Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Sâu Kín Nhất

Nối tiếp Chỉ thời gian có thể cất lời và Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất là tập thứ ba trong bộ Biên niên Clifton của Jeffrey Archer. Trong phần 3 – Bí mật sâu kín nhất, mỗi nhân vật chính sẽ xuất hiện với những vai trò mới với những biến cố và thử thách mới. Harry sẽ trở thành một tiểu thuyết gia, Emma cố gắng điều hành công việc kinh doanh của riêng cô, còn Giles bắt đầu tham gia hệ thống chính trị và chạy đua vào nghị viện. Những nhân vật chính sẽ bắt đầu một chương mới của cuộc đời, nhưng liệu rằng con đường của họ sẽ thuận lợi hay nhiều chông gai? Liệu những sóng gió có quật ngã sức sống của họ? Đây không còn là câu chuyện chỉ liên quan đến Harry Clifton. Mối ràng buộc giữa hai nhà Clifton và Barrington ngày càng sâu sắc hơn. Các bí mật xoay quanh thân thế của các nhân vật và những kế hoạch của họ khiến cho số phận các thành viên hai gia đình thay đổi nhanh chóng. Cho đến phút cuối cùng, bí mật sâu kín nhất vẫn chưa được tiết lộ. Liệu còn nhân vật nào sẽ khép lại câu chuyện của mình sau khi bí mật được phơi bày? *** #Review_độc_giả BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT – JEFFREY ARCHER Cuối phần 2 – Tội lỗi của người cha, mình đã nghĩ tác giả có thể kết thúc truyện rồi vì đa số các mâu thuẫn chính đã được giải quyết; Harry và mọi người đều có kết thúc đẹp, kẻ ác thì đã trả giá. Nên mình có đôi chút lo lắng về phần 3, vì nếu cố tình kéo dài truyện thì nhiều khi các phần sau sẽ khiên cưỡng và nhàm chán như rất nhiều tác phẩm trước đây đã gặp phải.  Tuy nhiên, Archer đã không làm mình thất vọng, những nhân vật phản diện vẫn trực chờ cơ hội báo thù Harry, Giles cũng như Emma. Tất nhiên là cậu con trai Sebastian cũng bị cuốn vào; mạch truyện càng về sau càng chuyển dần qua chàng trai mới lớn này. Những thử thách và số phận của cậu hứa hẹn sẽ còn hấp dẫn hơn cả cuộc đời người cha - Harry. Người con gái nuôi của Harry và Emma mà thực chất là con của Hugo cũng hứa hẹn sẽ tạo nên những rắc rối lớn cho sau này, nhưng chắc chúng ta phải đợi tới phần 4 để theo dõi. Tuy nhiên, mình cũng hơi thất vọng một chút về Harry, một người đã trải qua nhiều năm bão táp chiến trường trong Thế chiến thứ 2 mà không thể hiện được nhiều bản lĩnh của mình, có lẽ tác giả muốn dành sân khấu cho lớp trẻ nhiều hơn chăng?? Chỉ có một tình tiết mình khá thích, nếu ai đọc của Archer nhiều thì sẽ nhận thấy các nhân vật chính của ông đều đầy tài năng nhưng không chung thủy, họ dễ bị ngã vào vòng tay của nhưng người mới, tình huống tương tự cũng được Acher xây dựng cho Harry và Emma, kết quả ra sao thì mình sẽ để cho mọi người tự khám phá để tránh spoil. Cá nhân mình thích kết phần 3 hơn kết phần 2 rất nhiều, vì nó hứa hẹn phần 4 sẽ rất đáng mong đợi. Mình đánh giá BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT khoảng 8,5 điểm. Hy vọng chúng ta sẽ sớm được đón nhận phần 4 của series truyện này. Review: Đào Đức Tâm *** Big Ben đổ chuông bốn tiếng. Mặc dù đã kiệt sức bởi những gì diễn ra tối hôm đó, nhưng vẫn còn đủ chất kích thích được bơm