Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quyến Rũ

Mười năm trước, đối với Brenna Marcelli, gia đình, nghề làm rượu vang, và một người con trai là tất cả thế giới của cô. Sau gần mười năm xa cách và một cuộc hôn nhân thất bại, Brenna quay trở về điền trang Marcelli để sống cùng ông bà và cha mẹ mình. Giữa một loạt những biến cố và sự kiện mới của gia đình - một đám cưới đôi của chị và em gái cô, sự xuất hiện của một người anh trai lưu lạc từ lúc mới chào đời, những ám ảnh về một mối hận thù truyền đời giữa gia đình cô và nhà hàng xóm Giovanni - Brenna quyết định sẽ gây dựng một xưởng rượu mới cho riêng mình. Và cô chỉ có một lựa chọn duy nhất để thực hiện được ước mơ của mình - đó là đi vay tiền Nic Giovanni, kẻ thù của gia đình, cũng là mối tình đầu của cô. Và cô nhận ra, quãng thời gian mười năm xa cách, những đổi thay và thất bại trong cuộc sống, tất cả không thể làm thay đổi được tình yêu của cô dành cho rượu vang, cho đám nho, và hơn thế nữa, cho một con người... Là tác phẩm thứ ba trong serie năm cuốn về năm anh chị em nhà Marcelli của Susan Mallery, The Seductive One có tất cả những yếu tố của một cuốn Romance nhẹ nhàng mà mi_do_ri yêu thích: một gia đình đông vui, đầm ấm, một nghề làm rượu vang gia truyền đầy hấp dẫn, một mối tình đầu nóng bỏng, mê say, một chút thù hận và trả thù cho hợp với chất Ý... Mình không giỏi viết giới thiệu và tóm tắt, chỉ biết nói đây là tác phẩm mình thích nhất trong serie này và muốn được chia sẻ với mọi người. *** Vay một triệu dollar của quỷ xứ là một chuyện, kháng cự lại được với hắn khi làm điều đó lại là một chuyện khác. Brenna Marcelli tự cho mình cũng thông minh trên mức trung bình. Với một tương lai còn đang mù mịt, cô sẽ chẳng thể làm gì được ngoài việc cố tỏ ra hoàn toàn dễ thương trong suốt cuộc đối thoại sắp tới với Nicholas Giovanni. Cô sẽ tự tin, sẽ đầy thuyết phục, thậm chí là lôi cuốn nữa. Cô sẽ không nổi nóng, cầu xin, hay nghĩ đến sex. Đặc biệt là sex. Dù cho nó đã từng tuyệt đến thế nào đi nữa. Nhưng nó đã rất tuyệt, cô nghĩ, khi sải bước dọc theo chiều dài sảnh đợi khu văn phòng của Wild Sea Vineyards. Còn hơn cả tuyệt nữa. Một lần, họ đã làm chuyện đó trên bãi biển, và cũng đêm đó, chương trình tin tức đã đưa tin về một cơn trều cường cao bất ngờ. Brenna vẫn luôn thắc mắc liệu cô với Nic có một phần trách nhiệm trong hiện tượng đó hay không. “Quá khứ,” cô nói thầm, ép chặt tập hồ sơ trước ngực. “Một quá khứ cổ xưa rồi. Còn bây giờ là một thập kỷ mới – thậm chí là một thế kỷ mới. Mình có khả năng. Mình độc lập. Mình đang thực sự khó chịu vì anh ta đã để cho mình phải chờ đợi.” Cô quay lại và nhìn về phía cánh cửa đang đóng dẫn đến văn phòng riêng của Nic. Khi cô trợ lý của anh yêu cầu cô đợi và hứa là ông chủ sẽ gặp cô ngay thôi, Brenna đã tin tưởng cô ta. Giờ, gần mười phút trôi qua, cô trợ lý đã biến mất và vẫn không thấy bóng dáng Nic đâu. “Chỉ là một trò cân não thử sức thôi,” cô tự nhủ, hít một hơi thở dài lấy lại bình tĩnh. “Mình sẽ không bỏ cuộc đâu. Anh ta có thể khiến mình đợi lâu đến chừng nào anh ta muốn.” Ngoại trừ là bụng cô đang quặn lại, cô thấy thực sự hối tiếc vì đã cố cái cốc cà phê thứ năm đó, và cô có một cảm giác xấu là nếu cô ngừng đi lại quá lâu, hai đầu gối cô sẽ run rẩy mất. Đó không hẳn là bức chân dung về một con người chuyên nghiệp tự tin mà cô đang muốn phác họa ra. Cô thực sự cần – Cánh cửa văn phòng bật mở và chính con quỷ bước ra. Thôi được, có lẽ gọi Nic là quỷ là hơi quá, nhưng anh trông kín bưng, nguy hiểm, và đến mức này rồi thì cô sẽ bán cả linh hồn mình cho anh để có được cái cô muốn. Một đóa hồng được gọi trại đi bằng một cái tên khác, hay gì cũng được. “Brenna.” Nic mỉm cười gọi tên cô. Cứ như thể họ vẫn gặp nhau thường ngày. “Thật vui được gặp em.” Giá như là thế, cô nghĩ. Cô đã không đặt chân đến nhà Giovanni mười năm rồi. Và vì một lý do chính đáng. “Xin chào, Nic.” Anh ra hiệu về phía văn phòng của mình và cô bước vào chốn riêng tư ấy. Căn phòng không thay đổi nhiều so với lần cuối cùng cô nhìn thấy nó. Vẫn rộng lớn, vẫn bị thống trị bởi một cái bàn có từ thế kỷ thứ mười tám. Cái máy tính là mới, cũng như người chủ của nó. Mười năm trước, ông nội của Nic là người làm chủ chốn này. Từ đây, ông điều hành toàn bộ công chuyện làm ăn của Wild Sea Vineyards. Giờ, người già đã ra đi và Nic là người tiếp nối. Tiếp nối và bành trướng, cô nghĩ khi đứng trước tấm bản đồ treo trên tường đối diện với cái bàn bề thế. Cô quan sát những khu vực được bôi đậm, thể hiện chi tiết đất đai của nhà Giovanni, cho thấy họ đã mở rộng được đến cỡ nào trong bảy năm trở lại đây. Nic vẫn luôn muốn trở thành người lớn mạnh nhất và cừ nhất. Và không cần phải bàn cãi gì nữa, anh đã đạt được mục tiêu đó. Tất nhiên, tập trung vào tấm bản đồ cho phép cô không nghĩ đến cái bàn chết tiệt sau lưng. Thật không may, rồi cô sẽ phải quay lại và nhìn nó. Sẽ không tệ đến thế đâu nếu cô và Nic chưa từng, ừ, làm chuyện đó trên cái bàn ấy. Đó là một ngày chủ nhật, khoảng ba giờ sáng. Màn đêm yên tĩnh, lạnh và lãng mạn lạ thường. Tất nhiên, đó là hồi cô mười bảy tuổi và đang yêu, đang ở cái thời khắc mà dù có làm việc đáng chán nhất trần đời là ngồi chờ đợi một vệt màu nước khô đi, cũng vẫn thấy lẵng mạn như thường. “Xin hoan nghênh em ngồi xuống đấy,” anh nói, một chút thích thú trong giọng anh. Chắc chắn rồi, cô nghĩ, hất thẳng vai và quay lại đối mặt với quá khứ của mình. Nic làm việc ở đây hàng ngày. Anh hiển nhiên là đã quên những gì xảy ra trên cái khối gỗ đó. Nhưng cô thì không. Cô đi về phía một chiếc ghế tựa quá khổ và buông