Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Thật Vụ Mất Tích Nữ Nhà Báo Stephanie Mailer

Sau thành công của tiểu thuyết Sự thật vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola từng được đánh giá là tác phẩm thổi bay Hỏa Ngục khỏi các bảng xếp hạng năm 2014, Joël Dicker một lần nữa tiếp tục chinh phục độc giả với tác phẩm mới nhất và vô cùng xuất sắc của mình - Sự thật vụ mất tích nữ nhà báo Stephanie Mailer. Ngày 30 tháng 7 năm 1994, vào đêm khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên được tổ chức tại thành phố Orphea, thị trưởng Gordon cùng vợ con đã bị sát hại tại nhà riêng. Trước cửa nhà ông thị trưởng, thi thể của nữ thủ thư Meghan Padalin cũng nằm trong vũng máu. Điều tra viên Jesse và trung sĩ Derek là những người đầu tiên tiếp cận hiện trường và được giao phụ trách vụ án này. Bắt tay vào điều tra, cả hai gặp vô vàn khó khăn bởi lẽ không có bất kỳ nhân chứng nào cũng như không tìm thấy động cơ nào dẫn đến vụ thảm sát cả gia đình ông thị trưởng. Sau rất nhiều nỗ lực, họ đã tìm được một nghi phạm thích hợp, đó là Ted Tennenbaum, chủ một nhà hàng vốn có hiềm khích với ngài thị trưởng. Và trong một cuộc truy đuổi, Ted đã mất mạng khi lao xe xuống cầu sông. Hai mươi năm sau, vào bữa tiệc chia tay Jesse (lúc này đã là đại úy) nghỉ hưu, nữ nhà báo Stephanie Mailer bất ngờ tiết lộ với anh rằng anh và cộng sự của mình đã bị nhầm về thủ phạm của vụ án năm xưa, theo đó Ted quá cố không phải là hung thủ giết hại bốn mạng người vào năm 1994. Vài giờ sau tiết lộ chấn động đó, cô phóng viên Stephanie đột nhiên mất tích cùng với bí ẩn về thủ phạm thực sự của vụ án mạng hai mươi năm trước khiến Jesse buộc phải yêu cầu cấp trên cho mở lại vụ án. Lần theo các manh mối phát hiện được tại nhà Stephanie, Jesse và Dereck bắt đầu chạy đua với thời gian để tìm ra thủ phạm thực sự không chỉ thảm sát bốn người vào năm 1994, mà còn khiến Stephanie mất mạng cũng như còn nhiều cái chết tiếp theo. Và hai mươi năm sau, những bí ẩn cùng rất nhiều nhân chứng liên quan tới vụ án năm xưa mới dần hé lộ. Bạn đọc một lần nữa sẽ trải qua những phút giây ngộp thở bởi tài năng xây dựng tình tiết câu chuyện của Joel Dicker mà phải đến trang cuối cùng mọi bí ẩn mới được giải đáp: vẫn không gian - thời gian của một nước Mỹ “giả tưởng”, vẫn thủ pháp kể chuyện đan xen sự kiện giữa hiện tại và quá khứ, vẫn hệ nhân vật đa chiều, mỗi nhân vật lại có một câu chuyện riêng rất đáng chú ý. ***   ĐÔI LỜI VỀ CÁC SỰ KIỆN Ngày 30 tháng Bảy năm 1994 Chỉ có những người thân thuộc với vùng Hamptons thuộc bang New York mới phong thanh biết được những chuyện đã xảy ra vào ngày 30 tháng Bảy năm 1994 tại Orphea, một thành phố nhỏ phồn hoa nằm bên bờ đại dương. Tối đó, Orphea khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên của thành phố, và sự kiện có quy mô toàn quốc này đã thu hút một lượng khán giả đông đảo. Ngay từ cuối buổi chiều, các du khách và cư dân địa phương đã bắt đầu tụ tập trên đường phố chính để tham dự rất nhiều hoạt động lễ hội do Tòa thị chính tổ chức. Người ta rời hết khỏi các khu dân cư, khiến những nơi này chẳng khác nào một thành phố ma: không còn người đi dạo trên vỉa hè, không còn cặp đôi dưới các mái vòm, không còn lũ trẻ trượt pa tanh trên đường phố, trong các khu vườn cũng chẳng còn một ai. Tất cả mọi người đều ở đường phố chính. Khoảng 20 giờ, trong khu phố Penfield vắng ngơ vắng ngắt, dấu vết duy nhất của sự sống chính là một chiếc xe hơi chậm rãi chạy dọc theo những con phố bị bỏ rơi. Ngồi sau tay lái, một người đàn ông chăm chăm nhìn vào các vỉa hè, trong đôi mắt ánh lên nỗi lo âu. Anh chưa từng cảm thấy cô độc đến thế trên đời. Chẳng có người nào giúp anh. Anh không còn biết phải làm gì. Anh đang tuyệt vọng đi tìm vợ: cô đã đi chạy thể dục và không trở về nữa. Samuel và Meghan Padalin thuộc số hiếm những cư dân quyết định ở lại nhà trong tối khai mạc Liên hoan sân khấu. Họ không mua được vé xem vở diễn mở màn, vì trước đó quầy bán vé chẳng khác nào bị tấn công, và họ cũng không thấy thích thú gì với việc chen lấn tham gia các hoạt động lễ hội trên đường phố chính và trên bến du thuyền. Đến cuối ngày, Meghan rời khỏi nhà, giống như tất cả những ngày khác, vào khoảng 18 giờ 30 phút, để chạy bộ. Ngoại trừ Chủ nhật, ngày cô cho phép thân thể mình nghỉ ngơi một chút, tất cả các tối trong tuần cô đều rèn luyện trên cung đường đó. Cô rời khỏi nhà và chạy ngược phố Penfield, lên đến tận Penfield Crescent, một đường vòng cung bao quanh một công viên nhỏ. Cô dừng lại ở đó để thực hiện một loạt những bài tập trên cỏ - luôn là những bài tập ấy - rồi quay trở về nhà vẫn theo con đường vừa rồi. Chuyến chạy bộ của cô kéo dài đúng bốn mươi lăm phút. Đôi khi là năm mươi phút, nếu cô kéo dài thời gian tập trên cỏ. Không bao giờ lâu hơn. Đến 19 giờ 30 phút, Samuel Padalin ngạc nhiên thấy vợ anh vẫn chưa về. Đến 19 giờ 45 phút, anh bắt đầu cảm thấy lo