Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Trừng Phạt

“Kẻ Trừng Phạt”, kích thích hơn “người giải mã tử thi” của Tần Minh, rúng động hơn “Tội ác tâm lý” của Lôi Mễ! Tác phẩm được các tác giả Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu! “Kẻ Trừng Phạt”, tác phẩm mới nhất đánh dấu sự trở lại của tay bút được đánh giá là “hiện tượng” của dòng tiểu thuyết trinh thám trên trang Tianya.cn, kể về cuộc quyết chiến cuối cùng giữa CHÍNH NGHĨA và TÀ ÁC! Một “thi thể nữ” biết lái xe, một linh hồn “hồi sinh”, cuộc hẹn với người đã chết, những lời tiên đoán đáng sợ, khu trường học có “ma”… những tình tiết móc ngoặc, cảm xúc không ngừng thay đổi, yếu tố trinh thám dày đặc, biến thái, tuyệt mật, hồi hộp, những cách thức phạm tội tinh vi và hiện đại, chứng cứ vắng mặt hoàn hảo, những âm mưu quỷ kế không thể lật tẩy, những màn sương mù che phủ không thể làm tan biến, bạn sẽ đau tim đến cực độ, một cảm giác đọc sách thật đê mê! Với tên gốc trên mạng là “Rượt đuổi tới cùng”, trong nhiều ngày liên tiếp, “Kẻ trừng phạt” chiếm giữ vị trí đầu bảng trong bảng xếp hạng “Chuyện của Liên Bồng” (bảng xếp hạng những câu chuyện thần bí) trên trang Tianya.cn. Nhận được lượng chia sẻ vô cùng lớn, số lượt click trên 39.000.000, giành được sự quan tâm và bình luận rất nồng nhiệt của độc giả. Tiểu thuyết cũng được các tác giả tring thám đương đại hàng đầu Trung Quốc như Liên Bồng, Lôi Mễ, Tri Thù, Tần Minh đặc biệt giới thiệu. Phuc Minh Books hân hạnh giới thiệu đến độc giả! LỜI KHEN CHO KẺ TRỪNG PHẠT Vừa vào đầu sách đã đầy rẫy những điều kì bí bủa vây toàn cục, những bí ẩn cũ chưa kịp giải quyết, bí ẩn mới đã ập tới liên tục, khiến độc giả càng đọc càng bị cuốn hút. - Liên Bồng. Vi Nhất Đồng thông thạo các công tác cảnh sát và kiến thức tâm lí phạm tội, những đoạn phá án trong cuốn sách này không cố tình tiết lộ việc hung thủ là ai, mà đặt người đọc vào cùng vị trí với lực lượng cảnh sát chính nghĩa cùng nhau tìm ra câu trả lời, mỗi người đọc đều là một người phá án. - Lôi Mễ. “Kẻ trừng phạt” quả không hổ danh là cuốn sách tiêu biểu của dòng tiểu thuyết tội phạm và phá án, những tên hung thủ biến thái, những “kẻ khác biệt” đang ẩn náu trong hàng ngũ cảnh sát hình sự, những cảnh sát luôn lên tiếng vì chính nghĩa, thủ pháp khắc họa nhân vật một cách tỉ mỉ, chính xác, không cứng nhắc theo khuôn mẫu cũ. - Tri Thù. “Kẻ trừng phạt” không chỉ nói đến những kẻ phạm tội, mà hơn nữa là nhắc đến những người cảnh sát – hóa thân của sức mạnh chính nghĩa, chỉ có điều những tên hung thủ đứng trên danh nghĩa chính nghĩa mà gây tội ác, chúng chính là những kẻ đáng bị trừng phạt nhất. - Tần Minh. *** Nội dung bố cục câu truyện thì ở trang bìa sau đã nói rõ các vụ bí ẩn xảy ra, miêu tả chính xác độ ly kỳ của cuốn tiểu thuyết này, trinh thám gỡ từng lớp từng lớp bí ẩn đặt ra, một tử thi có thể lái xe và di chuyển từ trung tâm pháp y cảnh sát về nhà như chổ không người , pha các yếu tố ghê rợn không khác gì các bạn đang đọc 1 cuốn truyện kinh dị, nhưng chỉ là vài chương đầu thôi, về sau trinh thám hơi bị ly kỳ đấy. Vi Nhất Đồng đã dẫn dắt người đọc đi từ chứng cứ này đi đến chứng cứ khác, và có thể khi đã tìm ra chân tướng thực sự lại khiến vụ án đi vào lối mòn, và cho đến nhưng chương cuối cùng của tiểu thuyết, chân tướng dường như sáng tỏ rành mạch. hung thủ đã lộ diện và đã trả giá cho những gì hắn gây ra nhưng vụ án vẫn chưa kết thúc , và chỉ thực sự kết thúc khi người đọc được dẫn dắt đến trang cuối cùng. Điều tôi hoan nghênh nhất của tác giả là có sự xuất hiện nhân vật nữ ở giữa truyện, khiến tổ chuyên án như ” nắng hạn gặp mưa rào ” , cảnh sát nhân vật chính của chúng ta như được tưới tiêu ( về mặt tâm hồn và nhìn nhận thôi , ko có iu đương gì ở đây đâu nhé  … Đúng là có bàn tay phụ nữ vào thì mọi vấn đề sẽ hanh thông ! … nhân vật nữ xuất hiện là điểm nhấn hay nhất mà tôi thấy ở cuốn tiểu thuyết này ! Đúng như lời hung thủ bảo ” sự xuất hiện của cô ấy là bất ngờ trong kế hoạch của tôi, nếu không có cô ấy thì các cậu không tìm thấy tôi sớm vậy đâu ” … !!! ” Thiên và ác đôi khi chỉ cách nhau trong một ý niệm; tội ác và sự trừng phạt liệu có một ranh giới thật sự rõ ràng ” – Lục Dương Đây là câu tự hỏi khiến độc giả có thể suy nghĩ về hung thủ, về cảnh sát, về nạn nhân, thật sự là ai đáng thương và ai đáng trách ? Riêng bản thân tôi cũng xót thương cho những số phận trên, kẻ đáng chết đã chết, kẻ gây ra cũng đền tội, ai cũng có lý do để kể lễ cho hành động của mình, nhưng …. KHÔNG CÓ LÝ DO NÀO CÓ THỂ GIẢI THÍCH CHO VIỆC GIẾT NGƯỜI CẢ DÙ CHO NGƯỜI ĐÓ CÓ ĐÁNG CHẾT THẾ NÀO ! đó là điều tâm đắc của tôi nhiều tiểu thuyêt trinh thám đã được đọc qua .. Và 1 câu tôi cảm thấy tâm đắc khi đọc tiểu thuyết này : ” Hai chữ ” CẢNH SÁT ” gánh vác quá nhiều ước vọng, bao hàm vô số vinh quang, nhưng cũng đầy đau khổ và oan khiêng ! ” khiến cho tôi thấy công việc cảnh sát có thể có vinh quang nhưng cũng đầy mệt mõi, có nhiều vụ án đôi khi bản thân biết quá nhiều cũng không phải là điều tốt ! Review bởi Minh Lê *** thành tích xuất sắc, tôi được điều lên Đội Cảnh sát hình sự, bắt đầu chuỗi ngày điều tra các vụ án đủ thể loại. Làm trong ngành này, chứng kiến biết bao “kiểu” chết chóc, dù có nhát gan đến mấy cũng được luyện cho to gan lớn mật. Nhưng gần đây xảy ra một vụ án rất kì lạ, khiến mọi người vô cùng hoang mang, ngay cả những bậc tiền bối cũng phải sởn gai ốc. Sự việc bắt đầu khi một đồng nghiệp của tôi là Hồ Viễn bị tai nạn. Chiếc Sedan của cậu ta đâm trực diện vào một chiếc xe việt dã. Lúc đó trên xe có hai người, Hồ Viễn ngồi ở ghế phụ lái, còn người điều khiển là một phụ nữ. Hiện trường vụ tai nạn rất thảm khốc, cú va đập khiến Hồ Viễn tử vong tại chỗ, thi thể biến dạng, máu me đầm đìa. Điều kì lạ là, cơ thể người phụ nữ cũng bị biến dạng, nhưng lại không hề chảy giọt máu nào. Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết... người phụ nữ này đã chết cách đây ba ngày. Những người đầu tiên có mặt ở hiện trường là lực lượng Cảnh sát giao thông. Họ tìm thấy thẻ Cảnh sát trên người Hồ Viễn, biết được đơn vị của cậu ấy, nên lập tức thông báo cho chúng tôi. Còn người phụ nữ không có bất cứ thứ gì để chứng minh được danh tính. Tôi hôm đó tới phiên tổ chúng tôi trực ban, ngoài trời mưa rả rích, mặt đường ướt nhẹp, thỉnh thoảng mới thấy bóng người đi lại, vô cùng vắng vẻ. Chúng tôi cứ nghĩ sẽ không có vụ án nào xảy ra, nên vừa ngồi buôn chuyện trong phòng trực vừa nhấm nháp đồ ăn đêm. “R... eng... eng...” Một hồi chuông điện thoại xé tan bầu không khí an nhàn. Nghe điện thoại xong, tôi vội báo cáo sự việc với anh Điên Tổ trưởng. Anh lập tức buông bát mì vừa mới ăn xuống. “Nhanh lên! Đi kiểm tra xem xảy ra chuyện gì!” Anh vừa nói vừa bước nhanh ra cửa, chúng tôi vội vã theo sau. Anh Điên tên thật là Dương Phong[1], tuổi ngoài bốn mươi, đầu đinh, nước da đen bóng, cơ thể cường tráng, vừa nhìn đã thấy ngay hình ảnh một viên cảnh sát