mình xuống lớp da êm ái. Nic đi vòng qua chiếc bàn của mình và ngồi đối mặt với cô. “Anh đã ngạc nhiên khi biết em hẹn gặp anh đấy,” anh nói một cách dễ dàng. “Anh hy vọng là mọi chuyện vẫn ổn với gia đình em.” “Mọi người khỏe cả. Thực sự là, tuyệt vời ý. Francesca đã đính hôn rồi.” Còn hơn cả đính hôn nữa, nhưng chuyện đó phải dành để lần khác kể thôi. “Ông nội em chắc hạnh phúc lắm.” Cô gật đầu và nhận thấy tia nhìn của mình đang chiếu lên gương mặt anh. Những đường nét mạnh mẽ, cô nghĩ, chợt nhớ đến người con trai ngày xưa khi cô quan sát người đàn ông trước mặt. Anh vẫn luôn có những nét mạnh mẽ. Đôi mắt hút hồn, cái mũi thẳng, cái cằm cương nghị, và thậm chí là ương bướng nữa, và cái miệng đã từng hôn cô khiến cô quên cả thời gian. Tiết trời tháng tám ấm, nhưng anh vẫn mặc một cái áo sơ mi dài tay màu đen, một cái quần tối màu. Không phải là quần jeans và áo T-shirt như cô vẫn từng quen nhìn. “Anh ăn mặc trang trọng quá,” cô nói.       “Vì cuộc gặp mặt của chúng ta đấy.” Anh mỉm cười, một nụ cười chậm rãi, lôi cuốn, khiến cô nhớ đến những nụ cười khác. Như nụ cười anh đã từng dùng để thuyết phục cô, rằng sẽ thực sự rất ổn khi làm tình vào buổi đêm trên cánh đồng nho. Đó là lần đầu tiên của họ, và cô đã mất đi sự trong trắng của mình giữa hợp âm của đàn dế và – Ngừng lại ngay lập tức, cô tự bảo mình. Chìm vào dòng hồi ức đó sẽ chỉ khiến cô dấn sâu thêm vào rắc rối thôi. Cô ở đây với một nhiệm vụ không liên quan chút gì đến những nụ cười lôi cuốn đó, hay là cái hơi nóng của ngọn lửa đang cháy dần xuống phía bụng dưới của cô. Cô bắt mình thả lỏng trên cái ghế da. Cô cẩn thận bắt chéo chân, và cố biểu lộ một vẻ thích thú vừa phải, uể oải vừa vừa. Ai mà biết được, biết đâu nó lại hiệu quả. “Tất cả chuyện ăn mặc rắc rối đó là vì em à? Em không nghĩ vậy đâu.’ Anh cười lục khục. “Được rồi. Cuối giờ chiều nay anh có một cuộc gặp với mấy nhà phân phối nước ngoài. Anh nghĩ là mặc đồ jeans sẽ khiến họ rút lui mất.” Không đâu, nếu họ là phụ nữ, Brenna nghĩ, trước khi cô kịp ngăn mình lại. “Vậy là bọn anh lại đang mở rộng tiếp,” thay vì vậy, cô nói. “Luôn luôn. Trở thành kẻ lớn mạnh nhất và cừ nhất.” “Anh thực sự đã thắng lợi về mặt số lượng rồi đấy.” “Không phải người ta vẫn nói vấn đề về kích cỡ đấy sao?” “Chỉ những ai không biết tận dụng những gì mình đang có thôi.” Một chớp mắt trước khi quá muộn, cô chợt nhớ đến lời thề của mình về chuyện sẽ không tranh cãi với anh. “Xin lỗi,” cô lẩm bẩm. Anh nhướng mày. “Vì đã không đồng ý với anh à? Lần đầu tiên đấy. Giờ thì thậm chí anh thấy tò mò rồi đây.” Anh toét miệng cười và ngả người về phía trước. “Được rồi, Brenna. Em đang ở đây, em diện một bộ cánh, và em mang theo cái đám trông như một núi giấy tờ vậy. Sao em không nói cho anh biết đang có chuyện gì vậy?” Vậy là họ sẽ đi thẳng vào vấn đề. Cô hắng giọng và đặt tập hồ sơ lên bàn. Khoảnh khắc đó, não cô như đông lại, và mọi câu nói thông minh, logic, đầy giọng điệu tài chính cô đã luyện tập bay sạch khỏi đầu. “Em là một trong những người cừ nhất trong chuyện làm ăn,” cô bắt đầu, rồi lại ngập ngừng, tự hỏi không biết nói vậy nghe có tự cao quá không. Ít ra anh cũng không phá ra cười. “Anh sẽ phải thừa nhận là anh không muốn đối đầu cạnh tranh với em đâu.” anh thừa nhận. Lời khen ngợi khiến cô thêm tự tin và muốn cựa quậy trên ghế của mình.Cô tự hài lòng với bản thân bằng một nụ cười nhẹ. “Như nội em vẫn nói, ngoài nội ra, em là người duy nhất trong gia đình có đam mê với rượu vang. Em vẫn dành cả cuộc đời mình cho nó.” Anh định nói gì đó, nhưng cô nhanh chóng tiếp lời. Không đời nào cô để anh nhắc cô nhớ lại mười năm cô đã bỏ bẵng Marcelli Wines. Mười năm cô đã sống như một con ngốc. “Nội đã cho em phụ trách nhà máy rượu vang. Em biết cần phải làm những gì để có được thành công ở một cấp độ mới.” “Vậy là em đến đây không phải để xin việc.” “Không.” Cô mở tập hồ sơ. “Em đến đây để xin một khoản vay.” Nic thẳng người. “Tại sao? Gia đình em đâu có vấn đề gì về tiền bạc đâu.” “Marcelli Wines thì không có. Việc kinh doanh chưa bao giờ tốt đến thế. Nhưng em không phải là họ. Em làm việc cho nội. Công ty vẫn thuộc sở hữu của nội.” “Rồi em sẽ thừa kế nó mà.” Giá như là thế. Sự thật không nên vẫn cứ gây đau đớn thế này, nhưng nó vẫn thế. Nó khiến cô đau đớn rất nhiều. “Việc thừa kế của các chị em gái em và em không còn chắc chắn nữa rồi.” Cô ngừng lời, biết rằng giữ bí mật cũng chẳng để làm gì. Rồi cuối cùng anh cũng biết chuyện thôi. “Có vẻ như bố mẹ em đã có một đứa con riêng, như bố mẹ nói thế. Một đứa con trai. Khi đó cả hai vẫn còn đang học trung học. Vì áp lực của gia đình, họ đã cho đứa trẻ làm con nuôi.” Nic vẫn điềm tĩnh như mọi khi. Thay vì để lộ bất cứ chút cảm xúc nào trên gương mặt, anh dựa lưng vào ghế. “Chuyện này sẽ thay đổi mọi thứ,” anh thừa nhận. “Em biết được khi nào?” “Trong buổi Đại tiệc đêm mùng bốn tháng bảy của nhà em. Thực ra thì chỉ là một buổi tiệc có bắn pháo hoa thôi. Vấn đề là, đứa trẻ thất lạc nay đã là một người đàn ông ba mươi tuổi.” Hai gia đình Marcelli và Giovanni có thể không còn nói chuyện với nhau được gần ba thế hệ rồi, nhưng họ vẫn phát triển trên cùng một chuẩn giá trị truyền thống Italia. Thuyết bình đẳng nam nữ vẫn còn chưa đặt chân được đến lãnh địa những vườn nho của họ. Nic nhận ngay ra vấn đề. “Và ông nội em đủ lạc hậu để thấy thoải mái hơn khi để lại công việc làm ăn của gia đình cho một người thừa kế nam. Anh đoán là người anh thất lạc bấy lâu đó có hứng thú chứ?” “Nó là cả một đống tiền. Anh có thể không hứng thú được không?” cô hỏi lại với một sự vui vẻ nhẹ nhàng mà cô