lắng. Đến 20 giờ, anh bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách. Đến 20 giờ 10 phút, không thể chịu đựng nổi nữa, rốt cuộc anh lấy xe hơi để đi quanh khu phố. Dường như đối với anh, cách làm hợp lô gic nhất là lần theo đúng cung đường chạy quen thuộc của Meghan. Và anh đã làm thế. Anh rẽ vào phố Penfield, rồi lái xe ngược lên đến tận Penfield Crescent, sau đó rẽ ngoặt. Đã 20 giờ 20 phút. Chẳng có một mống người nào. Anh dừng lại một lát để quan sát công viên nhưng không nhìn thấy ai. Chỉ đến khi nổ máy trở lại anh mới nhìn thấy một hình dạng trên vỉa hè. Lúc đầu anh tưởng rằng đó là một đống quần áo. Rồi hiểu ra rằng đó là một thân người. Anh vội lao ra khỏi xe, tim đập thình thịch: chính là vợ anh. Khi làm việc với cảnh sát, Samuel Padalin sẽ nói rằng lúc đầu anh tưởng rằng vợ anh bị mệt vì nóng. Anh sợ rằng vợ anh bị nhồi máu cơ tim. Nhưng khi lại gần Meghan, anh nhìn thấy máu và lỗ thủng ở đằng sau hộp sọ cô. Anh bắt đầu gào lên, gọi người đến cứu, không biết phải ở lại bên vợ hay chạy đi gõ cửa các nhà để nhờ ai đó gọi cấp cứu. Mắt anh mờ đi, anh có cảm giác hai chân không đủ sức nâng đỡ cơ thể mình nữa. Cuối cùng, những tiếng gào hét của anh cũng đánh động được một cư dân sống ở con phố song song, ông này đã gọi cấp cứu. Vài phút sau, cảnh sát phong tỏa khu phố. Chính là một trong số những nhân viên cảnh sát đầu tiên đến hiện trường, vào thời điểm thiết lập phạm vi phong tỏa, đã nhận thấy rằng cánh cửa nhà ông thị trưởng thành phố, căn nhà nằm ngay đằng trước xác Meghan mặc quần áo thể dục chạy bộ, đang hé mở. Cảm thấy tò mò, anh lại gần. Anh nhận thấy cánh cửa đã bị phá hỏng. Anh lấy súng ra khỏi bao, nhảy lên các bậc tam cấp và cất tiếng gọi. Không có ai trả lời. Anh giơ mũi chân đẩy cánh cửa và nhìn thấy xác một người phụ nữ nằm sõng soài trong hành lang. Anh lập tức gọi người chi viện, rồi chầm chậm tiến vào trong nhà, súng lăm lăm trên tay. Ở bên tay phải, trong phòng khách nhỏ, anh kinh hoàng phát hiện ra xác một cậu bé. Rồi, trong phòng bếp, anh nhìn thấy ông thị trưởng nằm trong vũng máu, ông cũng đã bị giết chết. Cả gia đình đã bị sát hại. ***   JESSE ROSENBERG Thứ Hai ngày 23 tháng Sáu năm 2014 33 ngày trước đêm biểu diễn khai mạc của Liên hoan sân khấu lần thứ 21 tại Orphea Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi gặp Stephanie Mailer chính là khi cô thâm nhập bữa tiệc nhỏ được tổ chức để chúc mừng tôi chia tay lực lượng Cảnh sát bang New York. Ngày hôm đó, đông đảo cảnh sát thuộc đủ các bộ phận đã tụ tập trong ánh mặt trời giữa trưa, đằng trước cái bục gỗ được dựng lên vào những dịp trọng đại tại bãi đỗ xe của trung tâm vùng thuộc lực lượng cảnh sát bang. Tôi đứng trên cái bục ấy, bên cạnh cấp trên của tôi, thiếu tá McKenna, người đã dẫn dắt tôi trong suốt sự nghiệp cảnh sát của tôi, ông đang trịnh trọng vinh danh tôi. “Jesse Rosenberg là một đại úy cảnh sát trẻ tuổi, nhưng rõ ràng cậu ấy đang rất sốt ruột muốn rời khỏi ngành, thiếu tá McKenna tuyên bố khiến cử tọa cười rộ lên. Tôi không bao giờ tưởng tượng được là cậu ấy lại ra đi trước tôi. Dù sao, cuộc đời cũng thật bất công: tất cả mọi người đều muốn tôi ra đi, nhưng tôi vẫn ở đây, và tất cả mọi người đều muốn giữ Jesse ở lại, nhưng Jesse lại ra đi.” Tôi 45 tuổi và tôi rời khỏi ngành cảnh sát với tâm trạng thư thái, vui vẻ. Sau hai mươi ba năm phục vụ, tôi đã quyết định nhận khoản trợ cấp mà lúc này tôi có quyền được hưởng để thực hiện một dự án mà tôi vẫn nung nấu từ lâu. Tôi vẫn còn một tuần làm việc nữa, đến tận 30 tháng Sáu. Sau đó, có lẽ một chương mới trong cuộc đời tôi sẽ mở ra. “Tôi vẫn còn nhớ vụ án lớn đầu tiên của Jesse, thiếu tá McKenna nói tiếp. Một vụ giết người khủng khiếp với bốn nạn nhân, mà cậu ấy đã phá án xuất sắc, trong khi không có người nào trong đội cảnh sát tin rằng cậu ấy đủ khả năng làm việc đó. Khi ấy, Jeese vẫn còn là một cảnh sát trẻ măng. Kể từ thời điểm đó, tất cả mọi người đều hiểu Jesse kiên cường đến mức nào. Tất cả những người từng ở bên cậu ấy đều biết rằng cậu ấy là một điều tra viên ngoại hạng, tôi nghĩ có thể nói rằng thậm chí Jesse chính là người giỏi nhất trong số chúng tôi. Chúng tôi đã đặt biệt danh cho cậu ấy là đại úy 100% vì đã giải quyết được tất cả các vụ điều tra mà cậu ấy từng tham gia, điều này khiến Jesse trở thành điều tra viên có một không hai. Cậu ấy là cảnh sát được các đồng nghiệp ngưỡng mộ, là chuyên gia để các đồng nghiệp xin ý kiến tư vấn, là chuyên viên đào tạo thuộc Học viện cảnh sát trong suốt nhiều năm liền. Hãy để tôi nói với cậu điều này, Jesse ạ: đã hai mươi năm nay tất cả chúng tôi ghen tị với cậu!” Cử tọa lại cười rộ lên. “Chúng tôi không hiểu rõ lắm về dự án mới đang chờ đợi cậu, Jesse ạ, nhưng chúng tôi chúc cậu gặp nhiều may mắn trong dự án đó. Và hãy nhớ rằng chúng tôi sẽ rất nhớ cậu, ngành cảnh sát sẽ nhớ cậu, nhưng đặc biệt là các bà vợ của chúng tôi, những người thường ghé qua