hình sự. Do phong cách làm việc quả quyết và nhanh chóng, lúc nào cũng hừng hực khí thế nên mọi người đặt cho anh cái biệt hiệu ấy. Trên đường đến hiện trường, sau khi báo cáo tình hình với Đại đội trưởng, anh Điên ngồi im chẳng nói câu nào. Suốt mười năm làm cảnh sát hình sự, anh đã phá không biết bao nhiêu vụ án, có thể coi là một “thần thám” danh bất hư truyền. Nhìn thấy bộ dạng của anh lúc này, rồi nhớ lại nội dung cuộc điện thoại, tôi không khỏi thấy sởn gai ốc. Lần đầu tiên chúng tôi gặp phải sự việc quái dị như thế: người lái xe là một phụ nữ đã chết! Chúng tôi phóng như bay tới hiện trường, bây giờ xung quanh đã đông nghịt người, bên cạnh là một hàng xe dài, từ xe cảnh sát đến xe của bệnh viện và các đơn vị liên quan. Chúng tôi vội tìm một chỗ đỗ xe, rồi theo anh Điên chen vào đám người. Đầu chiếc Sedan màu đen hiệu Jetta của Hồ Viễn và chiếc xe việt dã kia đều bị bẹp rúm, trên mặt đất la liệt mảnh linh kiện và kính vỡ. Bên cạnh là hai cái xác được đậy vải trắng, một tấm đã nhuốm đỏ, màu máu hòa với nước mưa chảy sang bên cạnh, ứ lại thành một vũng, khiến ai nhìn cũng phải rùng mình. Anh Điên nhanh chóng giới thiệu rồi ngồi xuống lật tấm vải trắng nhuốm máu ra. Mặc dù khuôn mặt đã biến dạng, nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nạn nhân là Hồ Viễn. Anh Điên không nhìn thêm nữa, lập tức di chuyển sang chỗ tấm vải trắng bên cạnh. Tim tôi như bị bóp nghẹt, vì đây không phải một người chết thông thường, mà là một xác-chết-biết-lái-xe. Tấm vải được lật ra, trước mắt chúng tôi là một khuôn mặt đen sạm, có nhiều vết bầm, một vài lọn tóc ướt bết trên trán. Mặc dù không phải bác sĩ pháp y, nhưng tôi cũng đoán được nạn nhân đã tử vong trên hai mươi bốn tiếng. Khi tôi còn chưa hết kinh ngạc, anh Điên đã nhanh chóng đeo găng tay, tiến hành kiểm tra khuôn mặt người phụ nữ. Thực sự tôi không có tâm trạng nào nhìn cảnh đó, vội quay người đi tới chỗ cảnh sát giao thông, hỏi thăm tình hình người lái xe việt dã. Nạn nhân bị thương rất nặng, đã được đưa đến viện cấp cứu. Theo quan sát hiện trường, có thể chiếc Sedan đã bất ngờ di chuyển sang làn đường bên cạnh, đâm thẳng vào chiếc xe việt dã. Do quá bất ngờ, cộng thêm trời mưa khiến tầm nhìn giảm sút, lái xe việt dã không kịp tránh khỏi vụ tai nạn thảm khốc. Viên cảnh sát giao thông đã đứng tuổi, nên tôi thử hỏi trước đây anh ta có gặp vụ nào tương tự không. Anh ta lắc đầu, nói trong bao nhiêu năm phụ trách sự cố giao thông, anh chưa từng gặp, thậm chí chưa từng nghe một sự việc kì lạ như thế này. Tôi hỏi thêm về khả năng chiếc xe của Hồ Viễn do người khác lái, chẳng hạn, hắn nhảy ra khỏi xe ngay trước vụ va chạm rồi đưa thi thể người phụ nữ vào ghế lái xe? Nhưng anh ta trả lời chắc nịch: “Chắc chắn là không, lái xe nhất định là người phụ nữ đó.” Tôi đang định hỏi vì sao có thể khẳng định như vậy thì anh Điên gọi: “Lục Dương, mau lại xem đây có phải Tần Hiểu Mai không?” Tẩn Hiểu Mai? Cái tên này vừa quen vừa lạ, đến khi quay lại tôi mới chợt nhớ ra, cô ta là tội phạm giết người trong một vụ án mà Phòng Cảnh sát đã phải lập cả một tổ chuyên án. Lúc đó tôi mới chuyển đến, chưa có nhiều kinh nghiệm nên không được chọn, còn anh Điên và Hồ Viễn đều tham gia. Dưới bàn tay của anh Điên, khuôn mặt người phụ nữ đã khôi phục tám chín phần, tóc được vén gọn gàng. Sau khi nhận dạng, tôi gật đầu xác nhận, đúng là Tần Hiểu Mai. Điều này khiến vụ tai nạn càng trở nên li kì. Tần Hiểu Mai đã bị kết tội giết người, mấy ngày nay chính là thời gian hành hình, sao thi thể cô ta có thể lái xe đưa Hồ Viễn đi “tự sát” được? Không chần chừ một giây, anh Điên lập tức báo lên cấp trên. Lãnh đạo Phòng Cảnh sát thành phố ra lệnh, vụ án này có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, yêu cầu Đội Cảnh sát hình sự điều tra cặn kẽ, Dương Phong được chỉ định là người phụ trách chính. Anh Điên lập tức yêu cầu Đồn Cảnh sát khu vực thông báo cho cha mẹ Tần Hiểu Mai đến nhận diện. Tần Hiểu Mai là sinh viên, nên cha mẹ cô ta chắc chỉ ngoài bốn mươi, nhưng mặt đầy nếp nhăn, đầu lấm tấm bạc, đủ thấy sự việc của con gái khiến họ sốc nặng đến mức nào. Mẹ Tần Hiểu Mai khóc suốt từ lúc đến hiện trường, chỉ có cha cô ta đến xác nhận danh tính con gái. Anh Điên giao lại hiện trường cho hai đồng nghiệp khác trong nhóm. Cha mẹ Tần Hiểu Mai ngồi trong xe cảnh sát, xe của nhà tang lễ theo phía sau, tất cả cùng trở về Đội Cảnh sát hình sự. Vụ án này vô cùng kì lạ, rất có thể cần tiến hành giám định pháp y cả hai thi thể. Về đến nơi, thi thể giao cho bên pháp y, còn chúng tôi đưa cha mẹ Tần Hiểu Mai đi lấy lời khai. Cha Tần Hiểu Mai là Tần Xuyên cho biết con gái ông đã chết từ ba ngày trước. Theo phong tục, sau khi chết, gia đình phải để xác ở nhà bảy ngày rồi mới được hỏa táng. Trong thời gian đó, lúc nào cũng có người canh linh cữu. Mấy ngày nay tại linh đường không hề xảy ra việc gì kì lạ, chiếc quan tài đặt xác Tần Hiểu Mai vẫn đóng nguyên. Khi nhận được điện thoại của cảnh sát, gia đình tin rằng có sự nhầm lẫn nào đó, nhưng để chắc chắn, họ vẫn mở nắp quan tài ra, thì phát hiện thi thể Tần Hiểu Mai đã không cánh mà bay. Họ vội vã chạy tới chỗ cảnh sát. Tần Xuyên trình bày xong, anh Điên lại hỏi: “Hàng ngày canh linh cữu gồm những ai?” “Theo phong tục ở quê chúng tôi, người trên không được canh linh cữu người dưới, nếu không cả dòng tộc sẽ bị trời quở, nên đành để các anh chị em họ của Hiểu Mai canh. Cũng may có mấy người họ hàng giúp đỡ lo hậu sự, chứ mỗi hai chúng tôi thì không thể xoay xở nổi. Đã thế mẹ Hiểu Mai còn suy sụp thế kia...” Tôi thấy hơi ngạc nhiên. Vụ án Tần Hiểu Mai được xử công khai, hành vi giết bạn cùng phòng của cô ta vô cùng tàn nhẫn, về lí mà nói, với loại người này, họ hàng thân thích cũng muốn tránh xa. Vậy sao sau khi chết vẫn có nhiều người giúp đỡ thế? Tôi bèn hỏi: “Họ hàng không có ý kiến gì về việc Tần Hiểu Mai giết người sao?” “Nói láo! Hiểu Mai không thể là hung thủ giết người được!” Mẹ Tần Hiểu Mai ngẩng đầu, trừng mắt nhìn tôi quát. Tần Xuyên vội kéo tay áo vợ, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Bà nó à, con gái đã đi rồi, nói những lời này còn có nghĩa lí gì nữa?” “Các người đổ oan cho Hiểu Mai, nên nó mới chết không nhắm mắt. Nhất định là nó quay về tìm các người báo thù đấy! Ha ha ha...” Vốn đã hơi ghê người về vụ “xác chết lái xe”, giờ nghe mẹ Tần Hiểu Mai nói vậy, cộng thêm khuôn mặt méo xệch của bà ta, trong lòng tôi không khỏi ớn lạnh. Nỗi sợ hãi thường đến từ những điều chúng ta chưa hiểu rõ. Cho dù không muốn tin việc ma quỷ báo thù, tôi vẫn quay sang nhìn anh Điên với ánh mắt ái ngại, vì anh ấy cũng tham gia điều tra vụ Tần Hiểu Mai. Tần Xuyên có vẻ áy náy, vội vàng xin lỗi, mong chúng tôi hiểu cho nỗi đau mất con của vợ mình. Anh Điên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Tôi hỏi thêm vài câu nữa rồi gập cuốn sổ lấy lời khai lại, yêu cầu đến nhà Tần Xuyên kiểm tra linh đường, và bảo họ lập danh sách