không nhận thấy. “Tất cả chuyện này khiến em chỉ còn là một mẩu nhỏ trong chuyện thừa kế.” Giờ đến phần khó khăn rồi đây. “Em biết việc làm rượu vang đã ăn sâu trong máu em. Em không muốn làm bất cứ cái gì khác nữa trong suốt cuộc đời mình.” “Nếu suy nghĩ của em là đúng và anh trai em sẽ được thừa kế, thì sao anh ấy lại không để em tiếp tục điều hành mọi việc?” “Anh ấy có thể làm thế, nhưng em không sẵn sàng chỉ đứng một bên để đợi chờ và quan sát. Em cũng có những ý tưởng và kế hoạch riêng của mình nữa. Em muốn gây dựng một nhãn hiệu mới của riêng mình.” Anh chỉ vào chồng hồ sơ trước mặt cô. “Kế hoạch đề xuất của em đây à?” Cô gật đầu. “Em đã liệt kê chi tiết tất cả. Loại nho nào em muốn mua, mức giá nguyên liệu, các thùng đựng rượu, kho chứa. Còn có cả một mảnh đất em đang quan tâm nữa.” “Gây dựng một nhãn hiệu mới tốn không ít tiền đâu.” “Em biết.” Cái nhìn kín bưng của anh chưa một lần rời gương mặt cô. “Em còn đi vay tiền ở những chỗ nào nữa?” “Bất cứ đâu có những kẻ cho vay nặng lãi.” Anh gật đầu. “Để anh đoán nhé. Họ muốn biết tại sao em không thể lấy tiền từ ông nội em.” “Kiểu thế. Họ còn bận tâm là sao em không có bất kỳ bảo đảm nào. Em đã giải thích rượu vang chính là bảo đảm rồi, nhưng có vẻ chả gây được ấn tượng gì cho họ cả.” Cô nhún vai. “Anh là một người ưa mạo hiểm, nhưng chỉ với những món hời. Và em chắc chắn rồi, chính là cái mà anh đang tìm kiếm đấy.” Anh nhướng mày. “Thật không?” Brenna có thể hớn hở mà ném mình vào một chiếc xe tải đang lao tới. Cô có thể cảm thấy mặt mình đang nóng bừng lên, nhưng nhờ làn da oliu, nét ửng đỏ ấy không lộ ra. Chỉ là một sự an ủi nho nhỏ, nhưng cũng đủ để cô bám vào, như đang níu chặt người sẽ giải cứu cả cuộc đời cô vậy. “Anh biết là em có thể làm được mà,” cô nói, làm như cô chưa hề bị anh bắt thóp là đang chơi chữ vậy. “Có thể,” anh nói. “Nhưng tại sao anh lại cần phải hỗ trợ cho đối thủ của mình chứ?” Lần đầu tiên kể từ lúc đặt chân đến đây, Brenna được thư giãn. “Ôi, làm ơn đi. Nếu may mắn, phải mất năm năm em mới có thể đạt được mười phần trăm những gì anh đang có. Em không nghĩ là anh sẽ lo ngại em ngáng đường làm ăn của anh đâu.” “Có vẻ hợp lý đấy. Thế tại sao em lại đến chỗ anh?” “Anh là người duy nhất em biết có dư tiền mặt.” “Bố mẹ em có thể giúp em.” “Rõ ràng là vậy. Nhưng em không muốn khiến bố mẹ phải lựa chọn giữa em và nội. Anh là người hoàn toàn trung lập.” “Anh là một người nhà Giovanni. Điều ấy không khiến anh trở thành anh em với quỷ dữ sao?” Thế, đúng là cái ý tưởng cô đã có lúc trước, chỉ có điều, trong mắt cô, mối quan hệ anh em đó có gần gũi hơn chút ít nữa. Đến chỗ Nic là hy vọng cuối cùng của cô, nhưng cũng là một sự mạo hiểm đã được cân nhắc kĩ. Mối thù giữa hai gia đình Marcelli và Givanni đã kéo dài hàng bao năm trời. Có thể nội cô sẽ biết chuyện về món nợ nếu cô đi vay từ những kênh truyền thống như ngân hàng, nhưng nội sẽ không bao giờ biết được nếu như Nic là người cho cô vay. Nội Lorenzo thà cắt lưỡi của mình còn hơn phải nói chuyện với một người nhà Giovanni. Brenna và các chị em của cô chưa bao giờ quan tâm đến mối thù truyền kiếp đó cả. Nic cũng chưa bao giờ, anh đã chứng mình như vậy từ lần đầu tiên cô gặp anh. Nhưng với ông bà của cô – sự thù địch đó vẫn còn nguyên. “Có chút ít mỉa mai trong cuộc nói chuyện này,” cô thừa nhận. “Em chỉ muốn nghĩ rằng nó sẽ hấp dẫn anh.” Anh quan sát cô. Brenna muốn biết anh đã thấy những gì, nhưng có lẽ anh không nhìn thấy gì cả lại tốt hơn. Cô vẫn còn đang trong giai đoạn phục hồi từ vụ cắt tóc bốc đồng thảm hại lần trước. Vài tháng ở nhà với sự chăm bẵm ăn uống của hai bà đã đắp thêm vào những đường cong vốn đã đầy đặn của cô bảy pound nữa. Cô nghĩ bộ cánh cô chọn mặc nhìn rất ổn, nhưng như vậy đã đủ chưa? Cô đã khác xa với cô nhóc mười bảy tuổi, người đã từng hứa sẽ yêu Nic bằng cả trái tim; nhưng vấn đề là, liệu anh có còn bận tâm đến sự thay đổi đó là tốt hay xấu nữa không? “Người ta vẫn đồn anh là một tên con hoang tàn nhẫn đấy,” anh nói bất chợt. “Em có nghe rồi. Em có nên sợ không?” “Nói anh nghe xem.” Cô có thể nhớ mọi thứ về Nic – cái cách anh chạm vào cô, cách anh hôn cô, mùi hương của làn da anh. Cô đã từng biết anh, người con trai ngày xưa, chứ không phải là người đàn ông này. Cái gì vẫn vậy và cái gì đã thay đổi? Mà chuyện đó liệu có quan trọng nữa không? Có là tên con hoang tàn nhẫn hay không, thì cô vẫn cần tiền của anh. “Giờ em không còn sợ hãi dễ dàng vậy đâu.” Cô đẩy tập hồ sơ về phía anh. “Anh thử xem xem rồi cho em biết anh nghĩ gì.” Anh đặt bàn tay lên cái bìa da nhưng không mở nó ra. “Bao nhiêu?” Trong bụng cô như đang xuất hiện cả đàn bướm và chúng đang bắt đầu bay. Cô nghĩ chúng có thể đang luyện tập màn hạ-cánh-và-tiếp-đất. Miệng cô khô khốc, ngón tay cô ướt đẫm, và cả căn phòng bỗng nhiên chao đảo. “Một triệu dollar.” Nic không có bất kỳ một phản ứng gì – ít nhất là vẻ bề ngoài. Anh không nheo mắt, vẫn ngồi yên trên ghế; anh thậm chí không cười. Nhưng bên trong, sự tò mò thích thú của anh đã biến thành một mối sửng sốt sâu sắc. Anh lôi ví từ túi quần sau và trỏ vào đám giấy bạc. “Em có muốn tất cả bằng đồng hai mươi dollar không?” “Em không phải đang ở vị thế được đòi hỏi. Tiền hai mươi dollar cũng ổn rồi.” “Anh không nghĩ hôm nay anh mang theo mình nhiều ngần ấy đâu.” "Bất tiện quá." Cô nhìn anh, đôi mắt đang mở lớn đã phản bội sự bối rối của cô. Cô đang cùng đường rồi, và cả hai người bọn họ đều biết vậy. Nếu anh từ chối cô, cô sẽ không thể có được khoản vay. Mọi giấc mơ về một nhãn hiệu của riêng cô vậy là sẽ tan tành. Ồ, chắc rồi, cô vẫn có thể