các hội chợ của ngành cảnh sát chỉ để nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống cậu.” Một tràng pháo tay vang dội tán thưởng bài diễn văn. Thiếu tá McKenna thân mật vỗ vai tôi, tôi xuống khỏi bục để đến chào tất cả những người đã thân thiện có mặt, trước khi họ lao đến chỗ bày đồ ăn tự chọn. Sau khi tôi còn lại một mình được một lát, thì một cô gái rất xinh đẹp, tuổi trạc ba mươi đi đến bên tôi, tôi không nhớ đã tùng gặp cô ta bao giờ chưa. - Vậy ra anh chính là viên đại úy 100% trứ danh đó? Cô ta hỏi tôi bằng giọng đầy quyến rũ. - Hình như thế, tôi mỉm cười trả lời. Chúng ta có quen biết nhau không? - Không. Tôi tên là Stephanie Mailer. Tôi là phóng viên làm việc cho tờ Thời báo Orphea. Chúng tôi bắt tay nhau. Stephanie liền bảo tôi: - Anh có ngại không nếu tôi gọi anh là đại úy 99%? Tôi nhíu mày: - Phải chăng cô đang muốn nói bóng gió rằng tôi đã không phá được một trong các vụ án mà tôi được giao điều tra? Thay cho toàn bộ câu trả lời, cô ta lấy từ trong túi ra bản sao một bài báo cắt từ tờ Thời báo Orphea, số ra ngày 1 tháng Tám năm 1994 rồi đưa cho tôi: ĐOẠT MẠNG BỐN NGƯỜI Ở ORPHEA: THỊ TRƯỞNG CÙNG CẢ GIA ĐÌNH BỊ SÁT HẠI Tối thứ Sáu, thị trưởng thành phố Orphea, Joseph Gordon, vợ ông cùng cậu con trai nhỏ 10 tuổi của họ đã bị sát hại tại nhà riêng. Nạn nhân thứ tư tên là Meghan Padalin, 32 tuổi. Người phụ nữ trẻ này đang chạy thể dục vào thời điểm xảy ra vụ việc, chắc hẳn cô chính là nhân chứng không may của vụ giết người. Cô đã bị bắn chết ngay giữa phố, đằng trước nhà của ông thị trưởng. Mời các bạn đón đọc Sự Thật Vụ Mất Tích Nữ Nhà Báo Stephanie Mailer của tác giả Joël Dicker & Nguyễn Thị Tươi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bàn Tay Cứu Mạng - Chris Cleave
Trong cuộc chạy trốn bọn giết người hòng truy sát những nhân chứng tội nghiệp của một ngôi làng Nigeria (châu Phi) hiền lành bị san phẳng chỉ vì một nguyên do là nó nằm trên một mỏ dầu, hai chị em Ong Nhỏ - Lòng Tốt đã trốn đến một bãi biển ở Đông Nam Nigeria. Ở đó, hai chị em đã gặp hai vợ chồng nhà báo Anh đi nghỉ mát hòng hàn gắn cuộc hôn nhân đã nguội lạnh của họ. Chưa kịp bày tỏ hết mối hiểm nguy đang rình rập hai chị em, bọn giết người đã đuổi đến, và tên cầm đầu đã ra một điều kiện bất ngờ: nếu người đàn ông da trắng kia chịu chặt một ngón tay thì Ong Nhỏ và Lòng Tốt sẽ được tha mạng. Quá bất ngờ với điều kiện lạ lùng đó, lại không tin vào lời đảm bảo của tên cầm đầu đám sát nhân, người chồng đã từ chối... Và kể từ sau phút giây định mệnh khủng khiếp đó, cuộc đời của Ong Nhỏ và hai vợ chồng nhà báo người Anh đã không còn như trước... *** — “Dù trăng biến mất bao lâu/Một mai trăng lại sáng thâu đêm dài” được lấy từ www.motherlandnigeria.com - Đoạn “Ave Maria” tiếng Ibo được lấy từ trang web: www. christusrex.org — Một số thành ngữ Nigeria được lấy từ “từ điển tiếng Anh Nigeria” của roger blench và Từ điển cách dùng tiếng Anh Nigeria của herbert Igboanusi, Nxb Enicrownfit, 2001. - Một số thành ngữ Jamaica được lấy từ Từ điển tiếng Anh Jamaica của F.G. Cassidy và r.b. Le Page, Nxb Đại học West Indies, 2002. - Một số thành ngữ tiếng Anh bốn tuổi được lấy từ con trai tôi, batman. — Câu “Chúng tôi không nghĩ là có ai lại đi xin quá nhiều băng vệ sinh để làm gì” được lấy từ báo cáo đặc biệt của hội đồng hạt bedfordshire ngày 18 tháng 7 năm 2002 về vụ hỏa hoạn xảy ra ở trại giam Nhập cư Yarl’s Wood ngày 14 tháng 2 năm 2002. — Chi tiết về hệ thống trại giam nhập cư của Vương quốc Anh do Christine bacon cung cấp. Việc Christine đạo diễn vở Những màn độc thoại của người tị nạn với sự tham gia của các nhóm Diễn viên vì người nhập cư tại Vương quốc Anh và Úc là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết này. bạn có thể tham khảo công trình nghiên cứu của cô, tựa đề “Sự phát triển của trại giam nhập cư ở Vương quốc Anh: Sự nhúng tay của các công ty nhà tù tư nhân” tại trang web www.rsc. ox.ac.uk/PDFs/rSCworkingpaper27.pdf — thông tin về khía cạnh y tế và xã hội của hệ thống nhập cư và trại tị nạn được tiến sĩ Mina Fazel, bob hughes và teresa hayter cung cấp. tôi cũng chân thành cám ơn bob và teresa vì sự nhiệt tình, khích lệ của họ, vì đã đọc bản thảo của tôi và đóng góp ý kiến. tính chính xác của tiểu thuyết này có được là nhờ họ; những sai sót không thể tránh khỏi là do tôi. Cám ơn Andy Paterson và Olivia Paterson vì những ghi chú tuyệt vời cho bản thảo ban đầu của tôi. Cám ơn Sharon Maguire và Anand tucker vì sự nhiệt thành và ủng hộ. tôi mang ơn Suzie Dooré, Jennifer Joel, Maya Mavjee, Marysue rucci và Peter Straus, những người đã kiên nhẫn đọc nhiều lần và biên tập thấu đáo cho các bản thảo của tôi. Sự đóng góp của họ là vô giá. tôi cám ơn các bạn. • Chris Cleave, London, 18 tháng 2 năm 2008 www.chriscleave.com Đời đánh ta má sưng vù Mỉm cười ta bảo phù vì béo thôi - Tục ngữ Nigeria Mời các bạn đón đọc Bàn Tay Cứu Mạng của tác giả Chris Cleave.