đi khắp cơ thể khiến vị Đại Chưởng ấn hầu như không thể ngủ nổi. Ông đã cam đoan với các thành viên Thượng viện sẽ đưa ra một phán quyết cho vụ tranh tụng của Barrington chống lại Clifton về vấn đề thừa kế tước hiệu lâu đời và tài sản khổng lồ của gia tộc. Thêm một lần nữa, ông cân nhắc các sự kiện thực tế, vì ông tin vào chúng, và chỉ có chúng được phép quyết định phán quyết cuối cùng của ông. Khoảng bốn mươi năm về trước, khi ông bắt đầu tập sự, người hướng dẫn đã khuyên ông phải loại bỏ mọi cảm xúc hay thiên kiến cá nhân khi cần đưa ra một phán quyết về thân chủ hay về vụ tranh tụng đang diễn ra trước mắt. Ngành luật không phải là ngành dành cho những kẻ có trái tim yếu đuối hay lãng mạn, sư phụ của ông đã nhấn mạnh như thế. Tuy vậy, sau khi tuân thủ tôn chỉ này trong bốn thập kỷ, ngài Đại Chưởng ấn buộc phải thừa nhận ông chưa bao giờ gặp phải một vụ việc cân bằng đến mức gần như tuyệt đối thế này. Ông chỉ ước gì F. E. Smith⁜vẫn còn sống để ông có thể tìm kiếm lời khuyên từ sư phụ của mình. ← Frederick Edwin Smith, Bá tước thứ nhất của Birkenhead, là một chính trị gia và luật sư bảo thủ người Anh. Một mặt… ông căm ghét những lời lẽ sáo mòn này biết chừng nào. Một mặt, Harry Clifton đã ra đời sớm hơn ba tuần so với người bạn thân nhất của anh ta, Giles Barrington: đó là thực tế. Mặt khác, Giles Barrington, không nghi ngờ gì nữa, là con trai chính thức của Sir Hugo Barrington và người vợ kết hôn hợp pháp của ông ta, Elizabeth: đó là một thực tế nữa. Nhưng điều đó vẫn không làm chàng trai trở thành người con được ra đời sớm nhất của Sir Hugo, và đó là điểm mấu chốt của bản di chúc. Một mặt, Maisie Tancock sinh Harry vào ngày thứ 28 của tháng thứ chín sau khi bà ta thừa nhận đã có quan hệ tình dục với Sir Hugo Barrington khi họ tham gia chuyến dã ngoại dành cho công nhân tới Weston-super-Mare⁜. Thêm một thực tế. Mặt khác, Maisie Tancock đã kết hôn với Arthur Clifton khi Harry ra đời, và giấy khai sinh khẳng định rõ ràng Arthur là bố đứa trẻ. Một thực tế khác. ← Một thị trấn ven biển ở Somerset, Anh. Một mặt… Dòng suy nghĩ của Đại Chưởng ấn quay trở lại những gì đã diễn ra trong phòng họp sau khi Viện cuối cùng cũng thực hiện biểu quyết để quyết định xem Giles Barrington hay Harry Clifton nên được thừa kế tước vị và tất cả những gì đi kèm.Ông nhớ lại chính xác những lời của người phụ trách kiểm phiếu khi công bố kết quả trước Thượng viện đông kín. “Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.” Những tiếng xôn xao ồn ã vang lên khắp các băng ghế đỏ⁜. Ông chấp nhận việc kết quả bỏ phiếu cân bằng sẽ buộc ông phải đảm nhận trách nhiệm không hề mong muốn là đưa ra quyết định ai là người được thừa kế tước vị của gia đình Barrington, công ty hàng hải danh tiếng, cũng như mọi tài sản, đất đai, vật sở hữu có giá trị. Giá như không có nhiều thứ đến vậy gắn liền với quyết định của ông khi tính đến tương lai của hai người đàn ông trẻ tuổi. Liệu ông có nên chịu ảnh hưởng bởi thực tế Giles Barrington muốn được thừa kế tước vị còn Harry Clifton thì không? Không, ông không được làm thế. Như Lord Preston đã chỉ ra trong