những người canh linh cữu trong ba ngày qua. Nhà Tần Xuyên nằm tại một thị trấn cách thành phố khoảng mười cây số, xung quanh hầu như đều là người bản xứ. Bây giờ trời đã tối, không có đèn đường, cũng rất ít người qua lại. Theo sự chỉ dẫn của Tần Xuyên, chúng tôi dừng xe trước một ngôi nhà nhỏ. Đó là kiểu nhà tự xây, có sân, khá phổ biến ở nông thôn. Linh đường của Tần Hiểu Mai được đặt giữa sân. Trong sân treo lác đác vài chiếc đèn lồng trắng tỏa ra những chùm sáng lạnh lẽo, bủa vây khu linh đường u ám. Xung quanh đặt bảy, tám vòng hoa, tất cả đều màu trắng, chính giữa treo bức di ảnh của Tần Hiểu Mai và một chữ “điện” rất lớn. Giữa khung cảnh ngập tràn màu trắng ấy, chiếc quan tài màu đỏ đậm ngay chính giữa sân càng trở nên nổi bật. Quan tài đặt trên hai chiếc ghế dài, bên dưới có một ngọn đèn dầu. Khi chúng tôi đến, trong sân không có một ai. Tần Xuyên nói, trước khi họ ra khỏi nhà, vì nghĩ ở đây cũng chẳng còn việc gì nữa, nên bảo họ hàng về hết rồi. Anh Điên quan sát một lượt khắp sân, rồi bước về phía chiếc quan tài. Vừa được mấy bước, Tần Xuyên đứng cạnh tôi bỗng “ớ” lên một tiếng. Ông bước nhanh qua tôi tiến về phía trước, vừa đi vừa nói: “Rõ ràng sau khi mở nắp quan tài để kiểm tra, tôi đã đậy cẩn thận rồi mà, sao giờ lại hé ra thế này?” Đúng lúc đó, một luồng gió lạnh thổi qua, mấy chiếc đèn lồng trắng khẽ đung đưa, những mảnh giấy trắng trên vòng hoa cũng lay động, bỗng chốc khiến khoảnh sân thêm phần ma quái. “Hiểu Mai về đấy...” Mẹ Tần Hiểu Mai hô lên rồi chạy về phía quan tài. Tôi nhíu mày hỏi Tần Xuyên: “Hay là ông nhớ nhầm?” Tần Xuyên do dự không dám khẳng định. Anh Điên xoa dịu không khí: “Có lẽ lúc đó họ đi vội quá nên nhớ nhầm”, rồi đưa tay kéo nắp quan tài. Tôi thở phào, vừa định bước tới giúp anh Điên một tay, thì nghe thấy mẹ Tần Hiểu Mai hét lên điên dại: “Hiểu Mai! Hiểu Mai!” Nói rồi bà ta lấy hết sức đẩy nắp quan tài sang một bên, khiến nó đổ “rầm” xuống đất. Ba người chúng tôi đều xông đến, ngó đầu vào bên trong. Tôi thấy miệng mình khô rát, cổ họng nghẹt thở: xác Tần Hiểu Mai rõ ràng phải nằm trong phòng khám nghiệm tử thi ở Đội Cảnh sát hình sự, sao giờ lại nằm sờ sờ trong quan tài? Sắc mặt cô ta vẫn còn nguyên vẻ đen sạm ấy, với vài chỗ bầm tím, chỉ khác là mắt cô ta đang mở trừng trừng, hai khóe mắt có vệt đỏ như hai hàng lệ máu, làn môi dường như cũng hồng nhuận hơn trước. Tôi sợ đến độ không thốt nên lời, định bỏ chạy nhưng đôi chân như bị đóng đinh tại chỗ. Cũng may anh Điên nhanh chóng đẩy tôi ra, nói lớn: “Gọi điện về Đội, cho người đến kiểm tra phòng khám nghiệm tử thi ngay!” Mời các bạn đón đọc Kẻ Trừng Phạt của tác giả Vi Nhất Đồng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Vụ Song Sinh - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) 17. Bí Ẩn Vụ Song Sinh [Perry Mason #62 - The Case of the Duplicate Daughter] (1960) *** Muriell từ phòng ăn nhẹ nhàng bước qua nhà bếp, đưa tay giữ lại cánh cửa lửng chắn ngang giữa hai phòng, để tránh gây tiếng động vì sợ làm thức giấc bà mẹ kế là Nancy Gilman và cô em gái Glamis, con riêng của bà, họ thường ngủ trễ đến tận trưa mới dậy. Sáng nay, bố của Muriell cảm thấy đói hơn mọi khi nên muốn cô làm thêm một đĩa trứng và một miếng xúc xích nữa. Đây là một điều bất thường và Muriell nghĩ rằng thể nào bố cô cũng bảo thôi nếu cô tạo điều kiện để ông nghĩ lại, thành thử cô hơi chần chừ. Nhưng rồi thấy nét mặt quả quyết của bố và ông lại có vẻ hơi nôn nóng vì chờ đợi, cô bèn bước sang nhà bếp trong khi bố cô chăm chú đọc tờ báo buổi sáng, Muriell hiểu rất rõ bố mình, cô mỉm cười nhớ đến sự cố gắng ăn uống kiêng khem của ông vì sợ lên cân, nhưng có lẽ bữa ăn sáng nay là để bù lại bữa tối qua quá sơ sài? Cả hai bố con sống trong một căn biệt thự ba tầng to lớn kiểu cổ và đã được trang hoàng theo kiểu mới kể từ sau khi mẹ Muriell chết. Muriell sinh ra tại đây, cô biết tất cả mọi ngóc ngách và rất quyến luyến với nó. Đã có những lần Muriell cảm thấy ít nhiều xót xa khi căn phòng cũ của mẹ mình đã bị Nancy chiếm chỗ, nhưng những ý nghĩ ấy thường chỉ xẩy ra khi không có mặt Nancy ở nhà mà thôi. Nancy là một người đàn bà rất có tâm hồn và nhiều sáng kiến cũng như có những nét đặc thù trong cung cách nhìn đời và sự vật. Điều đó làm cho bà ta trở thành một con người đặc biệt và dễ mến. Không một ai có thể bực mình khi đối diện với bà ấy. Muriell đã cố tình chần chừ cho đến khi thấy bố có vẻ nôn nóng, cô mới vội vào bếp làm tiếp. Miếng xúc xích lấy trong tủ lạnh ra còn đóng băng nên phải chờ lâu thêm một chút. Sau đó cô đập trứng vào chảo và bớt lửa vì cô biết ông không thích ăn trứng chín quá. Bỏ trứng và xúc xích vào đĩa xong, cô bưng sang phòng ăn, lấy khuỷu tay đẩy nhẹ cánh cửa phòng để tránh tiếng kêu lớn rồi lách nhẹ người đi vào. — Xong rồi bố ơi! - Cô gọi - Bố... Cô chợt ngừng lại không nói tiếp khi thấy chiếc ghế trống trơn, tờ báo đang nằm trên sàn nhà, ly cà phê vẫn còn đầy và điếu thuốc đang hút dở đặt trên đĩa gạt tàn, khói thuốc vẫn tiếp tục bay lên cao. Muriell thay đĩa thức ăn mới cho bố, rồi bỏ một lát bánh mì vào hộp nướng bánh và nhấn nút. Cô đứng chờ bố trở lại bàn ăn, cặp mắt bất chợt để ý đến mục quảng cáo trên tờ báo. Cô cúi xuống nhặt tờ báo. Đó chỉ là mục quảng cáo về các loại quần áo may sẵn. Khi công tắc của bếp nướng bánh ngắt điện và lò xo đẩy miếng bánh lên trên nắp hộp, Muriell nhíu mày thắc mắc không hiểu sao bố cô chưa trở lại bàn ăn. Cô rón rén bước xuống phòng tắm dưới nhà, cửa mở nhưng bên trong không có ai. Cô đi vòng sang các phòng khác và gọi khẽ — Bố, thức ăn nguội rồi! Cô trở lại phòng ăn, vẫn không thấy ai và chợt cảm thấy có sự bất ổn. Cô xem xét kỹ dưới nhà một lần nữa. Liệu bố cô đã đi làm rồi mà không nói cho có biết chăng...? Ông biết rõ là Muriell đang làm trứng cho ông mà? Chính ông đã bảo cô làm thêm mà? Chắc chắn không thể nào ông rời khỏi nhà mà lại không nói cho cô hay. Kể cả trường hợp nếu có điều gì thật khẩn cấp ở văn phòng thì ông cũng phải cho cô biết chứ. Nhưng hẳn là không có gì khẩn cấp vì đâu có nghe thấy chuông điện thoại reo. Trong bếp luôn có đường dây điện thoại song song, có gì thì chuông đã kêu. Như vậy hẳn có chuyện gì ở trên lầu. Có thể Nancy bị ốm chăng? Muriell bước vội lên lầu nhưng vẫn cố giữ im lặng. Cô nhẹ nhàng vặn nắm cửa phòng ngủ và đẩy nhẹ. Nancy Gilman đã thức, nhìn thấy Muriell đứng ngơ ngác nép bên cánh cửa bèn hỏi: — Có gì vậy, Muriell? — Con tìm bố - Muriell đáp. Nancy quay đầu lại nhìn bên giường trống. — Bố đã rời khỏi buồng cả tiếng đồng hồ rồi - Bà nói với giọng hơi lộ vẻ khó chịu, nhưng rồi chợt ý thức liền mỉm cười và tiếp - Có chuyện gì vậy con? Bố lại trễ ăn sáng à? — Dạ không - Muriell nói - Bố muốn ăn thêm và con đã làm xong nhưng ... con sợ nguội. Nét mặt Nancy Gilman thoáng lộ nét lo âu nhưng rồi bà kéo gối tựa sau lưng, mỉm cười, nói: — Ồ, con quá quan tâm đến bố đấy! Bà cười với nụ cười kín đáo và quay sang ngủ tiếp. Như