mua được vài tấn nho ngoài chợ nông sản, đi mượn trang thiết bị, rồi làm ra vài tá thùng rượu vang rẻ tiền cất ở một gara nào đó. Cô có thể có được sự ủng hộ từ những người trung thành với Marcelli, một chút chú ý, có thể là một vài lời từ Hiệp hội rượu vang. Nhưng không có tiền, cô sẽ không bao giờ có cơ hội để làm một cái gì to tát cả. Không, khi anh có quan tâm quái gì đến chuyện đó đâu. Tất cả những gì anh quan tâm, là mục đích của anh. Làm sao cái yêu cầu của cô có thể ghép vừa vào bức tranh to lớn đó? Anh đứng lên, đi vòng qua bàn đến đứng trước mặt cô, anh tựa vào bàn, khoanh hai tay trước ngực. Đó là một tư thế đầy hăm dọa. Đầy thách thức. Brenna phản ứng lại bằng cách buông hai chân, rồi lại bắt chéo chân trở lại. Trong sự yên lặng của căn phòng, tiếng cọ sát của đôi tất lụa của cô như nghiến vào tai anh. Anh nhận thấy mình đang dõi theo chuyển động đó, nhìn chăm chăm vào đường viền trên váy cô, tưởng tượng ra cặp đùi cô phía dưới cái váy. Và phía trên cặp đùi cô? Là thiên đường. Ít nhất, đó là những gì cơ thể cô mang lại mười năm trước. Kín đáo, trơn mượt, bí mật – là con đường dẫn tới sự cứu thế. Để rồi thay vào đó, cô đã đưa anh thẳng xuống địa ngục. Vì cô, anh đã bị đuổi khỏi nhà. Anh đã phải sống tha hương, bị bỏ rơi, và bị ruồng bỏ cho đến chết. Thật không may, hồi ức đó chẳng giúp được cái khỉ gì cho trạng thái căng cứng bất chợt đang lan khắp người anh. Anh vội nhìn đi chỗ khác trước khi tự biến mình thành mất trí với những kỷ niệm không nên nhớ đến. “Anh không nói không,” anh nói với cô. “Anh đang đùa!” Cô đứng bật dậy, vẫn thấp hơn một foot so với anh. Đủ gần để cho anh có thể thấy những tia vàng nâu trong mắt cô, và cả vết sẹo nho nhỏ nơi khóe miệng cô. Đủ gần để mùi hương của cô chiếm hữu toàn bộ không gian của anh. Mùi hương đã khác, nhưng phản ứng của anh với nó thì không. Hơi nóng đã bị lãng quên từ lâu bỗng thức dậy, lan tỏa, tìm kiếm nơi chế ngự. Anh cố gạt đi hơi nóng và ham muốn. Không đúng nơi và không đúng thời điểm, và cả cô, chắc chắn quá đi rồi, là không đúng người. Điểm chính bây giờ là anh vốn đã có một kế hoạch. Trong những năm qua, anh đã học được rằng, một kế hoạch thấu đáo sẽ luôn là đảm bảo cho anh giành chiến thắng. Khi mục tiêu là sự trả thù, thì điều duy nhất cần là phải kiên nhẫn chờ đợi. Bản năng của anh mách bảo món nợ của Brenna là một quả home-run trời cho từ cú đập đầu tiên. Tất cả những gì anh phải làm là quẳng cây gậy của mình đi và chạy vòng quanh sân bóng. Nhưng anh muốn chắc chắn hơn. “Rất nhiều tiền đấy,” anh nói.   Mời các bạn đón đọc Quyến Rũ của tác giả Susan Mallery.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thánh Địa Tội Ác
Thánh địa tội ác (Sanctuary) là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Mỹ William Faulkner xuất bản lần đâu vào năm 1931, tác phẩm được coi là một trong những câu chuyện tâm lý bi kịch cổ điển của miền Nam nước Mỹ thời bấy giờ. William Faulkner đã miêu tả về tác phẩm này: “Đây là câu chuyện khủng khiếp nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra được và viết nó trong chừng 3 tuần lễ.” Thánh địa tội ác kể về việc một người trinh nữ bị một tên bệnh hoạn mắc chứng bệnh bất lực - Popeye – cưỡng bức bằng một bắp ngô. Popeye là tên tội phạm nguy hiểm, hắn là tay sai của gã Goodwin buôn rượu lậu và sào huyệt của bọn chúng nằm trong một khu vực tối tăm của đầm lầy được gọi với cái tên Old Frenchman. Trong khi thực hiện âm mưu cưỡng hiếp Temple, Popeye đã ra tay sát hại đồng bọn của gã là Tommy khi tên này muốn bảo vệ cô gái. Sau khi thực hiện hành vi bẩn thỉu của mình, Popeye bỏ trốn khỏi căn nhà của Goodwin. Sáng hôm sau, Goodwin phát hiện ra cái chết của Tommy nhưng ông ta lại vô cùng sợ hãi Popeye nên không dám khai báo với cảnh sát vụ việc. Sau khi biết được vụ án mạng, cảnh sát bắt giữ Goodwin. Câu chuyện tiếp tục với cuộc chiến dai dẳng giữa Horace Benbow, một vị luật sư chính trực tìm mọi cách lôi Popeye ra chịu tội trước vành móng ngựa cho tội ác của hắn và để trả lại tự do cho Goodwin. Cuối cùng, Poyeye phải trả giá bằng một bản án treo cổ cho tội ác hắn không bao giờ muốn thừa nhận. *** Là một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, ông được trao giải Nobel Văn học vào năm 1949. Sánh vai với Mark Twain, Robert Penn Warren, Flannery O’Connor, Truman Capote, Eudora Welty, Thomas Wolfe, Harper Lee và Tennessee Williams, ông trở thành một trong những nhà văn quan trọng nhất của nền văn văn học miền Nam nước Mỹ. William Faulkner, một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ XX, sinh ngày 25/09/1897 tại New Albany, Mississippi. Ông xuất bản cuốn sách đầu tiên, The Marble Faun vào năm 1924, một tuyển tập những bài thơ nhưng lại giống như biên niên sử văn học về cuộc sống ở các tiểu bang của miền Nam nước Mỹ, đặc biệt về địa danh hư cấu Yoknapatawpha, khung cảnh cho một số tiểu thuyết sau này của ông. Chẳng hạn như cuốn Sanctuary (1931), The Hamlet (1940), The Town (1957) và The Mansion (1959), ông miêu tả tỉ mỉ đời sống nội chiến ở miền Nam, chú trọng vào cuộc đời các nhân vật (đặc biệt là những thành viên trong gia đình Snopes) và sự thay đổi đạo đức trong một xã hội đang ngày càng suy đồi. Những tiểu thuyết khác của ông bao gồm The Sound and the Fury (1929), As I Lay Dying (1930), Light in August (1932), Absalom! Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), Intruder in the Dust (1948), Requiem for a Nun (1951), A Fable (1954) và The Reivers (1962). Hai tác phẩm sau cùng đã đem lại cho ông giải thưởng Pulitzer cao quý. Đồng thời ông cũng là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, thơ và tiểu luận. Bằng việc kết hợp chủ nghĩa tượng trưng với tiểu thuyết dòng ý thức, ông đã sáng tạo nên một phương pháp viết tiểu thuyết mới. Vào năm 1949, ông đã vinh dự nhận giải Nobel Văn học. William Faulkner mất tại Byhalia, Mississippi, ngày 06/07/1962. Thánh địa tội ác là một cuốn tiểu thuyết đi sâu vào nghiên cứu bản chất của tội ác, chứa đựng nhiều yếu tố ly kỳ, bí ẩn, dựa trên những truyền thuyết dân gian của địa phương và vụ bắt cóc có thật xảy ra với Temple Drake, thiếu nữ mười bảy tuổi, vô cùng trong sáng ngây thơ nhưng đã bị dẫn dắt vào thế giới ngầm tại Memphis - nơi cô bị những tên xã hội đen giam giữ. Nhắc tới ông, không thể không kể đến tứ đại kỳ thư nổi tiếng: -    Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury -1924) -    Khi tôi nằm chết (As I lay Dying - 1930) -    Nắng tháng Tám (Light in August -1932) -    Absalom, Absalom! (1936) Một số tác phẩm khác đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Hoa Hồng Cho Emily Cọ Hoang Bọn Đạo Chích Thánh Địa Tội Ác ... *** "Tôi không thể in cuốn sách này. Hai chúng ta sẽ bị bỏ tù". Câu trả lời của Mr. Smith, biên tập viên của Faulkner tại NXB Noel Polk, người từng đỡ đầu trót lọt cuốn The sound and the fury (Âm thanh và cuồng nộ), khi nhận được bản thảo Sanctuary (*) lần đầu tiên vào tháng 1-1929, hàm ý mối e ngại trước sự khốc liệt đến mức động chạm tới ranh giới những điều cấm kỵ trong xã hội thời đó, của những hình ảnh văn chương và thông điệp nhân sinh mà W. Faulkner đưa ra trong cuốn sách. Câu chuyện vuột khỏi tầm người kể Qua hai lần trực tiếp sửa chữa, đánh máy lại trên bản thảo tác phẩm và ngay trên bộ vỗ sắp chữ của nhà in, Sanctuary được Faulkner công bố như hiện trạng, suốt từ năm 1931 cho tới nay. Cuốn sách với số phận kỳ lạ thêm một lần nữa chứng minh ý nghĩa không thể thay thế của thể loại văn chương lấy tiếng nói phản tỉnh xã hội và vượt thoát khỏi những "cấm kỵ" về đạo đức làm chủ đề trung tâm, đồng thời nó cũng tự tìm đến lối tổ chức nghệ thuật gây bất ngờ, độc đáo và sắc bén. Tương tự con đường đưa một số nhà văn sau này đến với giải thưởng Nobel văn chương: Günter Grass (1999), Elfriede Jelinek (2006)... Phần quan trọng trong "câu chuyện" của Faulkner không bao giờ được kể như những gì đang diễn ra, với sự chứng kiến tỉnh táo, đáng tin của bất kỳ ai. Tất cả những gì được tái hiện chỉ là cố gắng của nhiều nhân vật, lắng nghe, đeo bám, dò dẫm, phục hiện... nhưng rốt ráo chỉ là kẻ "tới trễ", lượm được mảnh rớt lại của những gì đã xảy ra, tựa như "thầy mù sờ voi". Luật sư Horace trên đường tới thị trấn, bị tên ma cô Popeye nghi ngờ và cưỡng chế về sào huyệt của chúng, nơi chuyên nấu whisky lậu, một ngôi nhà nát trong vùng rừng hoang sơ thuộc Mississippi. Anh được vợ chồng chủ lò rượu lậu, một cựu binh Thế chiến II tên Goodwin giúp đỡ. Sau này, Horace hết lòng bênh vực Goodwin, trong vụ án khủng khiếp giết người và cưỡng hiếp man rợ cô nữ sinh Temple Drake tại ngôi nhà nát khi Goodwin bị buộc tội, nhưng tất cả cố gắng của anh trở nên vô ích. Qua quan sát của Horace, Temple..., Goodwin là người duy nhất gắng sức để duy trì thứ trật tự sơ khai của tình thương và lòng tốt trong cộng đồng du thủ du thực, bao gồm cả những tay bệnh hoạn ma quỷ như Popeye. Câu chuyện về Goodwin, như một hình ảnh của lòng trắc ẩn và lương thiện lại được cố ý kể lại theo cách gián tiếp, rời rạc, thiếu chi tiết, chìm khuất dưới vô số biểu hiện của cái thực tại hỗn độn được mô tả qua sự mù mờ, ngây ngô, điếc lác, có khi vô trách nhiệm, thậm chí trong trạng thái hoảng loạn, hoặc bằng cái nhìn đầy thành kiến... của các nhân vật khác. Nghệ thuật của sự ngắt quãng và xa lạ Bằng diễn tiến melodrama quen thuộc, câu chuyện cho thấy từng bước cái thiện và ham muốn tốt lành của đời sống đã bị vùi dập, hủy hoại một cách tàn nhẫn và bất công ra sao, tương tự trường hợp To kill the mocking bird của Harper Lee. Nhưng nghệ thuật của riêng Faulkner lại là cách ông đã buộc chúng ta đối mặt với những điều kỳ lạ, u ám và man rợ trong chính mỗi người bình thường. Bạn đọc sẽ không thể quên phiên tòa mà từ nghi can cho tới nạn nhân, nhân chứng đều trở thành kẻ đồng lõa khi giấu giếm sự thật về kẻ thủ ác... Sự vận dụng quyết liệt và cạn kiệt thủ pháp "ngắt quãng" phá bỏ logic của sự kiện và tính cao trào thông thường, câu chuyện được dựng lại hết sức hình thức và máy móc, theo lối hình dung võ đoán, có khi thuần túy thị giác. Các nhân vật trở nên xa lạ, không thể đoán định so với con người khởi đầu của nó... Trong một thế giới bị "tung hỏa mù", không còn cột mốc thông thường để đánh dấu thiện - ác, chúng ta "bị ép" tẩy rửa định kiến, ghi lại những dấu mốc mới tinh trong việc xác định một thái độ đạo đức và sinh tồn. Faulkner đã "dành thời giờ suy nghĩ những gì mà một con người ở Mississippi tin tưởng là khuynh hướng (đời sống) căn bản hiện nay, cố gắng tìm ra câu trả lời xác đáng nhất, và hư cấu những câu chuyện khủng khiếp nhất mà bản thân tôi có thể tưởng tượng", tạo ra thứ động lực tinh thần mới trong một đời sống bị đe dọa hủy hoại tới tận cùng mọi biểu hiện. Cũng chính ông là người đưa ra thông điệp: không phải bản thân cái ác, mà nỗi khiếp nhược trước tội ác sẽ làm sụp đổ toàn bộ giá trị mà con người phải trả giá bằng hàng ngàn năm gây dựng, như luật pháp, công lý, nền văn minh. KHÁNH PHƯƠNG Review ___________ (*): Thánh địa tội ác(nguyên tác: The sanctuary), tác giả: William Faulkner, người dịch: Trần Nghi Hoàng, NXB Văn Học, tháng 7-2012. Mời các bạn đón đọc Thánh Địa Tội Ác của tác giả William Faulkner.