bài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông ta từ băng ghế phe đối lập, rằng như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, cho dù nó thật tiện lợi. ← Ở Quốc hội Anh, các băng ghế tại phòng họp Thượng viện sơn màu đỏ, còn Hạ viện sơn màu xanh. Một mặt, nếu ông thực sự ra phán quyết có lợi cho Harry… cuối cùng ông ngủ thiếp đi, để rồi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa khe khẽ vào lúc bảy giờ, một thời điểm muộn bất thường. Ông rên lên, đôi mắt vẫn nhắm trong khi đếm từng tiếng chuông của Big Ben. Chỉ còn ba giờ đồng hồ nữa trước khi ông phải đưa ra phán quyết, và ông vẫn chưa đi được tới quyết định. Đại Chưởng ấn rên lên lần thứ hai khi ông đặt chân xuống sàn, xỏ dép vào và đi sang phòng tắm. Thậm chí lúc ngồi trong bồn tắm, ông vẫn tiếp tục đánh vật với vấn đề. Thực tế. Harry Clifton và Giles Barrington đều bị mù màu, giống như Sir Hugo. Thực tế. Bệnh mù màu chỉ có thể di truyền từ mẹ, vậy nên đây chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, và cần được loại bỏ trên đúng cơ sở đó. Ông ra khỏi bồn tắm, lau khô người, khoác lên mình một chiếc áo mặc trong nhà. Sau đó, ông ra khỏi phòng ngủ, đi theo hành lang trải thảm dày tới phòng làm việc của mình. Đại Chưởng ấn cầm một cây bút máy và viết hai cái họ “Barrington” và “Clifton” lên đầu một trang giấy, phía dưới ông bắt đầu liệt kê những ưu thế và yếu thế của từng người. Cho tới khi ông viết kín ba trang giấy với thứ chữ gọn ghẽ như bản khắc đồng của mình, Big Ben đã đánh tám tiếng chuông. Song ông vẫn chẳng sáng suốt được thêm chút nào. Ông đặt bút xuống và miễn cưỡng đi ăn sáng. Đại Chưởng ấn ngồi một mình, lặng lẽ dùng bữa sáng. Thậm chí ông không để mắt tới những số báo ra buổi sáng được xếp ngay ngắn ở bên đầu bàn, cũng không bật máy thu thanh lên, vì ông không muốn một bình luận viên không được thông tin đầy đủ nào đó làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình. Những tờ báo nghiêm túc tập trung vào tương lai của nguyên tắc thừa kế thế tập nếu Đại Chưởng ấn phán quyết có lợi cho Harry, trong khi các tờ lá cải dường như chỉ bận tâm đến chuyện liệu Emma có thể kết hôn với người đàn ông cô yêu hay không. Khi ông quay trở lại phòng tắm để đánh răng, cán cân công lý vẫn chưa nghiêng về bên nào. Ngay sau khi Big Ben đánh chuông báo chín giờ, ông quay trở lại phòng làm việc và đọc lại các ghi chép của mình với hy vọng rằng cuối cùng cán cân cũng sẽ nghiêng về bên này hay bên kia, song nó vẫn cân bằng tuyệt đối. Ông tiếp tục nghiền ngẫm các ghi chú khi một tiếng gõ cửa nhắc nhở Đại Chưởng ấn rằng cho dù có hình dung quyền lực của ông lớn đến thế nào, ông vẫn không thể ngăn được thời gian trôi đi. Ông thở dài, xé ba tờ giấy khỏi tập sổ ghi chép, đứng dậy, tiếp tục đọc trong khi bước ra khỏi phòng làm việc và đi xuống hành lang. Khi vào phòng ngủ, ông trông thấy East, người hầu phòng, đang đứng cạnh chân giường, chờ đợi thực hiện phần việc buổi sáng. East bắt đầu bằng việc khéo léo cởi chiếc áo mặc trong nhà bằng lụa ra trước khi giúp ông chủ mặc lên người một chiếc sơ mi trắng vừa là xong vẫn còn ẩm. Tiếp theo, một