vậy là bố Muriell không có mặt ở tất cả mọi nơi trong nhà, ngoại trừ căn phòng để đồ trên gác. Bất chợt một ý tưởng bỗng khuấy động trong đầu óc Muriell. Gần đây bố cô thường tỏ vẻ khó chịu. Hai hôm trước ông có nói với cô: “Bố dặn con một điều là nếu có bất kỳ chuyện gấp gáp nào liên quan đến công việc làm ăn của bố, thì hãy nhớ rằng bố không muốn dính dáng đến cảnh sát. Con nhớ không? Bố không muốn dính dáng đến cảnh sát.” Muriell đã nhìn bố với cặp mắt ngạc nhiên, muốn ông giải thích rõ hơn, nhưng ông chỉ trả lời một cách đại khái và cố nhấn mạnh cái ý chính của mình là không muốn dính dáng đến cảnh sát. Cô chợt lo lắng nghĩ đến những vụ tự tử, những xác chết treo cổ trên trần nhà. Cô liền chạy như bay lên thang gác. Phòng chứa đồ với những rương thùng quần áo cũ, các bàn ghế cổ. Gian phòng vẫn còn ăm ắp cái hơi hướng của một thời quá vãng. Những căn phòng dưới nhà đang hòa nhập với nhịp độ đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, nhưng tại đây, trong căn phòng này hầu như đón nhận toàn bộ những đồ vật dư thừa, lỗi thời của những ngày đã qua. Nó mang một không khí trầm buồn và cách biệt. Nhìn bao quát xung quanh căn phòng, Muriell cảm thấy hơi yên tâm, nhưng dù sao cô cũng đi vòng khắp hết một lượt, để ý cả đến ngoài hàng hiên sát mái. Không có một ai. Cô thấy vững dạ hơn và bước xuống cầu thang. Vừa tới chân cầu thang, Muriell gặp ngay Glamis, con riêng của mẹ kế. Glamis mặc bộ đồ ngủ mỏng dính. Mái tóc vàng xõa trên khuôn mặt với đôi mắt xanh tỏ vẻ bất bình. — Chị làm gì ầm ĩ ở trên gác vào cái giờ còn sớm như thế này? — Ồ, xin lỗi Glamis - Muriell nói - Chị... chị đang tìm kiếm... — Chị kiếm cái gì vậy? - Glamis hỏi khi thấy Muriell tỏ ra ngần ngừ. — Ồ, chị có chút việc trên ấy - Muriell nói - Chị đã cố nhẹ nhàng. — Em tưởng như có một đàn ngựa chạy trên ấy! Đúng, chạy ngay trên phòng ngủ của em. — Ồ, chị xin lỗi. Glamis bỗng nhiên cười và nói: — Chị tha lỗi cho em. Bị thức giấc nên em cáu giận vô lý. Dưới nhà có cà phê không chị? Muriell gật đầu. — Em cảm thấy khó chịu khi chưa được uống ly cà phê vào buổi sáng - cô em nói - Em sẽ xuống dưới nhà uống một ly rồi trở lên ngủ tiếp. Chị đã xong việc trên phòng để đồ chưa? — Rồi - Muriell đáp - Thôi đừng quan tâm nữa, Glamis. Chị sẽ đem cà phê lên phòng cho em. Không có đường chứ? Glamis gật đầu. — Chị xin lỗi vì đã làm em thức. Chị đang lo ăn sáng cho bố - Muriell nói. — Ở trên phòng để đồ à? - Glamis vừa hỏi vừa cười. Muriell vỗ nhẹ lên vai cô em. —Thôi về phòng đi cưng. Chị sẽ mang cà phê lên cho. — Vâng, cảm ơn chị - Glamis nói - Bạn em là Hartley Elliott đã ở lại nhà mình hồi đêm, anh ta cũng cần được ngủ. — Bạn trai em à? - Muriell hỏi. — Vâng. Anh ta ngủ ở trên phòng Hoa Hồng. Chúng em về nhà đã hơn nửa đêm, rồi ngồi nói chuyện với nhau ngoài hàng hiên. Khi anh ấy mở máy xe tính đi về thì mới biết là quên rút chìa khóa xe trong ổ nên bình điện yếu không đề máy được. Vì vậy em đã bảo anh ấy ngủ lại. — Mẹ biết không? - Muriell hỏi. — Dĩ nhiên là không. Mẹ đang ngủ ngon mà. Chị nghĩ rằng em phải đánh thức mẹ dậy để báo với mẹ là em mời khách ngủ lại nhà mình sao? Em cũng đã lớn, hai mươi tuổi rồi. Và chị nghĩ... Glamis bỗng dưng ngừng lại rồi mỉm cười nói tiếp: — Chị thấy em giống như con ma dại vào buổi sáng như thế này phải không? Muriell vỗ vai cô em. — Thôi cưng, chị sẽ mang cà phê lên. Chui vô giường đi. Trông em trần như nhộng. — Em ấy à? - Glamis hỏi lại và đưa tay vuốt bộ áo ngủ mỏng dính rồi cười và nhẹ nhàng bước về phòng trên hành lang trải thảm. Muriell xuống dưới nhà, tự trấn an rằng có lẽ vì một lý do đặc biệt nào đấy, bố cô đã phải đi ngay đến văn phòng làm việc mà không kịp cho cô biết. Chắc đó là công việc hết sức quan trọng, có thể là một cuộc hẹn mà ông đã quên. Muriell lấy lại sự vui vẻ khi cô rót cà phê vào chiếc tách lớn, bỏ vài miếng bánh mì nướng vào trà, đặt tất cả lên khay và bưng lên phòng cho Glamis. — Ồ, cảm ơn chị - Glamis nói - Chị mang cả bánh mì nướng lớn cho em nữa hà? — Đói không? — Đói muốn chết! - Glamis nói - Em cứ thức dậy là thèm ăn ngay. Nếu không kiêng khem sợ mập, có lẽ em phải xuống nhà hàng dưới phố để ăn sáng. Glamis ngồi nhỏm dậy, dụi tắt điếu thuốc trên đĩa gạt tàn, với tay lấy tách cà phê, nhìn Muriell và nói: — Chị thực là tài, chị Muriell. — Tài gì? — Chị luôn luôn giữ được điều độ. Em thấy chị lúc nào cũng trầm tĩnh và đầy nghị lực. Còn em thì như con ngố nếu sáng dậy mà không được uống cà phê. Glamis nhai mẩu bánh và uống vài ngụm cà phê. Sau đó cô vội đẩy đĩa bánh và tách cà phê sang một bên, mỉm cười vừa nói với Muriell vừa ngả đầu nằm lại trên giường. — Cảm ơn chị. Em ngủ đây. Muriell bước ra khỏi phòng, đóng nhẹ cửa và trở lại phòng ăn. Hôm nay là ngày nghỉ của người nấu bếp, còn người giúp việc dọn dẹp và rửa chén đĩa sẽ đến vào giờ muộn hơn. Một lần nữa tư tưởng bất ổn lại xuất hiện trong đầu óc Muriell khi cô nhìn thấy đĩa trứng trên bàn ăn đã nguội lạnh, tờ báo vẫn nằm bên chiếc ghế trống trơn. Thật là bất thường, bố cô đi mà không nói lấy một lời, sao bố lại có thể vô tâm như thế được. Bố biết là Muriell đang ở trong bếp mà... Bỗng cô nhìn thấy chiếc cặp táp của ông. Không bao giờ bố cô đi làm mà quên đem theo chiếc cặp táp này. Muriell biết rằng bố cô có một số giấy tờ quan trọng để trong cặp. Ông đã phải làm gấp vào đêm qua để kịp sáng nay đưa đến văn phòng. Ngay cả lúc sáng khi đang ngồi trước bàn ăn, ông cũng đã lấy tập giấy tờ ấy ra để xem xét lại và ghi chú thêm. Muriell bước tới cầm lấy chiếc cặp và mở ra. Tập giấy tờ tài liệu vẫn còn nguyên trong ấy. Muriell cầm lên rút các giấy tờ bên trong ra xem rồi bỏ trở lại trong tấm bìa cứng bọc ngoài. Bất chợt cô để ý đến hàng chữ viết tay của bố cô ghi trên đầu tấm bìa: Trong bất kỳ trường hợp khẩn cấp nào, hãy liên lạc với luật sư Perry Mason ngay lập tức. Tuyệt đối không được liên lạc với bất cứ nơi nào khác.' Dòng chữ ghi có cả chữ kí của bố cô và được viết bằng bút mực. Chỗ chữ kí hơi bị nhòe một chút có lẽ vì ông đã vội cất tập giấy vào trong cặp trước khi chờ đủ thời gian cho mực khô. Ngoài ra bên cạnh chỗ chữ viết, có ghi một số điện thoại, chắc là số điện thoại của văn phòng luật sư Perry Mason. Liệu có phải bố cô đã viết những hàng chữ này lúc ngồi trên bàn ăn sáng không? Muriell nhìn đồng hồ. Đã chín giờ kém mười. Cô đóng cặp táp lại và bước đến bên ghế bố cô đã ngồi. Cô không thấy chiếc khăn ăn của ông. Như vậy là khi bố cô đi, ông đã cầm theo chiếc khăn ăn. Bỗng dưng ý nghĩ của sự mất chiếc khăn ăn khiến cho Muriell cảm thấy sợ hãi. Cô lật tờ báo lên, xem dưới gầm bàn, tìm khắp phòng, sau đó cô bước qua phòng khách rồi trở ra cầu thang định lên lầu và lúc này cô chợt nhớ đến xưởng làm việc. Đúng rồi! Phía sau biệt thự là một dãy nhà khá lớn, đầu dãy phía bắc là gara xe chia làm ba ngăn. Kế tiếp là một phòng dùng làm phòng tối dành cho bà Nancy rửa phim ảnh và phía cuối của dãy nhà là một xưởng riêng