Trước Tòa Đại Hình - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Ông đã đến đây hai trăm, ba trăm lần? Hay còn hơn thế? Ông không muốn đến, cũng không muốn nhớ lại từng trường hợp riêng rẽ, cả những lần nổi tiếng nhất, những lần đã đi vào lịch sử công lý, bởi đó chính là khía cạnh nặng nề nhất của nghề nghiệp ông. Phần lớn những cuộc điều tra của ông tuy nhiên chẳng phải đều kết thúc ở toà Đại hình như hôm nay, hoặc ở toà Phúc thẩm sao? Ông có lẽ thích không biết tới nó hơn, trong bất kỳ trường hợp nào, luôn đứng ngoài những nghi lễ cuối cùng mà ông không bao giờ quên nổi chúng hoàn toàn. Trong văn phòng của ông ở đường bờ sông Orfèvres, cuộc đấu tranh thường kết thúc vào buổi sáng, đúng ra vẫn còn là cuộc đấu tranh của con người với con người. Vài hành lang phải vượt qua, mấy chiếc cầu thang phải leo lên, rồi đến một cảnh tượng khác hẳn, một thế giới khác, trong đó câu chữ không còn cùng một nghĩa, một vũ trụ trừu tượng, thần bí, vừa tôn nghiêm vừa lố bịch. Cùng với những nhân chứng khác, ông vừa rời khỏi phòng xử có những vách gỗ tốt nơi ánh sáng điện của những bóng hình cầu trộn lẫn với màu nhờ xám của một chiều mưa. Viên mõ toà, mà Maigret cam đoan luôn thấy lão vẫn già như thế, dẫn họ tới một căn phòng nhỏ hơn, như một thầy giáo dẫn học trò, và chỉ cho họ những chiếc ghế dài gắn chặt vào tường. Phần lớn ngoan ngoãn ngồi xuống, vâng theo những lời dặn dò của ông chủ tịch, không nói một lời, không cả dám nhìn những bạn đồng hành của họ. Họ nhìn thẳng trước mặt, căng thẳng, kín đáo, giữ bí mật của họ cho khoảnh khắc tôn nghiêm, lát nữa, chỉ có mỗi mình họ giữa một không gian đầy ấn tượng, họ sẽ bị thẩm vấn. Hơi giống như trong kho đồ thánh. Lúc còn bé, mỗi sáng, đến phụ việc hành lễ ở nhà thờ làng, Maigret cũng cảm thấy bối rối như thế khi chờ đợi đi theo ông mục sư tới bàn thờ thắp sáng bằng những cây nến run rẩy. Ông nghe thấy những bước chân của những thiện nam, tín nữ không nhìn rõ mặt, tới ngồi vào chỗ, và tiếng đi đi lại của người coi giữ đồ thánh. Giờ đây cũng vậy, ông có thể đi theo cuộc hành lễ đang diễn ra phía bên kia chiếc cửa không? Ông nhận ra tiếng của ông chủ tịch Bernerie, người xét nét nhất, tỉ mỉ nhất trong các vị quan toà, nhưng cũng có thể là người thận trọng nhất, người say mê nhất trong việc khám phá chân lý. Gầy gò, ăn mặc xuềnh xoàng, đôi mắt như lên cơn sốt, tiếng ho khàn, ông có dáng vẻ như một vị thánh canh cửa. Tiếp đến là giọng nói của công tố viên Aillevard, giữ ghế Viện Công tố. Cuối cùng là tiếng bước chân lại gần của viên mõ tòa hé cửa gọi: “Ngài Cảnh sát trưởng Segré.” .. Mời các bạn đón đọc Trước Tòa Đại Hình của tác giả Georges Simenon.