Tuần Làm Việc 4 Giờ
Nếu bạn biết cách quản lí thời gian, các mục tiêu cũng như thứ tự ưu tiên các công việc một cách hợp lí thì bạn hoàn toàn có khả năng tạo ra nguồn thu nhập đầy đủ dù chỉ làm việc 4 giờ mỗi tuần. Và thế là, tạm biệt nhé - những ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ nặng nhọc! Cuốn sách THE 4-HOUR WORK WEEK đã làm dấy lên một làn sóng tư tưởng mới mẻ tại thung lũng Silicon. Marc Andreesen - chuyên gia về tối ưu hoá năng suất làm việc cá nhân đồng thời là một trong những doanh nhân nổi tiếng nhất ở trung tâm công nghệ cao của thế giới trong một bài phỏng vấn cho biết: "Về cơ bản, việc Tim đã làm là tập hợp và chắt lọc những học thuyết về quản lý thời gian cùng năng suất lao động trong vòng 2, 3 thập kỷ vừa qua, sau đó tối ưu hoá nó và đưa ra những khái niệm mới, rất hữu dụng". Bí quyết mà tác giả phát hiện ra được gói gọn trong chữ DEAL tương ứng với bốn bước: D: Definition (Xác định) Trong bước này Tim Ferriss giúp bạn thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ sai lầm và đưa ra những qui tắc và mục đích của một phương pháp mới. Bạn sẽ có câu trả lời cho câu hỏi những nhà giàu mới (new rich) là ai và họ hành động như thế nào. E: Elimination (Loại bỏ) Giết chết những quan điểm lỗi thời về cách quản lí thời gian. Bằng cách sử dụng những kĩ thuật khác thường của những nhà giàu mới: áp dụng “sự thờ ơ có chọn lựa” – loại bỏ những thứ rườm rà không cần thiết, chỉ chuyên tâm vào những việc thực sự quan trọng, bạn có thể tăng năng suất lao động lên ít nhất mười lần. Phần này cũng giải thích nhân tố đầu tiên tạo nên một phong cách sống sung túc, đó là thời gian. A: Automation (Tự động hóa) Có những phương pháp nào khiến tiền của cứ thế tự động chảy vào túi bạn? Trong bước này bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu về thu nhập (income): nhân tố thứ hai tạo nên một phong cách sống sung túc, thoải mái và đâu là điểm khác nhau chính giữa thu nhập tương đối và thu nhập tuyệt đối? L: Liberation (Tự do) đây là bản tuyên ngôn về tính lưu động. Bạn sẽ học được cách điều khiển công việc từ xa trong khi đang ở trong kì nghỉ. “Tự do” ở đây không có nghĩa là các kì nghỉ rẻ tiền, nó ám chỉ cách bạn thoát khỏi các mối quan hệ ràng buộc bạn với một địa điểm cố định. Phần này cũng đề cập đến nhân tố cuối cùng tạo nên một cuộc sống thoải mái: tính lưu động (mobility). Ngoài rất nhiều ý kiến khen ngợi, đồng tình với những bí quyết này, cũng có một số ý kiến phản đối khá gay gắt. Có người cho rằng cuốn sách đang cố rao giảng một thứ phương châm sống không còn mới mẻ: “Tận hưởng cuộc sống ngay khi bạn còn có thể.” (Đã được Thoreau đưa ra cách đấy 2 thế kỷ!) Và đưa ra giải pháp để có thể thực hiện lối sống “nhàn hạ” đó là bằng cách thuê làm bên ngoài (outsource) tất cả những công việc có thể, do vậy bạn giảm thiểu những việc bạn phải làm và nhờ đó có thời gian để hưởng thụ cuộc sống. Những độc giả này lập luận rằng: như vậy, thực ra chẳng có công việc nào mất đi cả, nó chỉ được thực hiện bởi những người khác mà thôi. Và nếu ai cũng làm theo lời khuyên của Tim Ferriss thì cuối cùng ai sẽ là người làm những việc đó? Thêm nữa, bí quyết làm giàu mà Tim Ferriss cung cấp trong quyển sách này tập trung vào việc thành lập một doanh nghiệp điện tử, làm giàu nhờ kinh doanh qua mạng (công thức phổ biến giúp làm nên các nhà giàu mới). Công thức này khó có thể áp dụng cho mọi người, vì không phải ai cũng được thông minh và có điều kiện tốt như Ferriss. Những luồng dư luận có vẻ “đối nhau chan chát” với cuốn sách cũng là điều dễ hiểu, bởi không có gì là hoàn toàn tuyệt đối, cũng như Tim Ferriss không tham vọng khiến cả thế giới được “xả hơi thoải mái” chỉ nhờ cuốn sách của anh. Điều đáng ghi nhận nhất ở đây có lẽ là đa số các độc giả đều đánh giá cao cuốn sách của Tim Ferriss với nhận xét: cuốn sách có lối viết kiểu tự sự dễ đọc, bố cục mạch lạc dễ hiểu và đã cung cấp rất nhiều thủ thuật hay giúp những người làm công việc công sở tiết kiệm thời gian và giảm stress (ví dụ thủ thuật kiểm tra và trả lời email 2 lần một ngày vào những giờ xác định). Họ cũng cho rằng cuốn sách giúp họ thiết lập một cuộc sống “ngăn nắp hơn” và vui vẻ hơn nhiều. Và điều đó thêm một lần nữa khẳng định thêm: mọi bí quyết chỉ là bí quyết, còn áp dụng như thế nào, tùy thuộc hoàn toàn vào bạn, mà khởi đầu cho tất cả, bạn cứ tự nhủ với mình rằng: có thể làm nó tốt đẹp và ổn thỏa hơn hiện tại rất nhiều lần! *** Bạn đang cầm trên tay cuốn sách Tuần làm việc 4 giờ, chắc chắn bạn không khỏi ngạc nhiên về tựa đề của cuốn sách, khái niệm về New Rich1  (NR) cũng như tài năng siêu việt của tác giả trẻ tuổi viết nên cuốn sách này. Cảm giác đó của bạn cũng giống như cảm giác của chúng tôi khi lần đầu tiên biết về cuốn sách, lạ lẫm bởi những nguyên tắc, những khái niệm và một lối sống hoàn toàn khác biệt với lối mòn suy nghĩ từ hàng nghìn năm về trước. Sau một năm phát hành, cuốn sách đã được xuất bản ở 30 quốc gia trên thế giới, ngoài ra cuốn sách luôn nằm trong danh sách bestseller của các tạp chí nổi tiếng như New York Times, Wall Street Journal và Business Week. Tác giả Timothy Ferriss đã mô tả vô cùng chi tiết về cách bạn có thể thiết kế lối sống cho riêng mình và gia nhập nhóm NR. Bạn đã từng có rất nhiều giấc mơ phải không, cuốn sách này sẽ giúp bạn lập kế hoạch và không để những giấc mơ đó bị lãng quên một cách vô nghĩa. Bạn có thể làm việc cả tuần ở nhà mà vẫn hiệu quả hay vừa leo lên núi Rainier hoặc thăm vịnh Panama mà vẫn xử lý tốt công việc ở công ty của mình. Bạn đã bao giờ từng thuê một người trợ lý cách xa nửa vòng trái đất làm việc cho bạn chưa, cô ta có thể viết một lá thư ngọt ngào để xoa dịu người vợ đang giận dỗi của bạn, sắp xếp lịch trình làm việc cũng như chuẩn bị cho bạn báo cáo bán hàng sáng hôm sau. Bạn cũng có thể học thành thạo một ngôn ngữ trong vòng sáu tháng và sống cuộc sống của một triệu phú. Thời gian làm việc của bạn có thể giảm đi 20 lần nhưng thu nhập lại tăng lên gấp hơn 10 lần... Nếu bạn là người không xác định được mình thực sự cần gì, thì đây là cuốn sách dành cho bạn. Nếu bạn là một ông chủ hay một nhân viên đang chìm ngập trong đống công việc, cuốn sách này cũng dành cho bạn. Cuốn sách này không chỉ giúp bạn làm việc thông minh hơn, kiếm được nhiều tiền hơn mà còn giúp bạn thực hiện được những giấc mơ đã bị lãng quên của mình. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở chỗ đưa ra những quan niệm, những câu châm ngôn hay ví dụ của tác giả để khơi dậy trong bạn mong muốn thay đổi cuộc sống hiện tại mà cuốn sách còn mô tả rất chi tiết cách bạn cần hành động, những thông tin hay trang web mà bạn cần sử dụng trong quá trình thay đổi cuộc sống của mình. Tuần làm việc 4 giờ là món quà tuyệt vời đối với chúng tôi, những người đầu tiên tiếp cận với cuốn sách và chúng tôi mong muốn chia sẻ món quà này cùng bạn. CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH THÁI HÀ  Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 Những nhà triệu phú sống và làm việc tự do, không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian... Họ có thể tự Thiết kế Lối sống - Lifestyle Design (LD) cho riêng mình. Mời các bạn đón đọc Tuần Làm Việc 4 Giờ của tác giả Timothy Ferriss.