của ông Carter Gilman, chia làm hai phần, một làm đồ gốm và một làm đồ mộc như các hộp bằng gỗ quý để đựng đồ nữ trang, các hộp đựng đồ khâu vá và các khung ảnh trang hoàng. Muriell đẩy mạnh cửa bước ra ngoài hành lang, cô rảo chân qua sân cỏ phía sau nhà, tiến đến trước cánh cửa xưởng mộc. Cô mở mạnh cửa gọi lớn: — Bố! Cô bước vào trong và bất chợt khựng lại. Một chiếc ghế gãy nằm trên sàn, bên cạnh là một vũng màu đỏ thẫm. Mạt cưa văng tung tóe trên nền ximăng và những tờ giấy bạc rải rác khắp nơi. Các tờ giấy bạc đều là loại một trăm đôla và Muriell nhìn thấy có đến khoảng trăm tờ như vậy khắp phòng. Muriell nhìn qua bên phải chỗ cánh cửa dẫn sang phòng rửa ảnh của bà Nancy, ngay trước cánh cửa, trên sàn ximăng là chiếc khăn ăn của bố cô. Muriell bước tới mở cánh cửa phòng rửa ảnh. Mùi chua của thuốc rửa ảnh xông lên mũi. Ánh sáng từ ngoài cánh cửa rọi vào nhưng vẫn không đủ sáng. — Bố ơi! - Muriell gọi. Im lặng vẫn bao trùm căn phòng. Muriell bước qua hết phòng rửa ảnh, mở và đẩy mạnh cánh của thông sang gara. Chiếc xe thể thao và chiếc xe nhỏ vẫn nằm đúng vị trí nhưng chiếc xe lớn thì không còn ở đấy nữa. Muriell ý thức được sự kiện vắng mặt chiếc xe của bố, tim cô bỗng đánh thình thịch. Bố cô đã rời phòng ăn đi xuống gara, trong tay vẫn còn cầm nguyên chiếc khăn ăn. Phải có một biến cố nào đấy khiến ông phải đi xuống dưới nhà mà không ý thức được là trong tay mình đang cầm chiếc khăn ăn. Chắc ông đã xuống gara trước, rồi đi qua phòng rửa ảnh và mở cửa bước sang xưởng mộc. Những gì ông nhìn thấy trong xưởng hẳn đã làm ông đánh rơi chiếc khăn ăn. Như vậy chuyện gì đã xảy ra? Chiếc ghế gãy nằm trên sàn mang ý nghĩa gì? Tại sao các giấy bạc lại tung tóe trên sàn và nhất là cái vũng màu đỏ thẫm kia? Muriell liền đi đến quyết định, cô bước vội lại bàn điện thoại trong xưởng, nhấn nút liên lạc với văn phòng làm việc của Carter Gilman. Khi được văn phòng báo cho biết là ông không có ở đấy, cô bèn lật gấp các trang sách cuốn điện thoại niên giám tìm số văn phòng luật sư Perry Mason. Tiếng trả lời trên điện thoại cho biết luật sư Perry Mason chưa tới, nhưng thư ký riêng của ông ta đang có mặt. — Vâng, tôi nói chuyện với cô thư ký cũng được, - Muriell nói. Vài giây sau tiếng nói trên đầu máy vang lên. — Tôi là Della Street, thư ký riêng của luật sư Perry Mason nghe đây. Muriell nói thật nhanh: — Vâng, hiện giờ tôi thấy lo lắng quá. Bố tôi tự dưng biến mất. Tôi tìm thấy tờ giấy ghi trong cặp táp của bố tôi bảo rằng hãy gọi cho luật sư Perry Mason trong trường hợp có biến cố xảy ra và... và hẳn có điều gì rất bí mật trong vụ này. Tôi... — Xin lỗi, cô có thể cho biết tên bố cô? — Carter Gilman. Mẹ tôi đã mất. Tôi ở đây với bố tôi cùng mẹ kế và con riêng của bà ta. Chúng tôi ... — Xin vui lòng cho biết tên cô. — Muriell Gilman. — Cô có thể cho tôi số điện thoại của nhà cô không? Muriell cho biết số điện thoại. — Và địa chỉ nữa? — 6231 Đại lộ Vauxman. — À, luật sư Perry Mason vừa mới tới - Della Street nói. - Tôi sẽ gọi lại cho cô trong vòng năm phút. — Cảm ơn cô - Muriell đáp và cúp máy. ... Mời các bạn đón đọc Bí Ẩn Vụ Song Sinh của tác giả Erle Stanley Gardner.
Người Lạ Trong Gương - Sidney Sheldon.
Sách Nói Người Lạ Trong Gương   Người Lạ Trong Gương vẫn là một trong nhiều câu chuyện Betseller của nhà văn nổi tiếng Sidney Sheldon. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ Nhất vừa kết thúc được hai năm. Detroit thuộc bang Michigan được coi là một trong những thành phố công nghiệp phát triển nhất nhì toàn cầu. Không còn lo cung cấp xe tăng, máy bay cho các đồng minh tận châu Âu xa xôi, nay các hãng xe hơi của Detroit chỉ còn tập trung sản xuất, nâng cao, hoàn thiện sản phẩm chính của mình để nhanh chóng sau đó, mỗi ngày, hàng ngàn chiếc xe được xuất xưởng, chở tới khắp thế giới, nơi người tiêu dùng khao khát nó. Ngược lại, hàng vạn lao động từ khắp nước Mỹ, khắp cả châu Âu, đổ xô đến Detroit. Ai cũng hy vọng tràn trề song không phải ai cũng toại nguyện. Paul Templarhaus và vợ là Frieda, dân Đức, cũng nằm trong số hy vọng đó. Đang học nghề tại một lò mổ ở Muchen, anh lấy vợ, lấy luôn hồi môn của vợ để di cư sang New York, để mở hàng bán thịt và để...lỗ vốn. Rời New York nhưng không rời nghề bán thịt, anh dắt vợ đến St.Louis, đến Boston và rồi đến Detroit, song ở đâu cửa hàng anh cũng lỗ hơn là lãi. Điều đó thật khó hiểu, vì ở vào thời kỳ kinh tế phát triển, nhu cầu ăn ngon, nhất là cứ bốc hơi đi? Anh khó hiểu chứ Frieda, vợ anh, thì biết thừa. Thực ra, chồng chị chỉ lo làm thơ chứ đâu chịu lo làm ăn. Ngồi trước bàn thịt mà đầu óc anh chỉ quẩn quanh với câu với chữ, với ý với tứ chứ nào đâu với miếng thăn miếng đùi và nhất là với chuyện mời chào khách bỏ tiền ra mua. Không một tờ báo hay nhà xuất bản nào chịu mua thơ của anh, ngược lại, những người máu thịt của anh thì đông vô kể nhưng không ai chịu trả tiền, vì anh luôn sẵn sàng cho họ chịu. Đến nỗi người ta đồn thổi khắp mấy con phố, lan ra cả ngoại ô, rằng, muốn không mất tiền song lại muốn có thịt ăn thì cứ việc đến cửa hiệu Paul Templarhaus. Frieda chưa từng biết tới đàn ông trước khi Paul cầu hôn cô. Mà nói là anh cầu hôn với cha cô mới đúng, và lập tức được cả cha lẫn con đồng ý, nhất là ông già lại đang lo rằng cô con gái sẽ sống bám lấy mình suốt đời, thậm chí ông còn tặng thêm hồi môn, ngoài số đã định trước đó, để hai vợ chồng sớm xa chạy cao bay, nghĩa là di dân, mà với ông, càng xa càng cao thì càng tốt. Còn Frieda? Paul đâu biết vừa thấy anh cô đã yêu liền. Đã bao giờ cô được gặp nhà thơ, thậm chí một người thích làm thơ? Ngoại hình anh thì cô mê tít, bởi nó vô cùng phù hợp với người tình trong mộng mà đêm vẫn luẩn quẩn bên cô. Anh hơi gầy, mắt cận thị màu xanh nhạt, tóc thưa, nói năng e dè... nghĩa là theo cô, rất trí thức, rất nhà thơ. Vợ chồng dắt nhau sang New York cô mới dám tin thiên- tài- đẹp- trai này thực sự là của mình. Cô biết mình, nếu không bị nhìn là xấu xí thì cũng chẳng ai coi là đẹp đẽ gì, ngoài đôi mắt xanh biếc lanh lợi như vay mượn của ai đó, còn lại cô thừa hưởng toàn bộ cái xấu xí của họ hàng hang hốc nội ngoại nhà cô. Nào mũi to, trán dô, cằm bạnh...nào thân hình ục ịch...nào dáng đi lật bật...Con tim, Paul cũng như bất kể ai không mù, đều dễ dàng nhận ra những cái xấu đó, vậy sao anh vẫn cầu hôn cô? Có phải vì là nhà thơ nên anh tinh tường hơn người đời, nhìn ra được bao vẻ đẹp của cô ẩn náu bên trong cái vẻ ngoài xấu xí đó? Cô đâu biết, tuy không phải dân đào mỏ, cũng chẳng là kẻ thực dụng, song với Paul, điều hấp dẫn lớn nhất ở cô vợ có vẻ ngoài xấu xí đó chính là đống của hồi môn kia. Anh hy vọng, thậm chí tin tưởng, nhờ nó mà bằng cách này hay cách khác, anh sẽ thoát khỏi đám lòng, tiết, gân, xương nơi lò mổ, có cửa hàng riêng, có đủ tiền sinh sống và toàn tâm toàn ý với Nàng Thơ của mình. Frieda, kể từ hôm nhận được lời cầu hôn của Paul, đã tưởng tượng, đã thêu dệt ra bao mộng vàng của đêm tân