! Sách được biên dịch từ cuốn sách Letters to my son của tác giả, Tiến sĩ Kent Nerburn, do First News thực hiện. *** Cha viết cuốn sách này với tư cách một người cha. Con sẽ không hiểu được điều này có ý nghĩa như thế nào cho đến khi con cũng có con trai. Con chưa thấy được niềm vui và tình yêu vô bờ đằng sau trái tim của một người cha khi nhìn đứa con trai của mình. Con cũng chưa hiểu được niềm hân hoan tột cùng đã khiến một người đàn ông muốn vượt qua bản thân để có thể đặt vào tay con trai mình những điều tốt đẹp và hy vọng nhất. Trở thành một người cha là đặc ân đồng thời cũng là một gánh nặng. Có những điều mà một đứa con trai phải được tiếp nhận từ chính người cha của mình, nếu không thì nó sẽ chẳng bao giờ được hướng dẫn một cách rõ ràng. Đó là những cảm nhận về tuổi trưởng thành, giá trị của bản thân và trách nhiệm với thế giới xung quanh. Nhưng mà, làm sao để truyền đạt những điều này bằng ngôn ngữ? Chúng ta đang sống ở thời điểm thật khó để bộc lộ những lời nói xuất phát từ trái tim. Cuộc sống của ta đang bị vô vàn những điều tầm thường che lấp, những nghĩ suy và lo toan cơm áo đời thường đã làm mất đi những khoảng lặng trong tâm hồn. Vì vậy, cha phải nói thật với con điều này. Cha không có lời giải cho tất cả những thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Nhưng cha hiểu những thách thức này. Khi cha nhìn con chiến đấu, khám phá và nỗ lực tiến lên phía trước, cha như thấy hình ảnh mình đang được phản chiếu trong đôi mắt và những gì con đang trải nghiệm. Cha cũng như con, phải học cách để đi, để chạy, cả để vấp ngã. Cha cũng có mối tình đầu. Cha đã trải qua cảm giác sợ hãi, tức giận cũng như phiền muộn, và có nhiều lúc cha đã thấy ấm áp khi bàn tay ai đó đang đặt lên vai mình. Cha cũng đã từng rơi những giọt nước mắt cho niềm vui và cho cả nỗi buồn. Cha đã từng trải qua cảm giác cô độc trước cuộc sống và không thiếu những khoảnh khắc muốn bùng cơn thịnh nộ. Có những lúc cha cảm thấy mình không còn đủ sức để bước tiếp trên cuộc đời, cha bước qua mọi người một cách hờ hững, ngay cả với những người đang cần cha giúp đỡ. Nhiều lúc cha thấy mình làm được nhiều điều hơn mình được yêu cầu, nhưng cũng có lúc cha cảm thấy mình là một kẻ bất tài và thua cuộc. Dường như trong cha vừa có ánh sáng của sự vĩ đại đồng thời cũng có bóng tối của những tội ác lương tâm. Bởi vì, cha cũng là một người đàn ông, giống như con vậy. Mặt trời sẽ chiếu sáng trên đầu con giống như nó đã chiếu trên đầu cha, và những bài học trong cuộc sống sẽ đến với con giống như đã đến với cha, mặc dù con đường phía trước và thời gian phía trước của cha và con không như nhau. Và đó là những điều cuốn sách này sẽ đề cập đến. Cha muốn thông qua cuốn sách này mang đến cho con những bài học cha đã trải qua, nhờ đó con sẽ áp dụng được cho cuộc sống của mình. Nhưng nó không có nghĩa là con sẽ giống cha. Cha thật sự hạnh phúc nếu con được là chính con. Thời gian sẽ mang đến sự thật, và sự thật thì luôn vĩ đại hơn bất kỳ điều gì trên thế giới này. Trở thành cha của con là niềm vinh hạnh lớn nhất trong cuộc đời cha. Trong phút chốc cha cảm thấy như mình đã chạm tay vào những điều thần bí, và nó khiến cha thấy tình yêu đang ngày một mênh mông hơn. Nếu cha chỉ có một điều ước, cha ước mong con sẽ mang theo tình yêu đó bên mình. Cuộc sống này còn cần gì hơn thế? *** Mời các bạn đón đọc tác phẩm Phút Dành Cho Con của tác giả Kent Nerburn.
Thành Phố Hồn Rỗng - Ransom Riggs
Mồng 3 tháng 9 năm 1940. Vội vã nói lời tạm biệt hòn đảo từng là chốn náu thân yên ấm, mười đứa trẻ đặc biệt chạy trốn khỏi đám quái vật đang săn lùng mình. Chỉ có một người có thể giúp họ, cô phụ trách Peregrine, nhưng bà lại đang bị mắc kẹt trong hình dạng một con chim. Jacob Portman và bạn bè của cậu bắt đầu cuộc hành trình đầy bất trắc khó lường, hy vọng có thể tìm được người giúp cô phụ trách yêu quý trở lại dạng người. Nhưng nơi mà họ tìm đến, London năm 1940, đã là một thành phố tan hoang dưới tầm bom đạn, và những nguy hiểm chết người ẩn giấu mọi nơi, chưa kể thứ rùng rợn nhất: những xác sống, hồn rỗng. Với từng ấy thử thách, liệu đám trẻ có cứu được cô Peregrine? Là tập thứ 2 trong series "Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine", Thành phố hồn rỗng tiếp nối một câu chuyện khiến độc giả mê hoặc. Như một nhà ảo thuật dày dạn, Ransom Rigg kết hợp văn phong hồi hộp với những bức ảnh minh họa kỳ lạ để củng cố bầu không khí ám ảnh của câu chuyện. Đáng sợ đến mức kinh ngạc nhưng cũng vô cùng cảm động, điểm đáng chỉ trích duy nhất của sách chính là nó buộc những độc giả cứ phải nôn nao khi kết thúc trang cuối - họ không muốn kìm lòng chờ đợi cho đến tập tiếp theo. *** Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine là một trong những tác phẩm ấn tượng nhất. Thế nên khi nghe tin Thành Phố Hồn Rỗng được xuất bản, ngay lập tức bọn mình phải cơ cấu về, và ào cái đã đọc xong hết vào... 4 giờ sáng vì quá thú vị.  Cũng như Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine, Thành Phố Hồn Rỗng phối kết hợp những bức ảnh đen trắng đầy nghệ thuật và ám ảnh vào mạch văn. Không chỉ đơn thuần là những bức hình quái dị gây sốc cho người đọc, mỗi bức ảnh trong truyện đều liên quan rất chặt chẽ đến nội dung chương đang kể, và người chụp rất có tâm, khiến bản thân bức ảnh như tự nói lên một câu chuyện mini.  *** Nhận định “Căng thẳng, kịch tính và kỳ lạ... những con chữ và hình ảnh cùng tỏa sáng rực rỡ để tạo nên một câu chuyện khó quên.” (John Green, tác giả của The fault in our stars) Mời các bạn đón đọc Trại trẻ đặc biệt của cô Peregrine tập 2: Thành Phố Hồn Rỗng của tác giả Ransom Riggs.