Con Chim Xanh Biếc Bay Về
Không giống như những tác phẩm trước đây lấy bối cảnh vùng quê miền Trung đầy ắp những hoài niệm tuổi thơ dung dị, trong trẻo với các nhân vật ở độ tuổi dậy thì, trong quyển sách mới lần này nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lấy bối cảnh chính là Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh nơi tác giả sinh sống (như là một sự đền đáp ân tình với mảnh đất miền Nam). Các nhân vật chính trong truyện cũng “lớn” hơn, với những câu chuyện mưu sinh lập nghiệp lắm gian nan thử thách của các sinh viên trẻ đầy hoài bão. Tất nhiên không thể thiếu những câu chuyện tình cảm động, kịch tính và bất ngờ khiến bạn đọc ngẩn ngơ, cười ra nước mắt. Và như trong mọi tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh, sự tử tế và tinh thần hướng thượng vẫn là điểm nhấn quan trọng trong quyển sách mới này. Như một cuốn phim “trinh thám tình yêu”, Con chim xanh biếc bay về dẫn bạn đi hết từ bất ngờ này đến tò mò suy đoán khác, để kết thúc bằng một nỗi hân hoan vô bờ sau bao phen hồi hộp nghi kỵ đến khó thở. Bạn sẽ theo phe sinh viên-nhân viên với những câu thơ dịu dàng và đáo để, hay phe ông chủ với những kỹ năng kinh doanh khởi nghiệp? Và hãy đoán thử, điều gì khiến bạn có thể cảm động đến rưng rưng trong cuộc sống giữa Sài Gòn bộn bề? Lâu lắm mới có hình ảnh thành phố rộn ràng trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh - điều hấp dẫn khác thường của Con chim xanh biếc bay về. Chính vì thế mà cuốn sách chỉ có một cách đọc thôi: một mạch từ đầu đến cuối! Đặc biệt, kèm theo mỗi cuốn sách là 6 postcard với nhiều tranh vẽ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường. *** Tác giả Nguyễn Nhật Ánh Nguyễn Nhật Ánh (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955) là một nhà văn người Việt. Ông được biết đến qua nhiều tác phẩm văn học về đề tài tuổi mới lớn, các tác phẩm của ông rất được độc giả ưa chuộng và nhiều tác phẩm đã được chuyển thể thành phim. Ông lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, ông còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông. Năm 13 tuổi, ông đăng báo bài thơ đầu tiên. Tác phẩm đầu tiên in thành sách là một tập thơ tên Thành phố tháng tư (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1984, in chung với Lê Thị Kim). Truyện dài đầu tiên của ông là tác phẩm Trước vòng chung kết (Nhà xuất bản Măng Non, 1984). Hai mươi năm trở lại đây, ông tập trung viết văn xuôi, chuyên sáng tác về đề tài thanh thiếu niên. Năm 1990, truyện dài Chú bé rắc rối của ông được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao giải thưởng Văn học Trẻ hạng A. Năm 1995, ông được bình chọn là nhà văn được yêu thích nhất trong 20 năm (1975-1995) qua cuộc trưng cầu ý kiến bạn đọc về các gương mặt trẻ tiêu biểu trên mọi lĩnh vực của Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ, đồng thời được Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh bình chọn là một trong 20 nhà văn trẻ tiêu biểu trong 20 năm (1975-1995). Năm 1998, ông được Nhà xuất bản Kim Đồng trao giải Nhà văn có sách bán chạy nhất. Năm 2003, bộ truyện nhiều tập Kính vạn hoa được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương Vì thế hệ trẻ và được Hội Nhà Văn Việt Nam trao giải thưởng. Đến nay ông đã xuất bản gần 100 tác phẩm và từ lâu đã trở thành nhà văn thân thiết của các bạn đọc nhỏ tuổi ở Việt Nam. Năm 2004, Nhật Ánh ký hợp đồng với Nhà xuất bản Kim Đồng tiếp tục cho xuất bản bộ truyện dài gồm 4 phần mang tên Chuyện xứ Lang Biang nói về hai cậu bé lạc vào thế giới phù thủy. Đây là lần đầu tiên ông viết một bộ truyện hoàn toàn dựa trên trí tưởng tượng. Vì vậy, để chuẩn bị cho tác phẩm này, ông đã phải mất 6 tháng nghiên cứu tài liệu và đọc sách báo liên quan như Phù thủy và Pháp sư, Các huyền thoại phương Đông, Ma thuật và thuật phù thủ. Sau Chuyện xứ Lang Biang, tác phẩm tiếp theo của ông là bút ký của một chú cún có tên Tôi là Bêtô. Năm 2008, ông cho ra đời tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, được báo Người lao động bình chọn là tác phẩm hay nhất năm 2008. Năm 2012, Nhật Ánh cho ra mắt truyện dài Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ. Các tác phẩm ra đời gần đây nhất là Ngồi khóc trên cây (tháng 6 năm 2013), Chúc một ngày tốt lành (tháng 3 năm 2014), Bảy bước tới mùa hè (tháng 3 năm 2015), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (28 tháng 2 năm 2016), Cây chuối non đi giày xanh (7 tháng 1 năm 2018) và Làm bạn với bầu trời (tháng 9 năm 2019). *** Con chim xanh biếc Đậu hờ trên tay Yêu anh đến thế Mà thành mây bay… Con chim xanh hạnh phúc ấy có trở về với Lương, với áo pull xanh, với Khuê, với Sâm? Ờ, cả đôi nam nữ hay ghé quán nữa, con chim xanh biếc kia dường như vẫn thấp thoáng trên vai họ. Chúng ta không ai sống để chết, dù cái chết sớm muộn gì cũng vẫy gọi chúng ta. Cũng như vậy, chúng ta không yêu để tan vỡ, đặc biệt khi tan vỡ là điều chúng ta hoàn toàn tránh được. Trái tim trong lồng ngực mỗi người giống như chiếc đồng hồ đỏng đảnh, thỉnh thoảng tỏ ra mệt mỏi biếng lười, nhưng bạn yên tâm đi, rồi nó sẽ tích tắc chạy lại một khi thần tình yêu đã lên dây. *** “Viết về tuổi thơ là cách duy nhất để tôi trục vớt những kỷ niệm đã chìm sâu dưới đáy thời gian, tái hiện lại những ngày tháng tươi đẹp đó và bày chúng trên trang sách như bày ra một thứ bánh ngon để hương vị quyến rũ của chúng mãi mãi ở lại với chúng ta. Cũng có thể chính tuổi thơ đã mượn tay tôi để làm tất cả những chuyện này.” — NGUYỄN NHẬT ÁNH, trích