hôn. Nơi họ đến nghỉ tuần trăng mật thì tuyệt rồi: ngôi nhà nhỏ ven hồ năm trong một khu thành cổ, lại ở giữa rừng, giữa đồng cỏ mênh mông. Thế rồi, cô hình dung, Paul sẽ ôm cô, miệng thì thầm lời yêu, tay lần cởi váy áo. Rồi anh sẽ hôn cô, thoạt tiên ở môi, ở cổ, rồi có thể cả ở tai, cô hy vọng thế. Sau đó, môi anh sẽ lướt dần xuống vai xuống ngực cô, ngậm thật lâu vào vú cô, rồi lướt khắp thân thể trần truồng của cô, nhẹ nhàng, mơn man, y hệt trong những cuốn sách mà cô đã vụng trộm đọc. Thế rồi anh khẩn khoản, như âu yếm, nhờ cô cởi bỏ giúp quần áo của anh. Tất nhiên cô cứ để anh nài nỉ, mãi sau mới chịu nghe. Cô đã bào giừo giúp ai việc đó mà bảo làm ngay được? Rồi cô sẽ thấy cái gì? Chả gì cả ngoài cái con vật của anh thẳng đơ và vênh vang như cán cờ Đức quốc xã. Nghe nới là đau lắm thì phải. "Nó" như thế kia cơ mà? Và anh sẽ nói gì với cô trước khi làm đau cô nhỉ? Anh khen người cô đẹp, hay giảm đơn như cánh lò mổ, "người cô nhiều thịt"? Chắc anh không đơn giản vậy đâu. Anh là nhà thơ kia mà. Chả có gì giống như cô tưởng tượng hoặc thêu dệt hoặc hình dung cả. Tối đến, ăn no xong, hai người vào phòng ngủ - cô phải tự đi vào vì không thấy anh tỏ ý muốn bế, như sách tả- và trong khi cô đang hồi hộp chờ đợi những gì tiếp theo thì anh đã lăn luôn ra chiếc giường tân hôn sau khi vội vội vàng vàng cởi bỏ quần áo. Anh nằm đó, dang chân dang tay, phô ra thân hình gày gò, bộ ngực lép kẹp và...cái của nợ kia nhỏ tí, ẽo uột ẩn sau đám lông lá, như xấu hổ. Chỉ thấy anh nhìn mình như chờ đợi, Frieda hiểu rằng mình sẽ phải tự cởi bỏ váy áo, tự leo lên giường chứ chẳng có ai sẽ hay dẫn. Cô thở dài, vừa thả váy xuống vừa tự nhủ, to nhỏ đâu quan trọng gì, với lại mình cần tình yêu của anh chứ đâu cần cái đó nhỏ hay to...Hãy chờ những gì anh sắp nói với mình đây. Anh sẽ thủ thỉ...sẽ bày tỏ. Nhưng anh chẳng hé một lời,dù to hay nhỏ. Cô vừa hồi hộp đặt mình xuống giường, còn chưa kịp nhích sát lại gần anh thì đã bị anh đẩy vai cho nằm ngửa ra để anh ngã sấp lên bụng cô, nhét cái đó vào, rồi sau vài lần nhấp nhô cô thấy anh rên khẽ, rùng mình khẽ và lăn xuống bên cô. Tất cả là vậy ư? Chả lẽ nó đã kết thúc khi cô còn tưởng nó chưa bắt đầu? Thực ra, chuyện đó với Paul chỉ là vấn đề giải quyết nhu cầu của phần "con" chứ không phải phần "người", và xưa nay anh cũng chỉ làm việc đó với đám gái điếm nhung nhúc ở Muchen. Theo thói quen, anh nhổm dậy móc ví định trả tiền thì chợt nhớ từ nay mình làm chuyện này sẽ không phải tốn một xu nào cả. Trong khi Frieda còn chưa hết ngơ ngác thì Paul đã ngáy nhè nhẹ. Anh ngủ, mặt vô tư như đứa trẻ. Cô quyết không khóc, tự nhủ, mấy ai vừa ý ở ngay lần đầu. Rồi anh sẽ khác. Rồi anh sẽ là người chồng tuyệt vời về mọi mặt chứ không riêng tình dục. Vả lại, tình dục đâu phải là quan trọng nhất với mình... Song càng ngày Frieda càng thất vọng hơn về Paul. Là vợ thì phải nghe lời chồng, cô chấp nhận, nhưng cô đâu có ngu ngốc để không thấy, dù muộn, những bài thơ của anh dở toẹt mặc anh mỗi ngày thêm lao tâm khổ tứ vì nó, và cũng vì nó mà anh sống như kẻ mộng du, đôi khi cứ như thằng ngớ ngẩn. Và quan trọng hơn nữa là vì cái ả thơ ấy mà đống hồi môn của cô cứ ngày một vơi dần. Khi hai vợ chồng chuyển tới Detroit thì Frieda không chịu đựng thêm được nữa. Sắp trắng tay rồi. Hôm đó, sau khi rà soát số hồi môn ít ỏi còn lại, cô lẳng lặng bước vào cửa hàng thịt của Paul, lẳng lặng chiếm giữ quầy thu tiền, để rồi từ đó không rời nó ra nữa. Không bán chịu, đó là biện pháp đầu tiên của cô. Paul hoảng hồn, nhưng đau chỉ có thế. Frieda tìm mọi cách quảng cáo chất lượng thịt tuyệt hảo của cửa hàng và kèm theo đó là tăng giá ở những món buộc phải tăng, và ngược lại. Bây giờ thì đã nhìn thấy đồng tiền đi vào chứ không chỉ nom thấy miếng thịt đi ra, như trước. Lãi nhỏ kéo theo lãi lớn. Việc buôn bán cứ khấm khá dần lên. Từ lúc nào chẳng biết, Frieda trở thành người ra lệnh còn Paul cứ răm rắp làm theo. Quen đi, ngày một ngày hai đã biến cô trở thành độc đoán, chuyên quyền, không chỉ ở cửa hàng thịt mà còn ở việc đầu tư tiền nong vào đâu, nên sống ở vùng nào và mùa hè này nghỉ tại đâu thì tốt nhất. Rồi cả việc chăn gối nữa. Giờ thì Paul đừng mong chỉ thoả mãn phần "con" của mình còn vợ ra sao thì mặc. Bây giờ chính Frieda là người quyết định làm chuyện đó, mặc Paul khoẻ hay yếu, có hứng hay không. Cái việc này bỗng trở nên khủng khiếp với Paul khi Frieda quyết định sẽ có con chỉ trong vòng một năm, không thể muộn hơn. Cô buộc chồng phải thực hiện bằng được việc làm tình trong những ngày có nhiều khả năng thụ thai, mặc Paul có hôm mệt đến phát ốm, mà là ốm thật chứ không phải vờ để trốn tránh. "Cho vào!", cô ra lệnh. Paul quấn cái đó của anh quanh ngón tay. "Mềm như sợi dây thế này thì cho vào đâu?". Frieda vẫn tảng lờ như điếc. Mấy tháng sau anh được tạm nghỉ vì đã hoàn thành sứ mệnh. Anh thích có con gái nhưng vợ anh thì ngược lại. Vì vậy, chẳng mấy ai quen biết họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy Frieda sinh con trai. Ngày lâm bồn, Frieda chịu tốn tiền để mời bằng được bà đỡ đến nhà vì không muốn sinh con tại bệnh viện. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc, ao nấy xúm quanh đều trợn mắt ngạc nhiên khi nhìn nó. Chẳng phải nó dị dạng hay thừa gì, thiếu gì. Song, giữa hai đùi nó, cái ở đứa trẻ khác người ta gọi là chim thì ở đây, nếu tạm so sánh, phải gọi là đại bàng. Bởi nó to quá khổ. Bố nó nằm mơ cũng chẳng được như thế. Không hiểu sao Frieda lại kiêu hãnh nghĩ vậy. Tên nó là Tobias. Do Frieda đặt, tất nhiên. Paul đòi dạy bảo thằng bé. Chuyện học hành, chữ nghĩa anh giỏi hơn cô. Vả lại, dạy dỗ con trai là việc của ông bố mà. Không phản đối, song Frieda không mấy khi để hai bố con ngồi riêng với nhau. Chính là cô, vừa nuôi vừa dạy nó, bằng những món ăn vừa ngon vừa bổ, và bằng những mệnh lệnh rắn như sắt thép. Lên năm tuổi, Toby cao nhưng gầy đến thảm hại, đôi mắt xanh biếc như của mẹ, luôn có vẻ đăm chiêu. Nó vừa yêu vừa sợ mẹ, mong ngóng được mẹ ôm ấp để có thể dụi sâu đầu vào ngực mẹ. Nhưng Frieda quá ít thời gian cho việc nựng nịu con, bởi còn lo kiếm tiền nuôi cả nhà. Phần khác, cô yêu con, tất nhiên, nhưng quyết không để nó lớn lên uỷ mị, yếu đuối như bố. Vì vậy, tình mẫu tử của Frieda được thể hiẹn bằng những mệnh lệnh cứng rắn, những đòi hỏi khe khắt về kết quả của mỗi công việc mà Toby thực hiện, dù là việc học hành ở trường hay việc mẹ giao ở nhà. Cô ít khi khen con, ngược lại, phạt nhiều hơn, nhưng có lẽ thế lại tốt cho Toby, cô nghĩ. Có một linh tính nào đó mách bảo, ngay giây phút đầu tiên ôm con vào lòng, khiến cô tin chắc sau này nó sẽ nổi danh thiên hạ. Cụ thể ra sao thì cô không biết nhưng cô chắc chắn nó phải như thế, và cô còn luôn nói với con, nhắc nhở con, khiến Toby dường như lớn lên cùng với niềm tin của mẹ. Và Toby biết, một khi mẹ đã muốn là phải được.   ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Gương của tác giả Sidney Sheldon.