Kẻ Góa Vợ - Georges Simenon
Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Jeanne là một cô gái điếm bị hành hung, bị rạch mặt một buổi tối xế trước cửa nhà gã, gần một ngôi nhà chứa. Gã đã chứng kiến cảnh đó và đã đưa nàng về nhà mình một cách vô tư, không chút ẩn ý, không lợi dụng mà hoàn toàn vì nhân tính. Khi thanh tra cảnh sát Gordes đến khám nhà vì biết Jeanne trú ở đó, và nói cho gã biết Jeanne là gái điếm có thẻ hành nghề, và đã hai lần trốn khám sức khỏe định kỳ. Gã đã hỏi thanh tra Gordes nếu Jeanne muốn thôi không hành nghề nữa có được không? Tất nhiên gã sẽ đứng ra bảo lãnh vì gã có việc làm ổn định. Thanh tra Gordes đã hướng dẫn gã tiến hành các thủ tục pháp lý nhưng không quên giễu cợt và cảnh cáo gã: “Cái trò này, nó chỉ thành công được một phần nghìn, và cần có quyền thử vận may...” Tám năm trời sống với nhau, có thể gọi là hạnh phúc, mặc dầu là một thứ hạnh phúc khép kín trong một tiểu vũ trụ. Nhưng khi Jeanne hỏi “Anh hạnh phúc chứ Bernard?” thì gã lại chỉ có thể trả lời “Anh không bất hạnh”. Đó là nguyên nhân của mọi sự chăng? Đó là lý do khiến nàng phải sụt sịt khóc thầm khóc vụng, không thành tiếng chăng? Phải chăng vì thế mà nàng mất tích? Phải chăng vì thế mà gã đã để tuột mất cái một phần nghìn nhỏ nhoi trong việc biến Jeanne thành một người vợ bình thường, trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng gã lại không chịu thua cuộc với thanh tra Gordes. Gã vẫn tin ở cái phần nghìn nhỏ nhoi đó của mình. Rốt cuộc, khi được phát hiện việc nàng tự vẫn trong bộ quần áo sang trọng trên chiếc giường hoa của một khách sạn đắt tiền, gần như đã bị hoàn toàn thất bại, gã lại bấu víu vào một cái phao nhỏ khác, đó là bức thư nàng để lại, chắc chắn là để cho gã, nhưng bức thư cũng đã biến mất. Từ thất bại này sang thất bại khác, cuối cùng gã cũng không tin là thư đó gửi cho mình mà rất có thể là cho kẻ đã thuê phòng hàng tháng cho nàng hơn một năm nay. Phải chăng vì lòng tốt, vì thiện ý mà hai người hiểu lầm nhau. Jeanne coi Jeantet như một vị phúc thần, gã quá tốt. Còn Jeantet không muốn Jeanne phải chạm đến quá khứ, cái quá khứ bất hạnh đã để lại một vết sẹo trên má nàng mà có lẽ vì vậy gã rất thích cái mái tóc rủ xuống một bên che đi vết sẹo đó. Gã không biết Jeanne đã phải miễn cưỡng, lén lút bước tiếp cái quá khứ nhơ nhuốc và bất hạnh đó mỗi thứ tư hàng tuần, thời gian duy nhất gã vắng nhà, vì nàng còn có một đứa con trai phải mướn nuôi, phải trả tiền mổ ruột thừa, tiếp đó tiền ăn, tiền trọ học cho nó. Jeantet muốn cùng Jeanne khép mình trong bốn bức tường tạo thành một thế giới riêng nhỏ bé để hạnh phúc của hai người, không ai có thể lọt vào cản trở. Thế nhưng Jeanne lại lén lút phá rào bởi Jeanne không thể, không chịu rời bỏ một người tốt như gã, bởi Jeanne thấy mình cần thiết cho gã. Gã quá tốt, nhưng theo Beaudoin, một chủ doanh nghiệp điện tử lớn của nước Pháp, đầy quyền thế, người tình đầu tiên của Jeanne, là cha đứa con trai của Jeanne, kẻ đã rạch mặt trừng phạt Jeanne vì đã bỏ hắn, lòng tốt của gã đã biến gã thành một con quỷ đồng thời vẫn tỏ ra là một người mộ đạo. Có thật lòng tốt của Jeantet đã buộc Jeanne phải phạm tội, hổ nhục, khốn khổ, vì nhu cầu sống của con người còn mạnh hơn tất cả? Nếu thế sao Jeanne lại tự vẫn? Nếu quả thật Jeantet biến thành một con quỷ sao gã lại nhận con nàng làm con nuôi, chứ không để mặc việc đó cho cha nó, Beaudoin giải quyết sau khi nàng tự vẫn? Đến đây quả thực bức thư gửi cho ai không còn cần thiết nữa, và thực tế là nó đã bị nát trong chậu giặt. Quả thật lý giải lòng tốt, thói xấu, cái thiện, cái ác chẳng để làm gì. Có thể đặt ra một giả thuyết: Cả Jeanne và Jeantet đều cởi mở hơn, nói với nhau tất cả, có khi không cần tốt đến thế họ cũng có thể đạt được hạnh phúc và tránh được cái kết cục bi thảm chăng? Giữa thanh tra cảnh sát Gordes và Jeantet Bernard ai là người thua cuộc, xin dành cho độc giả. Hà Nội, mùa Hè 2002 Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Mời các bạn đón đọc Kẻ Góa Vợ của tác giả Georges Simenon.