thư gửi bạn đọc Nhật Bản trong tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Đi qua hoa cúc bản tiếng Nhật do hai dịch giả Kato Sakae và Itoh Hiromi chuyển ngữ, nhà xuất bản Nikkei, 2020. “Tuổi dậy thì là thế hệ chưa chín chắn như người lớn nhưng không còn là trẻ nhỏ nữa, đây là lứa tuổi phức tạp và khó bảo đối với các bậc phụ huynh. Trẻ em thuộc thế hệ này có quan tâm và sở thích riêng, có vấn đề riêng không chia sẻ được với cha mẹ. Đầu thập niên 90 khí các tác phẩm dành cho lứa tuổi này của Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện, các trẻ em sinh ra sau chiến tranh đã lớn lên thành thiếu niên tuổi dậy thì và hình thành một đội ngũ khá đông. Họ đã nhiệt liệt ủng hộ tác phẩm của ông và các tập sách của ông đã đạt được những kỷ lục không thua kém sách manga Nhật Bản. Liệu đó là vì bản thân ông vốn giàu tâm hồn trẻ, hiểu thấu những vui buồn của tuổi trẻ, muốn nâng cánh ước mơ của họ qua tác phẩm của mình, hay đó chính là những ước mơ thời trai trẻ của ông, nhưng dù là gì đi chăng nữa thì điều ông đã làm thật sự đáng kinh ngạc.” — Giáo sư KATO SAKAE, dịch giả người Nhật (Nguyễn Nhật Ánh trong mắt đồng nghiệp, NXB Trẻ 2017) “Nguyễn Nhật Ánh có cách kể chuyện rất cuốn hút. Cách viết của ông tuy nhẹ nhàng nhưng khi bắt đầu cầm sách của ông lên rồi thì khó có thể đặt xuống. Đọc sách của ông mới hiểu ra rằng tại sao các tác phẩm của ông lại bán chạy và được các độc giả từ nam tới nữ, đặc biệt là thế hệ trẻ yêu thích đến vậy. Bởi sáng tác của ông không chỉ phản ánh góc nhìn về xã hội Việt Nam đương đại, mà còn đem lại năng lượng tích cực cho người đọc.” — Tiến sĩ MONTIRA RATO, dịch giả người Thái Lan “Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh có tầm ảnh hưởng lớn tới một lượng bạn đọc thiếu nhi đông đảo cả nước. Tôi gọi Nguyễn Nhật Ánh là ‘người soát vé trên chuyến tàu tuổi thơ’. Bởi trong mắt tôi, anh luôn hiện ra trong trẻo, với nụ cười nhân hậu, tay cầm tập vé là những cuốn sách phát cho hành khách lên con tàu trở về với tuổi thơ đẹp đẽ trong lành.” — Nhà văn PHẠM NGỌC TIẾN (Nhân Dân hàng tháng, tháng 6-2018) “Đến nay nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã viết trên 100 cuốn sách, chinh phục cả trẻ em lẫn người lớn. Tôi không rõ trong đầu ông còn bao nhiêu câu chuyện chưa được viết ra. Những câu chuyện của ông rất hài hước, giàu tính triết lý và đồng cảm với thế giới trẻ em một cách kỳ lạ. Tôi gọi Nguyễn Nhật Ánh là Astrid Lindgren của Việt Nam. Và tôi rất mong các tác phẩm của ông sẽ sớm được dịch sang tiếng Thụy Điển để độc giả nước tôi có cơ hội được đọc những tác phẩm thú vị của ông.” — LENA RYDIN, nhà văn Thụy Điển (Nhật báo Dagens Nyheter, 28-3-2019) Mời các bạn đón đọc Con Chim Xanh Biếc Bay Về của tác giả  Nguyễn Nhật Ánh.
Lão Tàn Du Ký
Lão Tàn du ký (chữ Hán: 老殘遊記), là truyện dài theo lối chương hồi do Lưu Ngạc viết vào những năm 1903 - 1906, tức cuối đời Thanh ở Trung Quốc. Theo các nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc, thì tác phẩm này thuộc thể loại Tiểu thuyết khiển trách. Lão Tàn du ký gồm tập I (20 hồi) và tập II (9 hồi). Ban đầu (1906), từ hồi 1 đến hồi 13 được đăng từng kỳ trên tờ bán nguyệt san Tú tượng tiểu thuyết, sau mới đăng đầy đủ trên Nhật nhật tân văn ở Thiên Tân. Do nội dung truyện hấp dẫn, có sức thu hút bạn đọc, nên sau đó được in thành sách (tái bản nhiều lần), và được trích giảng trong các sách giáo khoa ở Trung Quốc. Trong Lời giới thiệu sách Lão Tàn du ký (bản tiếng Việt), Trần Văn Chánh cho biết: Cuối đời Thanh, địa vị tiểu thuyết mới chính thức được đề cao, và nhiều tác giả đã có ý thức rõ rệt về mục đích sáng tác. Họ đã dùng tiểu thuyết để phơi bày và tố cáo thực trạng xấu xa của xã hội, sự sa đọa của giới quan lại và triều đình nhà Thanh trước vận mệnh đen tối của đất nước. Do đó đã xuất hiện hàng loạt những tiểu thuyết mang tính chất hiện thực, mang nội dung liên quan mật thiết đến những vấn đề thời sự nóng bỏng, mà các nhà nghiên cứu văn học của Trung Quốc thường gọi là Khiển trách tiểu thuyết. Một trong số tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc của thể loại này là Lão Tàn du ký. Lão Tàn du ký chép chuyện một nhà nho tên là Thiết Anh, hiệu Lão Tàn. Ông có tính hào hiệp, có kiến thức về kinh tế; nhưng không chịu làm quan, mà làm ông lang dạo, đi khắp miền Sơn Đông, tiếp xúc với mọi giới trong xã hội, nhìn thấy mọi cảnh đau khổ của dân chúng, rồi kể lại những điều mắt thấy tai nghe trên suốt dọc đường. Đó là thói nhũng nhiễu, tham lam, bỉ ổi, hay dùng cực hình giết hại dân lành, v.v...của các quan lại; là số phận bi thảm, cai đắng của những người thất cơ lỡ vận, nhất là phụ nữ mà Lão Tàn góp phần phanh phui và ra tay cứu vớt... Tuy nhiên, theo nhà văn Lỗ Tấn, thì 20 hồi đầu (tức tập I) là của Lưu Ngạc, có lời tựa cho chính ông viết vào đầu năm Bính Ngọ (1906) tại Thượng Hải; còn hai ba hồi cuối (ý nói tập II), có người nói là do người con viết nối thêm. *** Học giả Nguyễn Hiến Lê viết: Ở "Lão Tàn du ký", ngọn bút của Lưu Ngạc vừa có tính cách hiện thực phê phán, vừa có tính cách lãng mạn. Ông dùng chữ rất khéo, miêu tả sinh động. Tuy nhiên, bố cục cũng rời rạc như các trường thiên tiểu thuyết hồi đó, không có nhân vật nổi bật và cố sự cứ nối tiếp nhau, chứ không có liên lạc gì mật thiết với nhau. Tập nhì "Lão Tàn du ký" kể tiếp chuyện ông lang già đó đi chơi miền núi Thái Sơn, nội dung kém tập trên, đầy những tư tưởng Phật học mà thiếu sự nhận xét về thế sự. Mời các bạn đón đọc Lão Tàn Du Ký của tác giả Lưu Ngạc.