cái cổ cồn hồ bột, rồi đến một chiếc khăn quàng cổ nhỏ tinh tế có dây buộc. Trong khi Đại Chưởng ấn kéo cái quần dài đen lên, ông tự nhắc nhở mình đã tăng thêm vài cân kể từ khi nhậm chức. Tiếp đó, East giúp ông mặc chiếc áo thụng dài màu đen và vàng trước khi chuyển sự chú ý sang đầu và bàn chân ông chủ. Một bộ tóc giả che kín gáy được đội lên đầu ông trước khi ông xỏ chân vào đôi giày có cài khóa. Chỉ sau khi sợi dây chuyền vàng chức tước từng được ba mươi chín vị Đại Chưởng ấn trước đó đeo đã nằm trên vai, ông mới từ bộ dạng một vai quý bà cáu bẳn trên sân khấu kịch câm chuyển thành quan chức tư pháp có quyền lực lớn nhất ở quốc gia này. Một cái liếc mắt vào gương, và ông cảm thấy đã sẵn sàng để bước lên sân khấu diễn vai của mình trong vở diễn đầy kịch tính đang được công diễn. Chỉ tiếc một điều là ông vẫn chưa biết lời thoại sẽ thế nào. Việc căn thời gian cho Đại Chưởng ấn đi vào và ra khỏi tòa tháp Bắc cung điện Westminster hẳn có thể khiến một thượng sĩ nhất của trung đoàn phải thấy ấn tượng. Vào lúc 9 giờ 40 phút sáng, có một tiếng gõ cửa và David Bartholomew, thư ký của vị đại thần, bước vào phòng. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” ông ta mở lời. “Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bartholomew,” Đại Chưởng ấn chào lại. “Tôi rất tiếc phải thông báo,” Bartholomew nói, “là Lord Harvey đã qua đời tối qua, trong một chiếc xe cứu thương trên đường tới bệnh viện.” Mời các bạn mượn đọc sách Bí Mật Sâu Kín Nhất của tác giả Jeffrey Archer & Lê Đình Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông
Xuyên suốt cuốn sách là một bản tình ca nhẹ nhàng, sâu lắng mà cũng không kém phần cảm động. Chuyện kể về tình yêu giữa Raip Efendi một người Thổ Nhĩ Kỳ có niềm đam mê với hội họa và Maria Puder - 1 họa sĩ người Do Thái với đôi mắt đen và làn da trắng muốt như tuyết, người mà Raip vẫn gọi là "Đức mẹ". Hai người họ gặp nhau ở Berlin và cũng tình cờ yêu nhau một cách say đắm cuồng nhiệt. Tuy ban đầu Maria có vẻ khá khắt khe, vạch ra ranh giới rõ ràng với Raip nhưng cô biết rằng bản thân đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô luôn dằng xé cảm xúc bản thân vì cô đã mất niềm tin ở đàn ông từ lâu, chính Raip đã đem lại cho cô một hi vọng sống mới. Còn đối với Raip thì Maria thực sự là 1 "Đức mẹ" với đôi mắt đen rất khác biệt với các cô gái anh từng gặp, anh yêu cô bằng cả trái tim chân thành. Tuy nhiên cuộc đời rất không công bằng khi cướp đi mạng sống của Maria, khiến Raip phải chờ đợi suốt 10 năm trong vô vọng vì tưởng rằng cô đã phản bội anh để theo người đàn ông khác. Anh cưới vợ và sống một cuộc sống như người mất đi mọi tri giác, mọi cảm xúc của anh đã chết đi khi anh biết tin Maria vì sinh đứa con gái cho anh mà mất đi, để lại trong anh nỗi tuyệt vọng và dày vò suốt cuộc đời. Đến cuối đời anh vẫn sống trong sự cô đơn, bị sỉ nhục bởi chính người thân trong gia đình, anh chỉ tìm thấy sự bình yên khi ở bên Maria mà thôi. Một câu chuyện tình cảm động rất đáng để đọc. *** SABAHATTIN ALI sinh ngày 12 tháng 2 năm 1906 tại thành phố Egiơnidere, nay là thành phố Ardinê thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Bungari. Vào đầu thế kỷ này thành phố vẫn thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau cuộc chiến tranh Bancăng ( 1912 - 1913 ), Bungari đã thu hồi mảnh đất ấy về mình. Năm 1927, sau khi tốt nghiệp trường trung học, Ali trở thành người thầy giáo nông thôn. Cuộc sống ở miền Iodơgađa ( Vùng trung tâm Anatôli ) đã làm cho ông kinh tởm. Những biến động lớn lao của xã hội hầu như không vang động được đến đây. Xung quanh vẫn là sự bóc lột tàn tệ, sự bất công, áp bức được khoác bộ mặt mới ngày càng tinh vi hơn, thâm độc hơn. Sự xung đột sâu sắc với cuộc sống xung quanh đã dẫn Ali đến ý nghĩ tự sát. Khó có thể nói được số phận của anh sẽ ra sao nếu như không có niềm an ủi duy nhất là văn học.  Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, vì thiếu những giáo viên có kinh nghiệm, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã gởi một số giáo viên trẻ ra nước ngoài để học tập thêm. Lợi dụng cơ hội này như là một khả năng để thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt tù túng ở nông thôn và để tìm hiểu thêm về thế giới, Sabahattin Ali đã cố gắng thi đậu kỳ thi tuyển sinh. Năm 1928 anh được gởi sang Đức học tập, đầu tiên ở Pốtxđam, sau đó ở Berlin.  Cũng như nhiều thanh niên tiến bộ khác lúc bấy giờ, Ali mơ ước xóa bỏ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân lao động. Anh đã cảm thấy điều ấy rất thấm thía ngay tại quê hương mình. Từ một đất nước lạc hậu, hoang tàn sau chiến tranh, Ali sang Đức là nhằm mục đích nắm vững kiến thức khoa học, văn hóa để phục vụ cho tổ quốc. Nhưng trong thời gian đó chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng tiến dần đến việc nắm lấy chính quyền. Sự căm thù các giá trị tinh thần, văn hóa và nghệ thuật của bọn phân biệt chủng tộc và sô-vanh đã làm cho một số sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ đang học tập tại đó trở thành những người chống chủ nghĩa phát xít tích cực.  Một lần trong cuộc tranh luận, một người Đức theo chủ nghĩa xã hội - dân tộc đã xúc phạm đến lòng tự trọng của những sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ, Sabahattin Ali đã tát cho y một cái. Lợi dụng sự kiện này những người lãnh đạo hội kiều dân Thổ đã đưa Ali về nước. Đã từ lâu, người thực tập sinh bướng bỉnh cùng với những lời nhận xét cay độc, độc địa đối với bọn sinh viên Đức và Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa sô-vanh đã làm cho giới lãnh đạo để ý, khó chịu.  Bất chấp những kinh nghiệm cay đắng, Ali không hề có ý định dấu diếm những quan điểm chính trị của mình. Nhà văn, thường đọc thơ cho học sinh và đồng nghiệp nghe. Một trong những độc giả của anh lại là tên chỉ điểm của mật thám trá hình, qua sự tố giác của y, Sabahattin Ali bị bắt vào mùa hè năm 1938. Tòa án hình sự thành phố Kônhi đã xử anh 14 tháng tù giam vì tội "đã thóa mạ những nhân vật cao cấp của chính quyền ". Ali bị giam ở pháo đài Xinôp trên bờ biển Đen.  Tình bạn với những người cộng sản trong nhà tù Xinôp đã giúp Ali hiểu về chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khơi dậy trong lòng anh sự khát khao hiểu biết một cách khoa học những quy luật xã hội.  