Ăn, Cầu Nguyện, Yêu - Elizabeth Gilbert
Nói sự thật. Chỉ nói sự thật. Elizabeth Gilbert đã tuyên ngôn vậy, khi cô kể lại câu chuyện cuộc đời mình trong Ăn, cầu nguyện, yêu. Những đau khổ rất nhân bản nhưng vẫn quá ngỡ ngàng đã xuất hiện giữa tuổi ba mưoi đầy xáo động của cô. Vượt qua tuyệt vọng, Liz tự mình thực hiện một hành trình dũng cảm để tìm kiếm thanh thản. Chính vì sự thật mà chuyện kể của một con người đã đủ sức mở lối cho hàng triệu người khác nhau trên khắp thế giới tìm được con đường thoát khỏi trầm cảm, thấy lại niềm vui và sự cân bằng, đồng thời sẵn sàng yêu nhau lần nữa. Ăn, cầu nguyện, yêu – cuốn hồi ký xuất sắc của Elizabeth Gilbert, một bestseller của The New York Times, được đánh giá là một trong những cuốn sách có ảnh hưởng lớn tới đời sống tâm lý Mỹ hiện đại. Tác phẩm đã bán hơn 5 triệu bản và được dịch ra hàng chục thứ tiếng trên toàn cầu. Thành công rực rỡ của Ăn, cầu nguyện, yêu cũng chính là bước ngoặt đưa Elizabeth Gilbert trở thành một trong bốn nhà văn được tạp chí Time bình chọn vào danh sách 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2008. *** - “Món quà tôi mang tặng tất cả bạn gái của mình.” – Julia Roberts - “Mọi phụ nữ đều nên đọc cuốn sách này” – Ellen Macpherson - “Ăn, Cầu nguyện, yêu thật đáng yêu… Tôi thấm thía cả nỗi khao khát trải lòng trên từng trang giấy lẫn ước vọng chữa lành vết thương của tác giả” – Meg Ryan - “Một suy ngẫm về yêu dưới muôn dạng thức – yêu món ăn tinh tế, yêu ngôn ngữ mới mẻ, yêu con người, yêu thượng đế, và cả thứ tình yêu đã thực sự cứu rỗi Gilbert, yêu chính bản thân mình” – Los Angeles Times - “Một giọng văn ríu rít mà bí ẩn, một tấm thảm thêu văn hoá cùng cảm xúc, một trạng thái say mê lẫn nồng nhiệt, một câu chuyện hấp dẫn kết nối tới cả lịch sử và giai thoại” – Publishers Weekly. ** Giới thiệu tác giả: Elizabeth Gilbert sinh năm 1969 tại Connecticut, Mỹ. Cô tốt nghiệp ngành Khoa học Chính trị tại Đại học New York năm 1991. Elizabeth Gilbert say mê viết văn từ thuở nhỏ. Sự nghiệp sáng tác của cô bắt đầu từ khi cô bước vào nghề báo. Elizabeth là một trong những cây bút viết toàn diện, xuất sắc nhất của American GQ. Cô đã hai lần nhận được đề cử Giải thưởng Tạp chí Quốc gia. Đến nay Elizabeth Gilbert đã xuất bản được 4 cuốn sách, bao gồm tập truyện ngắn Pilgrims (tác phẩm lọt vào chung kết giải thưởng Pen/Hemingway 1997), tiểu thuyết Stern Men (2000), tiểu thuyết The Last American Man (đề cử Giải thưởng Sách Quốc gia, và ghi nhận Sách Tiêu biểu năm 2002 của The New York Times), và cuốn hồi ký xuất bản năm 2006 Ăn, cầu nguyện, yêu (Eat, pray, love). Ăn, cầu nguyện, yêu được độc giả Mỹ cũng như trên khắp thế giới đón nhận hết sức nồng nhiệt. Tác phẩm hiện đang được dựng phim với sự tham gia diễn xuất của nữ minh tinh Julia Roberts. Thành công rực rỡ của Ăn, cầu nguyện, yêu đã đưa Elizabeth Gilbert trở thành một trong bốn nhà văn được tạp chí Time bình chọn vào danh sách 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2008. Hiện cô đang sống giữa Philadelphia (Mỹ) và Brazil. Mời các bạn đón đọc Ăn, Cầu Nguyện, Yêu của tác giả Elizabeth Gilbert.