Không Có Gì Mãi Mãi - Sidney Sheldon.
Sách Nói Không Có Gì Mãi Mãi   Câu chuyện là cuộc đời của 3 nữ bác sỹ trẻ cùng làm việc tại một bệnh viện lớn ở San Fancisco, và khát vọng mãnh liệt của họ... Nữ bác sĩ Paige Taylor. Cô đã thề đó là cái chết không đau đớn, nhưng khi Paige được thừa hưởng một triệu đô la từ một bệnh nhân, thẩm phán gọi đó là một vụ giết người. Bác sĩ Kat Hunter. Cô đã thề không bao giờ để cho người đàn ông nào lại quá gần mình - cho đến khi cô chấp nhận thách thức một vụ cá cược chết người. Bác sĩ Honey Taft. Để làm việc trong y khoa, cô biết mình sẽ cần một cái gì đó còn hơn cả là người giỏi nhất mà Chúa Trời đã cho cô. “Không có gì mãi mãi” chạy đua từ những quyết định sống còn của một bệnh viện lớn ở San Francisco cho đến sự nóng hổi đầy căng thẳng của một phiên tòa xét xử vụ giết người. Nó sắp đặt những tham vọng và nỗi sợ hãi của những người chữa bệnh và những kẻ giết người, lòng ti tiện và sự hào hiệp của kẻ phản bội và những người yêu nhau… Khi câu chuyện lên đến cao trào, hướng tới đỉnh điểm không thể đoán trước, Sidney Sheldon lại một lần nữa chứng minh rằng không độc giả nào có thể thắng được một bậc thầy của sự kiện bất ngờ. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** SAN FRANCISCO Mùa xuân - 1995 Chưởng lý quận Carl Andrew đang cáu kỉnh: - Chuyện chết tiệt gì thế này? - ông ta nói. - Ba bác sĩ sống chung phòng và làm việc trong cùng một bệnh viện. Một người khiến cho bệnh viện suýt phải đóng cửa, người thứ hai giết bệnh nhân vì một triệu đô- la, còn người thứ ba thì lại bị giết. Andrew ngừng lại, hít một hơi rõ dài: - Mà lại rất là đàn bà! Ba con mụ bác sĩ trời đánh! Báo chí đãi đằng chúng cứ như những danh nhân. Nào Chương trình 60 phút. Nào thì phóng sự đặc biệt của Barbara Walters. Tôi không thể cầm một tờ báo hay tạp chí nào lên mà không phải nhìn ảnh hay đọc bài viết về chúng. Chẳng mấy đâu, rồi Hollywood sẽ tung ra một bộ phim biến ba con mụ này thành những nữ kiệt? Tôi sẽ chẳng ngạc nhiên nếu Chính phủ trưng mặt các ả lên tem bưu điện như Presley vậy. Ôi, lạy Chúa, thật chịu hết nổi! - Ông ta giáng một quả đấm xuống bức hình người đàn bà in trên bìa tạp chí Time. Dòng tít viết: "Bác sĩ Paige Taylor - Thiên thần từ bi hay đồ đệ của ác quỷ?" - Bác sĩ Paige Taylor, - giọng ông chưởng lý quận đầy ghê tởm. Ông ta quay sang Gus Venable, viên chánh công tố. - Tôi giao vụ này cho anh đấy, Gus. Tôi muốn kết án. Tội sát nhân. Phòng hơi ngạt. - Đừng lo, - Gus Venable trầm giọng, - cứ để nó cho tôi. Ngồi trong phòng xử án nhìn bác sĩ Paige Taylor, Gus Venable nghĩ: Cô ta lẩn tránh toà. Rồi ông ta tự cười mình. Không ai có thể lẩn tránh được toà. Cô ta dáng cao, thon thả, với đôi mắt nâu huyền nổi bật trên gương mặt nhợt nhạt. Một người quan sát thờ ơ chắc chỉ xem cô ta như một loại đàn bà quyến rũ. Người tinh ý hơn mới nhận thấy còn những điều khác. Đó là tất cả những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời cùng tồn tại trong cô ta. Nét hớn hở vui tươi của đứa bé thêm vào vẻ băn khoăn e lệ của tuổi hoa niên và sự khôn ngoan, nỗi đau khổ của đàn bà. Có một vẻ ngây thơ nơi cô ta. Cô ta là cô gái mà một người đàn ông có thể lấy làm hãnh diện dẫn về giới thiệu với cha mẹ mình, Gus nghĩ mỉa mai, nếu cha mẹ anh ta hợp gu với những tên giết người máu lạnh. Có một nét gì xa xăm, gần như huyền bí trong mắt cô ta, một vẻ gì đó nói lên rằng bác sĩ Paige Taylor đã lùi sâu vào nội tâm, tới một thời gian khác, một nơi chốn khác, xa khỏi phòng xử án lạnh lùng, cằn cỗi, nơi cô ta đã bị đẩy vào. Phiên xử diễn ra tại Toà Công lý San Francisco tôn nghiêm, cổ kính trên phố Bryant. Nơi đặt toà án tối cao và nhà tù tiểu bang là một công trình trông đầy hăm doạ, cao bảy tầng, bằng đá vuông, xám xịt. Khách đến dự phiên toà được lùa qua một dãy hành lang kiểm soát điện tử. Trên gác, tầng ba, là phòng xử án. Trong phòng 121, nơi xét xử những vụ giết người, ghế quan toà tựa sát mặt tường chính diện, đằng sau là lá cờ nước Mỹ. Bên trái là chỗ ngồi của bồi thẩm đoàn, chính giữa đặt hai bàn được ngăn bằng lối đi, một bàn dành cho luật sư bên nguyên, bàn kia dành cho luật sư bên bị. Phòng xử án đã chật ních phóng viên và đầy ắp loại khán giả say mê dự các phiên toà xử tai nạn giao thông trên đường cao tốc và tội giết người. Trong các phiên xử tội giết người, đây là vụ hấp dẫn nhất. Chỉ riêng Gus Venable, luật sư công tố, cũng đáng để xem rồi. Ông ta to cao lừng lững, với bờm tóc xám, chòm râu dê, và cung cách lịch lãm của một điền chủ miền Nam, mặc dù ông chưa bao giờ ở miền Nam cả. Ông có vẻ mặt ngơ ngác vô tư và bộ óc của một cỗ máy tính. Nhãn hiệu của ông ta, đông cũng như hè là bộ complê trắng khoác ngoài chiếc sơ- mi cổ hồ cứng đã lỗi thời. Alan Penn, luật sư của Paige Taylor, là sự tương phản với Venable, một con người rắn chắc, năng nổ, lừng danh bới tài gỡ tội cho các thân chủ của mình. Hai luật sư này không bao giờ thiếu cơ hội để đối mặt nhau trước toà án và quan hệ của họ là sự nể trọng nhau miễn cưỡng và ngờ vực nhau hoàn toàn. Venable ngạc nhiên khi thấy Alan Penn đến gặp ông vào tuần trước khi phiên xử bắt đầu. - Hãy cảnh giác với những tay thầy cãi có tài. - Anh đang mưu tính chuyện gì thế, Alan? - Nghe đây, tôi chưa bàn với thân chủ của tôi, nhưng giả sử, chỉ giả sử thôi, tôi có thể thuyết phục cô ta nhận tội để xin giảm án và đỡ cho nhà nước một khoản án phí, thì sao? - Anh định thương lượng với tôi đấy à, Alan? - Gus Venable với tay xuống bàn giấy, lục lọi - Chẳng thấy cuốn lịch chết tiệt của tôi đâu cả. Hôm nay ngày bao nhiêu nhỉ? - Mùng 1 tháng Sáu. Sao? - Khoan nào, tôi cứ tưởng phải là Giáng sinh cơ đấy nếu không anh đã chẳng hỏi xin một món quà như vậy. - Gus… Venable nhoài người về phía trước. - Anh biết không, Alan, bình thường thì tôi có thể bị anh thuyết phục rồi đấy. Nói thật, bây giờ tôi khoái đi câu ở Alaska hơn. Nhưng câu trả lời là không. Anh biện hộ cho một tên sát nhân tàn nhẫn đã vì tiền mà giết một người bệnh bất lực. Tôi đề nghị án tử hình. - Tôi nghĩ cô ta vô tội, và tôi… - Không, anh không nghĩ thế đâu. Và không ai có thể làm cho bất cứ ai nghĩ như thế. Trường hợp rõ mười mươi rồi. Khách hàng của anh tội lỗi như Cain 1 vậy. - Chưa đâu, chừng nào bồi thẩm đoàn chưa kết tội. - Họ sẽ, - Gus để một khoảng lặng, - họ sẽ kết tội thôi. Sau khi Alan Penn ra về, Gus Venable ngồi nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa xảy ra. Việc Penn đến gặp ông là một dấu hiệu của sự thất bại. Penn hẳn đã hiểu mình ít có cơ thắng nổi vụ này. Venable nghĩ về những chứng cớ không thể chối bỏ mà ông đang nắm cùng các nhân chứng ông sẽ gọi ra thẩm vấn và ông thấy hài lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, bác sĩ Paige Taylor sẽ vào phòng hơi ngạt. .. Mời các bạn đón đọc Không Có Gì Mãi Mãi của tác giả Sidney Sheldon.