Vào đầu cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ những thế lực đen tối bắt đầu ra sức hoành hành. Những tên phát xít người Thổ đã tổ chức những cuộc biểu tình và những vụ tàn sát đẫm máu. Các câu lạc bộ mà thực chất là các tổ chức phát xít được Berlin đài thọ đã ra sức truy lùng, theo dõi những trí thức yêu nước, tiến bộ để sau đó tìm cách thủ tiêu, giết hại. Vào năm 1939, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ còn tìm cách che đậy lập trường và thiện cảm của mình đối với chủ nghĩa phát xít, song hai năm sau, khi mà những chiến thắng tạm thời của Hitle ở mặt trận phía Tây làm xao động thế giới, thì chiếc mặt nạ của chính phủ cũng rơi ra. Thủ tướng Thổ lúc bấy giờ đã công khai lên tiếng " mong muốn tiêu diệt nước Nga Xô-Viết ".  Các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong nước lúc đó đã phải đương đầu rất khó khăn với những thế lực phản động. Và trong cuộc đấu tranh này cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Sabahattin Ali : " Quỷ ám " đã giáng cho bọn phát xít bản địa một đòn đích đáng.  Trước đó tên tuổi nhà văn đã rất nổi tiếng qua những tác phẩm nói về những người công nhân, nông dân, những người thợ thủ công nghiệp và tầng lớp trí thức. Đó là tập thơ " Gió và núi " ( 1934 ), ba truyện ngắn : " Chiếc cối xay " (1935 ), "Arba " ( 1936 ), " Tiếng nói " ( 1937 ), cuốn tiểu thuyết "Uxup từ Kulzacka " ( 1937 ) và bây giờ là " Quỷ ám " (1940 ). Cũng theo lời Nazim Hikmet những tác phẩm trên đã làm cho Sabahattin Ali " trở thành thủ lĩnh của một trường phái văn học, mở ra một hướng đi mới trong văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ ". Hướng đi này trên quê hương nhà văn được gọi là : "Chủ nghĩa hiện thực xã hội."  Vào đầu những năm 40, một trong những chủ đề thu hút nhà văn là sự khủng hoảng trong ý thức cá nhân. Bằng kinh nghiệm sống của mình, Ali đã nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản không thể dễ dàng từ bỏ những đặc điểm của mình dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Nhà văn đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn truyện vừa " Đức Mẹ mặc áo choàng lông ".  Có lẽ đây là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn, chứa đựng ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nếu như không tính đến người dẫn truyện thì trong tác phẩm chỉ có hai nhân vật. Những nhân vật khác chỉ xuất hiện vài chỗ và cũng rất ngắn. Thành phố Berlin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khủng hoảng kinh tế thế giới, những cuộc tranh luận của những sĩ quan Đức theo chủ nghĩa phục thù…toàn bộ những vấn đề này chỉ là một tấm phông cho những hoạt động của nhân vật chính, một thanh niên trí thức Thổ Nhĩ Kỳ trong câu chuyện bị hoàn toàn tách ra khỏi quê hương, sống trong thành phố Berlin xa lạ, không người thân thuộc. Người thanh niên đó cũng giống như Sabahattin Ali lúc còn trẻ mơ ước một tình yêu trong sáng, lành mạnh như là một biện pháp duy nhất để nhận thức cá nhân mình. Và một tình yêu như vậy đã đến với anh và nó đã chỉ cho anh thấy rõ hơn bản thân mình : một con người có cuộc sống nội tâm phong phú, có một tâm hồn trong sáng, cao thượng. Nhưng để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, để trở nên xứng đáng với tình yêu của mình thì tất cả những điều ấy hãy còn chưa đủ.  