Cô Gái Trong Sương Mù
Trong một ngôi làng bình yên giữa dãy Alpes xinh đẹp, một thiếu nữ biến mất bí ẩn trước đêm GIáng sinh. Anna Lou là 1 cô gái ngây thơ, trong sáng, sinh ra trong 1 gia đình mộ đạo, thuộc 1 ngôi làng mộ đạo. Ở đây, cuộc sống quá đỗi thanh bình, người ta tưởng chừng như mình được Chúa và thiên nhiên chập chùng che chở, bảo vệ trước mọi cái ác của bên ngoài. Và rồi tội ác kia ập đến, dấy lên nỗi bất an, lo sợ nơi trái tim mỗi cư dân nơi đây, rằng cái ác đã bắt đầu xuất hiện, len lỏi giữa họ, rình rập họ. “…cái ác là động cơ thực thụ của mọi câu chuyện. Một cuốn tiểu thuyết, một bộ phim, hoặc một trò chơi điện tử trong đó mọi chuyện diễn ra tốt đẹp sẽ chẳng khiến ai quan tâm… Chính cái ác mới tạo ra câu chuyện” Khác với 2 tiếu thuyết đi trước vô cùng thành công của mình, “Kẻ nhắc tuồng” và “Người ru ngủ”, trong “Cô gái trong sương mù”, không còn những án mạng liên hoàn, không còn những thiên tài tâm lý học giật dây, “nhắc tuồng” cho những kẻ tội đồ của hắn. Cuốn tiểu thuyết trinh thám này hiện đại hơn, với cách thức phá án dựa trên những mánh lới, những chiêu trò giật dây, điều khiển truyền thông và dư luận. Văn phong của Donato đối với tôi vẫn thế, vẫn lối đan xen chiêm nghiệm cuộc sống mâu thuẫn mà sâu sắc, đồng điệu, tuy không mãnh liệt, cao trào, nhưng tinh tế mà thấm nhuần, tìm cách len lỏi vào trong suy nghĩ của tôi. Lối phá án trong tác phẩm vượt ngoài lối phá án truyền thống, những màn đấu trí giữa thanh tra phá án và tên tội phạm thông minh, gian xảo, những cú twist khiến bạn không ngừng cảnh giác trước sự trêu đùa – câu đố của tác giả; tất cả làm nên sự hấp dẫn, nét đặc trưng của “Cô gái trong sương mù” Đánh giá của bản thân: 9/10 Kimie Chen *** Không thể tin được rằng người ta có thể xây dựng một cốt truyện kịch tính đến thế! Những cú “bẻ cua” điêu luyện của Donato Carrisi làm tôi đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cô gái trong sương mùCÔ GÁI TRONG SƯƠNG MÙ Anna Lou cô gái vị thành niên được đánh giá là ngoan ngoãn, dễ thương đột nhiên biến mất. Sáu mươi hai ngày sau đó, Vogel, viên thanh tra phụ trách điều tra, cũng là ngôi sao của công nghệ truyền thông được tìm thấy trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ, quần áo lem vết máu. Từng ngày, từng ngày, hồ sơ vụ án được hé mở, những nhân vật liên quan chậm rãi bước ra từ phía cánh gà sân khấu, những mảnh ghép rời rạc được chắp nối để tạo thành bức tranh tưởng như hoàn hảo. Ai là nạn nhân, ai là người đứng sau và giật dây tất cả. Rất khó đoán, đến tận trang cuối, cuốn sách vẫn khiến tôi ngỡ ngàng đến run rẩy. Cuộc điều tra mang đầy tính kịch song song với những nét chấm phá nhân văn về cậu học sinh tự kỉ, về sự man rợ của đám đông trong thế giới đầy rẫy những điều xảo trá, ghê rợn tạo sự hấp dẫn, thu hút cho cuốn sách. Văn phong, cách kể chuyện chậm rãi, lời văn sâu sắc khiến tôi vừa hồi hộp, kích thích với diễn biến của cuộc điều tra vừa muốn nghiền ngẫm nghĩ về từng ý tứ. Cũng xin gửi lời chúc mừng tới ban biên tập và dịch giả Hoàng Anh về những trang sách mượt mà và cẩn trọng đến từng câu chữ. Yêu thích: 8.5₫/10 – rất đáng đọc. 04.8.2019 Hồng Khánh *** Nếu ai yêu thích tác giả Donato Carrisi chắc hẳn sẽ biết đến hai tác phẩm nổi tiếng trong làng trinh thám là Người ru ngủ và Kẻ nhắc tuồng. Cô gái trong sương mù là một tác phẩm riêng lẻ (không nằm trong series trên) của tác giả. Mang tâm lí hồi hộp, gây cấn khi đọc 2 quyển trên thì khởi đầu của Cô gái trong sương mù hơi chậm so với 2 quyển trên. Mạch truyện xuyên suốt đều tương đối chậm, không nhiều đoạn gây cấn lắm. Về nội dung thì xoay quanh vụ mất tích bí ẩn của Anna Lou, một thiếu nữ ngoan hiền biến mất trong đêm Noel. Và Thanh tra Vogel, cảnh sát hạng sao, chịu trách nhiệm điều tra.  Cách trình bày tác phẩm theo kiểu đếm ngày kể từ ngày vụ mất tích xảy ra, một điểm khá hay của tác phẩm. Tạo một chút li kì ở đầu truyện vào ngày thứ sáu mươi hai rồi sau đó là đếm dần từ ngày mất tích. Về đoạn kết thì nói thật Ann có hơi mong đợi vì có nhiều review tích cực nhưng khi đọc xong thì có chút thất vọng nhẹ. Vì cái kết không quá bất ngờ với người đọc trinh thám lâu năm như Ann ( hơi chảnh choẹ chút ????). Nhưng thật sự Ann đã có thể đoán được cái twist plot này nên không gây ấn tượng lắm. Không đánh giá cao tác phẩm này so với Series trên. Điểm : 7/10 Ann Kim *** Cái đêm mà mọi thứ thay đổi hoàn toàn khởi đầu với một cú điện thoại. Chuông điện thoại vang lên vào lúc 10 giờ 20 phút tối thứ Hai. Nhiệt độ ngoài trời là -80C, mọi thứ chìm trong một màn sương giá buốt. Flores đang yên ấm nằm cạnh vợ thưởng thức một bộ phim gangster trắng đen trên ti vi. Sophia đã ngủ thiếp đi được một lúc, tiếng chuông điện thoại không thể quấy rầy giấc ngủ của bà. Thậm chí bà còn không hay biết khi chồng mình rời khỏi giường và mặc quần áo. Flores xỏ chân vào chiếc quần bông, mặc áo