Bầy Chó Riga - Mankell Henning
“Bầy chó Riga”, cuốn sách thứ ba trong series truyện trinh thám của Henning Mankell, nhà văn trinh thám nổi tiếng Thụy Điển đã được Nhã Nam cho ra mắt bạn đọc Việt Nam. Nếu là người yêu thích truyện trinh thám, chắc chắn bạn đã biết đến Henning Mankell qua hai tác phẩm trước đây của dịch giả Cao Việt Dũng:  “Tường lửa” cuối năm 2006 và “Chậm một bước” giữa năm 2007.  Kể từ khi “Tường lửa”, tác phẩm đầu tiên của Henning Mankell - tác giả trinh thám hàng đầu Bắc Âu được Nhã Nam giới thiệu ở Việt Nam đến nay đã 4 năm, thời gian quá dài để chờ đợi một món quà quý giá. Tôi nhớ khi cho ra mắt “Tường lửa”, Nhã Nam đã thông báo cả ba tiểu thuyết hay nhất của Henning Mankell viết về thanh tra Kurt Wallander đã được Cao Việt Dũng chuyển ngữ và sẽ sớm ra mắt. Vậy mà phải mất gần 4 năm chúng ta mới tiếp tục được đón nhận thêm một luồng hơi thở mới của dòng văn trinh thám Bắc Âu... Nói như vậy để bạn thấy, tôi đã mong mỏi cuốn sách “Bầy chó Riga” này như thế nào. Thanh tra Kurt Wallander và các cộng sự phải đối mặt với một vụ án khá hóc búa: điều tra về cái chết của hai người chưa rõ tung tích trên một chiếc xuồng cứu hộ trôi dạt vào bờ biển Mossby Strand, Thụy Điển. Khi Wallander bắt đầu hướng mũi điều tra đến các nước Đông Âu thì ông nhận được thông tin từ Latvia. Thiếu tá Liepa, một quan chức cao cấp trong ngành cảnh sát của nước này được cử đến Thụy Điển để hỗ trợ công tác điều tra. Thời gian ngắn ngủi Liepa lưu lại Thụy Điển không ngờ cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của Wallander với viên thiếu tá cận thị gầy gò nhưng để lại cho ông nhiều thiện cảm. Cái chết của Liepa do bị ám sát ngay sau khi quay về nước lại chính là nguyên nhân đưa Wallander lần đầu tiên đến với Latvia, đến với thủ đô Riga, nơi mà sau đó xảy ra rất nhiều biến cố không chỉ trong việc điều tra vụ án này mà còn cả với đời sống tình cảm của Wallander. *** Sống tại Thụy Điển thanh bình, Wallander hoàn toàn xa lạ với Latvia, nước láng giềng có chế độ chính trị đang trong giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ của những năm 1991-1992. Như tác giả bộc bạch trong phần Tái bút: “Đối với nhà văn, tự thân việc viết ra một cuốn sách với cốt truyện diễn ra trong một bối cảnh xa lạ là rất phức tạp”... Nhưng chính điều này đã cho thấy tài năng vượt bậc của tác giả Henning Mankell. Xuyên suốt trong gần 400 trang sách, bạn sẽ rất hồi hộp và nôn nóng muốn ngay lập tức cùng nhân vật chính, thanh tra Wallander nhanh chóng đi hết hành trình của cuộc điều tra. Cuốn sách không dàn xếp những tình huống giật gân, gay cấn; không đi sâu vào miêu tả chi tiết vụ án, cũng không kể lại tỉ mỉ những tội ác gây kinh hoàng, nhưng tác giả Henning Mankell đã hoàn toàn lôi cuốn người đọc. Và đây chính là thành công nhất của một tác giả trinh thám. Khác với hai cuốn sách trước mà bạn đọc đã biết, vụ án này diễn ra chủ yếu tại Riga, thủ đô của Latvia.  Tại đây, mặc dù ngôn ngữ bất đồng, hoàn toàn không có cộng sự và không có bất cứ mối liên hệ nào để có thể dẫn đường, chỉ với sự giúp đỡ của Baiba Liepa, vợ của thiếu tá Liepa và những người khác, bằng kinh nghiệm và tài năng Wallander đã dần dần vén tấm màn bí ấn xung quanh cái chết của viên thiếu tá đáng kính và hai kẻ xấu số được phát hiện tại bờ biển Mossby Strand, nơi khởi đầu của vụ án này. Cuộc điều tra ngoài phạm vi Thụy Điển đã góp phần phơi bày thực trạng hỗn loạn của xã hội Latvia đang trong cơn chuyển mình; sự lũng đoạn, tha hóa của ngành cảnh sát khi những người nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy an ninh lại bị đồng tiền thao túng hay trở thành kẻ hai mang, phục vụ cho những mục đích chính trị riêng… Diễn biến khám phá vụ án cũng đồng hành cùng diễn biến tâm lý của Wallander. Bạn sẽ được chia sẻ những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật trong những tình huống cân não, hay đôi khi chỉ là những suy nghĩ miên man, những độc thoại về cuộc sống và hạnh phúc, sự đối diện với cái chết, với cuộc sống nhàm chán...  Trải qua một trong những sự kiện lớn lao, nguy hiểm nhất từng xảy ra trong cuộc đời, nhưng khi vụ án được khám phá, Wallander lại không được hưởng niềm vui chiến thắng. Tại Riga, trái tim tưởng như băng giá của ông được sưởi ấm bởi Baiba Liepa, vợ góa của người đồng nghiệp Latvia - người phụ nữ ngay từ lần gặp đầu tiên đã khiến ông không thể quên. Chẳng có một “kết thúc có hậu” nào bởi cuối cùng người phụ nữ ấy, rốt cục, có lẽ cũng chỉ là giấc mơ hạnh phúc của Wallander.  Gấp lại cuốn sách tuyệt vời này, tôi không thể không đặt ra một câu hỏi cho dịch giả Cao Việt Dũng và Nhã Nam: vụ án của “Bầy chó Riga” xảy ra 6 năm trước vụ án của “Tường lửa”, nơi mà bạn đọc Việt Nam đã được làm quen với thanh tra Wallander, với nỗi buồn cô đơn nhớ nhung Baiba Liepa của nhân vật chính. Có lý do nào giải thích cho sự hoán đổi thứ tự này không nhỉ? Phải chăng đây là chủ ý của dịch giả: để cho bạn đọc trước hết được làm quen với Wallander, người lúc nào cũng cô đơn và buồn bã, sau đó chúng ta mới được biết ông đã làm quen với người phụ nữ này như thế nào...   Dù thế nào chăng nữa, chắc chắn “Bầy chó Riga” và “Tường lửa”, “Chậm một bước” sẽ là món quà quý giá giành cho các bạn yêu sách. *** Bầy chó  Riga, cuốn thứ hai trong series tiểu thuyết trinh thám về Thanh tra Kurt Wallander, là nơi viên cảnh sát Thụy Điển gặp những sự việc và con người sẽ còn ám ảnh suốt phần đời còn lại của ông. Một lần hiếm hoi ra khỏi thành phố nhỏ bé của mình để nhận lấy một nhiệm vụ không ai hay biết, không đồng sự và không có chi viện, Wallander lúng túng trong nỗ lực xoay xở tại một đất nước vùng Baltic đang trong cơn chuyển mình hỗn loạn. Chỉ có thể dựa vào khả năng suy đoán, Wallander lần mò đi tìm một bằng chứng tưởng chừng như không tồn tại nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt với tương lai cả một đất nước. Và trên hành trình đầy sợ hãi ấy, ông đã gặp một người kể từ nay giữ một vị trí không thể phai mờ trong đời sống tình cảm của ông: Baiba Liepa. Bộ sách về Kurt Wallander đã khiến Henning Mankell đến với độc giả của trên 30 thứ tiếng, mang lại rất nhiều giải thưởng văn học (trong đó có giải Gold Dagger, giải The Glass Key, giải Gumshoe…); nhiều cuốn đã được dựng thành phim điện ảnh và phim truyền hình tại nhiều nước.  *** “Lối viết kiệm lời, cách xây dựng nhân vật tài tình, bầu không khí sôi sục và sự gay cấn lúc nào cũng mạnh mẽ.” - The Times Literary Supplement “Một câu chuyện về giới cảnh sát đầy lôi cuốn và suy tư, không cho người đọc buông sách xuống ngay từ trang đầu tiên.” - Irish Independent “Một câu chuyện đầy ắp văn hóa địa phương… Cốt truyện đủ chất bất ngờ, Wallander, như vẫn luôn luôn vậy, làm người ta rối trí và rất mực sắc sảo.” - Los Angeles Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bầy Chó Riga của tác giả Mankell Henning.