Cuốn truyện vừa của Ali cũng giống như một tác phẩm văn học chân chính khác là một bức tranh tổng hợp phức tạp về nhiều mặt của cuộc sống. Mọi người đọc có thể tìm thấy ở đó những điều bổ ích cho mình, còn chính tác phẩm đã trao cho độc giả chiếc chìa khóa để mở ra những điều lý thú khác mà trong cuốn sách không nói đến.  Đối với những người đọc tinh ý thì có thể nhận thấy nhân vật của tác phẩm mang nhiều nét của chính Sabahattin Ali lúc còn trẻ, đặc biệt là trong thời gian ông học tập tại Berlin. Một số nhà phê bình Thổ Nhĩ Kỳ dựa vào đó đã khẳng định rằng đây là tác phẩm tự thuật của nhà văn. Nếu như điều ấy là đúng thì chỉ đúng ở một điểm duy nhất : Sau nhiều năm, trở lại với những suy tư thời trai trẻ, Sabahattin Ali đã hoàn toàn đoạn tuyệt với những ảo tưởng ngây thơ của mình. Ông đã chỉ rõ rằng con người sống bằng những ước mơ lãng mạn của mình, dù cho đó là những ước mơ cao đẹp nhất, trong sáng nhất nhưng nếu không được củng cố bằng những tri thức thực tế của cuộc sống thì sẽ không có khả năng thay đổi được điều gì. Hơn nữa những ước mơ ấy có khi lại trở thành những cạm bẫy mà không dễ gì thoát ra nổi. Một tình yêu đôi lứa cao đẹp cũng chỉ có thể giúp cho nhân vật chính của chúng ta thoát khỏi sự vô nghĩa, đơn điệu trong cuộc sống của anh ta mà thôi.  Năm 1948, sau khi mãn hạn tù 3 tháng vì làm báo " Pasa nổi tiếng ", Sabahattin Ali đi đến quyết định cần phải rời khỏi Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục cuộc đấu tranh. Ý nghĩ đầu tiên của ông là sang Bungari, đất nước nơi đã sinh ra ông và hiện đang có nhiều người Thổ sinh sống. Nhưng lý do quan trọng hơn cả là ở đó nhân dân đã và đang thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Trong số những người bạn tù với Sabahattin Ali có một người tự xưng là đảng viên Cộng sản, anh ta hứa sẽ giúp nhà văn trốn ra nước ngoài. Nhưng thực chất đó là một kẻ khiêu khích do mật vụ cài vào.  Vào đầu tháng 3 năm 1948, Sabahattin Ali biến mất. Mãi đến vài tháng sau các báo mới đưa tin phát hiện thấy xác nhà văn trong khu rừng Karabain gần biên giới Bungari. Những người thân phải khó khăn lắm mới nhận được ra Sabahattin Ali.  Từ đó đến nay đã 38 năm trôi qua. Ngày nay những kẻ thù chính trị của nhà văn cũng phải thừa nhận rằng những sáng tác của ông đã trở thành những tác phẩm cổ điển trong nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng những tác phẩm và chính cuộc sống của mình, nhà văn đã và đang là tấm gương sáng chói cho một thế hệ nhà văn trẻ tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ noi theo.  Hàng năm, người ta trao cho những nhà văn xuất sắc nhất giải thưởng cao quý mang tên Sabahattin Ali và đó là niềm tự hào của nền văn học tiến bộ Thổ Nhĩ Kỳ.   Mời các bạn đón đọc  Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của tác giả Sabahattin Ali.
Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas
Hảo Hán Nơi Trảng Cát - Jorge Amado
Hảo hán nơi Trảng cát là câu chuyện kể về nhóm một trăm đứa trẻ mồ côi và bụi đời sống bằng tài xoay sở láu cá và tính liều lĩnh trong những khu ổ chuột nóng bức và những con hẻm bẩn thỉu ở Salvador. Dẫn đầu bởi cậu nhóc mười lăm tuổi Pedro Bala, nhóm hảo hán có những nhân vật quan trọng như một cu cậu nói dối thành nghề tên “Cẳng Nhũn”, một “Giáo sư” thông minh và “Gã Mèo” dậy thì sớm. Chúng đã thực hiện trót lọt những vụ trộm và đào thoát thành công khỏi những con người chuẩn mực và được ưu tiên ở Brazil. Nhưng khi công chúng phản ứng dữ dội và yêu cầu chính quyền phải bắt hết lũ “giặc con” này, thì số phận của bọn trẻ bỗng chốc trở thành một cuốn phim cay đắng và vô cùng thương tâm về tình yêu và tự do trên vùng đất bị kìm kẹp. Viết về tuổi trẻ sôi nổi bằng những ngôn từ giàu cảm xúc, Hảo hán nơi Trảng cát là một trong các tác phẩm phổ biến nhất trong giới học sinh sinh viên ở Brazil. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành truyện tranh và phim điện ảnh. Tại Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm ưa thích của nhiều thế hệ và sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi theo thời gian. *** Trong Hảo hán nơi trảng cát - một tác phẩm sinh động, từ ngữ được sử dụng rất giản dị - Jorge Amado đã kể một câu chuyện về những cậu bé nghèo sống trong một nhà kho bỏ hoang trên sông Salvador. ðó là những cậu bé chỉ mới 9 đến 16 tuổi gặp gỡ nhau trong những trò ngỗ nghịch và ăn cắp vặt, khiến thuyền trưởng Bahia cũng phải khiếp sợ. Từ chàng thủ lĩnh dũng cảm với vết sẹo trên mặt Pedro Bala (Bullet) tới cậu Pirulito ngoan đạo (Lolly pop)-vẫn cầu nguyện hằng đêm để rửa tội cho những lỗi lầm của mình; từ cậu Giáo sư khôn ngoan (Teacher)-người có học duy nhất trong nhóm, tới cậu Gato quyến rũ-một tay ma cô mới vào nghề; mỗi cậu có tình tình, cách nhìn cuộc suống rất riêng và cả những ước mơ viển vông nhất. Tai tiếng của cả bọn lan truyền khắp thành phố, khiến cho cả báo chí, cảnh sát, tòa án vị thành niên cùng các “gia đình kiểu mẫu” phải bất bình giận dữ. Nhưng vẫn còn có những người tốt giúp đỡ các cậu: cha Jose Pedro, mẹ Don'Aninha, anh công nhân João de Adão (John Adam) và chàng Queirdo-de-Deus (God Beloved) nhảy capoeria. Các cậu bé lớn lên và đi con đường riêng của mình: người làm thủy thủ, nghệ sĩ, tu sĩ; kẻ làm làm ma cô, cướp đường. Chàng thủ lĩnh Pedro Bala của chúng ta thì lên đường chiến đấu để thay đổi số phận cho những người nghèo khốn khổ nhất. Dù chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng cộng sản tại thời điểm tác phẩm được viết, nhưng Hảo hán nơi trảng cát đã vượt qua lý tưởng chính trị của chính tác giả vào thời điểm đó. Tuổi thơ trong sáng của các em phải lớn lên trong một thế giới người lớn khắc nghiệt, các cậu bé được sống tự do như ý chúng nhưng tự do ấy cũng đầy cạm bẫy. Câu chuyện đã mở ra góc nhìn về những mảnh đời bé nhỏ vẫn còn giá trị tới tận ngày nay. Hồng Quân dịch *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Hảo Hán Nơi Trảng Cát của tác giả Jorge Amado.
Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.