thun có cổ, rồi khoác chiếc áo jacket đông dày sụ để chống lại màn sương giá dường đang xóa mờ mọi thứ kia. Ông phải nhanh chóng đi tới bệnh viện của Avechot, nơi ông đã làm việc với tư cách bác sĩ tâm thần suốt hơn bốn mươi trong sáu mươi hai năm tuổi đời. Trong quãng thời gian đó, chỉ có vài lần Flores bị lôi ra khỏi giường vì chuyện khẩn cấp, chủ yếu là việc của cảnh sát nhờ. Tại ngôi làng nhỏ trên núi nơi ông cư ngụ từ khi chào đời này, gần như chẳng có gì xảy ra sau khi mặt trời lặn,cứ như thể tại vĩ độ này, ngay đến bọn tội phạm cũng lựa chọn một cuộc sống đúng mực và thường xuyên ngồi nhà vào buổi tối. Chính vì thế, Flores tự hỏi chuyện gì đã khiến cho người ta cần đến sự có mặt của ông vào một giờ giấc bất thường như vậy. Thông tin duy nhất mà cảnh sát cho ông biết qua điện thoại là một người đàn ông đã bị bắt sau một tai nạn đường bộ. Không hơn.” … - Sao các anh lại bắt giữ tôi? Cảnh sát muốn gì ở tôi? Tại sao tôi không được về? Flores cố gắng huy động tất cả sự kiên nhẫn còn lại và đáp: - Thanh tra Vogel, tối nay đã anh đã bị tai nạn. - Tôi biết. - Vogel giận dữ đáp lại. - Và anh chỉ có một mình trên xe, đúng không? - Tôi đã nói với anh rồi. Flores mở một ngăn kéo bàn, lấy ra chiếc gương nhỏ và đặt nó trước mặt Vogel. Ông ta tỏ ra không mấy chú ý. - Và anh không hề hấn gì. - Tôi ổn mà, anh còn hỏi tôi câu đó bao nhiêu lần nữa đây? Flores chồm người tới trước. - Vậy hãy giải thích với tôi một chuyện này. Nếu anh không hề hấn gì, thì chỗ máu trên quần áo anh là của ai?             …         Trong đôi mắt ông ta lúc này có một ánh sáng khác, và tình trạng lú lẫn của ông ta bắt đầu tan biến như thể nó là một màn sương. Nhưng màn sương thực sự vẫn tồn tại bên ngoài cửa sổ, bao trùm lên vạn vật. Cái đêm mà mọi thứ thay đổi hoàn toàn chỉ mới bắt đầu. Vogel nhìn thẳng vào trong mắt Flores, đột nhiên minh mẫn hẳn. - Anh nói đúng. - Ông ta lên tiếng. - Tôi nghĩ tôi nợ anh một lời giải thích. Và câu chuyện từ từ được thanh tra Vogel kể lại theo dòng hồi ức của ông. Anna Lou, một thiếu nữ 16 tuổi bỗng nhiên mất tích khỏi ngôi làng bình yên Avechot vào dịp lễ Noel. “Tình cảnh ở đây là con gái đầu lòng của họ, đứa con gái duy nhất, đã biến mất hai ngày trước đó. Cô bé rời nhà vào buổi chiều, tầm 17 giờ, để đi tới nhà thờ nằm cách đó vài trăm mét. Và không bao giờ đến nơi. Anna Lou đã đi một lộ trình ngắn ngủi trong một khu dân cư với những ngôi nhà nhỏ có sân vườn giống hệt nhau. Mọi người ở đây đều quen biết nhau từ lâu. Nhưng không ai nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ điều gì. Báo động được phát lúc 19 giờ, khi mẹ của cô bé không thấy con về và gọi vào điện thoại di động của con, lúc ấy đã bị tắt. Mọi chuyện đều có thể xảy ra trong khoảng hai tiếng đồng hồ đằng đẵng đó. Cuộc tìm kiếm diễn ra trong suốt buổi tối, trước khi lý trí khuyên bảo họ về nghỉ để tiếp tục vào sáng hôm sau. Hơn nữa, cảnh sát địa phương không có đủ nguồn lực để rà soát toàn bộ khu vực. Trong lúc này, họ chưa có bất kỳ giả thiết nào về sự mất tích của cô bé.” Không ai nhìn thấy thủ phạm, và cảnh sát phải vào cuộc: thanh tra Vogel chịu trách nhiệm điều tra vụ này. Là một kẻ háo danh, nhưng Vogel ngay lập tức nhận ra đây không hẳn là một “vụ dễ xơi”. Và để không làm ảnh hưởng đến “thương hiệu cảnh sát hạng sao” của mình, ông ta quyết định đổ tội cho người thầy giáo mới chuyển đến sinh sống từ sáu tháng trước bằng cách vin vào sự cả tin của dân làng và dựng lên những chứng cớ giả mạo. Trong lúc truyền thông và tất cả công chúng, không chỉ những người bình thường, mà cả các sếp ngành cảnh sát, thậm chí ngài bộ trưởng đang sôi sục đòi kết liễu tay thầy giáo để đòi lại công bằng cho gia đình nạn nhân, “Người sương mù” bỗng xuất hiện. Theo nguồn tin, đó mới chính là thủ phạm thực sự mà cảnh sát đang tìm kiếm, kẻ ba mươi năm trước đã sát hại sáu thiếu nữ có đặc điểm tương đồng với cô bé mất tích Anna Lou. Rất nhanh chóng, ông thầy vô tội ngay lập tức được chuyển đổi từ một con quái vật trở thành “nạn nhân của hệ thống”. Thanh tra Vogel sẽ phải sử dụng mánh lới gì để cứu vãn danh dự cho mình khi giờ đây, ông trở thành mũi dùi tập trung của cánh nhà báo? Tác giả Donato Carrisi sinh năm 1973 ở Ý, tốt nghiệp ngành luật và tội phạm học trước khi trở thành nhà viết kịch bản phim truyền hình. Cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Kẻ nhắc tuồng của ông đã gây được tiếng vang lớn với năm giải thưởng Văn học quốc tế, được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, và đưa tác giả lên vị trí “nhà văn Italia được đọc nhiều nhất trên thế giới”. Dịch giả Hoàng Anh, tên thật là Vũ Hoàng Anh, là dịch giả hai thứ tiếng Anh, Pháp. Bén duyên với công việc dịch thuật từ năm 2009, cho đến nay anh đã ra mắt bạn đọc gần 40 dịch phẩm và nhận được sự đánh giá cao không chỉ bởi nội dung hấp dẫn của tác phẩm, mà còn bởi khả năng chuyển ngữ trung thực và vô cùng khéo léo của dịch giả.  Trích đoạn 1 Bảy ngày sau vụ mất tích Quán ăn ven quốc lộ đông nghịt. Trên lớp kính cửa sổ trông ra cây xăng, người ta vẫn có thể thấy hàng chữ Nghỉ lễ vui vẻ. Ông chủ quán đi lại như con thoi giữa nhà bếp và các bàn khách để bảo đảm mọi người đều được phục vụ và hài lòng. Ông đã phải tuyển thêm người để đáp ứng sự gia tăng đột biến của số lượng khách hàng. Nhà báo, nhân viên kỹ thuật, thợ săn ảnh lẫn người bình thường đổ dồn về Avechot để xem tận mắt địa điểm xảy ra câu chuyện đang chiếm lĩnh trang nhất của mọi mặt báo. Vogel gọi họ là những "du khách ghê rợn". Nhiều người trong số họ đã đưa cả gia đình đi một chặng đường dài. Trong quán có nhiều trẻ con và một bầu không khí nô nức đặc trưng của các chuyến dã ngoại. Vào cuối ngày, họ sẽ mang về nhà vài tấm ảnh kỷ niệm và ấn tượng rằng mình đã góp mặt, dù chỉ bên lề, trong một sự kiện truyền thông được hàng triệu người quan tâm. Họ không hề biết rằng cách đó vài trăm mét đội chó nghiệp vụ và các thợ lặn đang làm việc để tìm kiếm một dấu vết hoặc thậm chí chỉ một manh mối, về số phận của cô bé mười sáu tuổi. Vogel đã dự kiến chuyện này và đã đúng: sự ồn ào trên truyền thông đã thuyết phục các cấp trên của ông phớt lờ các giới hạn ngân sách và cho bọn ông những nguồn lực cần thiết. Họ sẽ làm tất cả để không mất mặt trước công luận. Vogel đang ngồi ở chiếc bàn đã từng ngồi trong ngày Giáng sinh, lúc ông là người khách duy nhất ở đây. Như thường lệ, ông vừa ăn vừa ghi chép vào cuốn sổ bìa đen bằng cây bút bạc. Ông viết rất cẩn thận. Sáng hôm nay, ông mặc một bộ com-lê vải tweet màu xám xanh với cà vạt sẫm màu. Sự lịch lãm của ông hoàn toàn lạc lõng so với những người còn lại trong quán. Nhưng ông phải như thế. Điều đó giúp cho ông đánh dấu sự khác biệt giữa mình và lũ người ồn ào lỗ mãng xung quanh. Càng nhìn họ, ông càng nhận ra một khía cạnh quan trọng. Bọn họ đã kịp quên Anna Lou. Nữ nhân vật chính câm lặng của câu chuyện không còn ở vị trí trung tâm nữa. Sự thinh lặng của Anna Lou chỉ là một cái cớ để người khác bàn tán, cho phép họ nói đủ thứ chuyện về cuộc đời cô bé. Truyền thông, và con người nói chung - trên đường phố, trong siêu thị, hoặc tại những quán bar. Không chút ngượng mồm. Vogel cũng đã dự kiến điều này. Khi chuyện này xảy ra, nó sẽ khởi động một cỗ máy, và những sự kiện có thật bỗng trở thành một kiểu phim truyền hình nhiều tập.   and s Trích đoạn 2   - Tôi sẽ thành thật với em… Ít nhất là về điều này. Giọng đàn ông này đến từ đâu? Mình có biết nó không? Hình như nó vọng đến từ xa. Vậy còn ánh đèn này là gì? Nó giống như cái đèn cắm trại bằng hơi đốt của bố - bố có một cái như thế trong gara. - Tôi biết em đang tự hỏi mình đang ở đâu, và chuyện gì đang diễn ra. Hãy bắt đầu bằng câu trả lời đầu tiên: chúng ta đang ở trong một khách sạn bỏ hoang. Câu thứ hai thì hơi phức tạp hơn một chút… Mình không mặc đồ. Sao vậy? Lúc nãy mình đang ngồi, thế mà bây giờ lại nằm. Nơi này không thoải mái chút nào. Trên là đâu, dưới là đâu? Mình cũng chẳng biết nữa. Mình có cảm giác như đang nhìn vào quả cầu thủy tinh. Cái bóng đang vờn quanh mình là gì vậy? ... Hắn mặc cho mình chiếc quần tập thể dục. Mình cảm thấy nó lướt trên đùi. Nhột ghê. Không biết như vậy có phải là dễ chịu hay khôngnữa. ... Đó là âm thanh phát lên từ chiếc áo khoác lông vũ khi mình kéo khóa. Nhưng không phải mình làm chuyện đó. Là cái bóng đã nói chuyện với mình. Giờ thì hắn đi giày cho mình. Hắn buộc dây giày cho mình. … Ở đây có mùi ẩm mốc. Mình đã mặc đồ, nhưng vẫn còn lạnh và không tài nào cử động được. Mình bị say, giống như hồi năm sáu tuổi, khi mình lén uống rượu lí chua của bà. Giờ này hai đứa em mình chắc đã trang trí xong cây thông. Nó rất đẹp, mìnhchắc chắn như thế. ... - Giờ là câu trả lời khó khăn nhất. Em có tình cờ thắc mắc vì sao tôi lại làm tất cả chuyện này không? Không, không… tôi không muốn biết đâu. - Bởi vì tôi yêu gia đình tôi. Tôi muốn họ có tất cả những gì họ xứng đáng có được. ... Tôi cũng có gia đình của mình. Và tôi cũng yêu họ. Tại sao ông không hiểu điều đó? - Thế đấy, chỉ có vậy thôi. Tôi rất tiếc vì đã lôi em vào chuyện này, nhưng cũng giống như trong tiểu thuyết, kẻ ác mới tạo ra câu chuyện, độc giả không quan tâm tới những câu chuyện mà trong đó tất cả các nhân vật đều tử tế. Nhưng vai trò của em không phải là thứ yếu. Ai mà biết được, có khi một ngày nào đó, người ta sẽ tìm ra người sương mù thật, và công lí sẽ được trao trả cho sáu cô gái mà mọi người đã quên mất. Đó là nhờ em đấy, Anna Lou… Tại sao ông lại kể cho tôi nghe câu chuyện này? Tôi không quan tâm, cũng chẳng thích nghe nó. Tôi muốn mẹ, tôi muốn bố, tôi muốn hai đứa em. Tôi muốn gặp lại họ một lần nữa, xin ông đấy. Chỉ một lần thôi. Tôi phải từ biệt họ. Họ sẽ nhớ tôi lắm.   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Trong Sương Mù của tác giả Donato Carrisi.