Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Máu Hiếm - Phan Hồn Nhiên

Truyện Máu hiếm của nhà văn Phan Hồn Nhiên được ra mắt độc giả hè 2012 dưới dạng ấn phẩm in kèm của một tờ báo của tuổi học trò. Đến nay, cuốn truyện khoa học viễn tưởng vẫn tiếp tục chứng tỏ sức hút với bạn đọc. Vì thế, Nhà xuất bản Kim Đồng quyết định in truyện thành sách thực thụ, dành cho đối tượng bạn đọc mở rộng chứ không chỉ tập trung cho teen như trước đây. "Phan Hồn Nhiên là nhà văn có lượng độc giả hâm mộ. Các tác phẩm của cô thường được chọn in lại liên tục", một biên tập viên của nhà xuất bản cho biết. Trong khi thể loại sci-fi còn khá mới mẻ và lạ lẫm với độc giả, khán giả trong nước, Phan Hồn Nhiên đã chuẩn bị nguồn tư liệu và vốn kiến thức phong phú để chinh phục thể loại này. Chị mất một năm để hoàn thành truyện dài Máu hiếm. "Tôi vừa viết, vừa chiêm nghiệm vừa sửa tới sửa lui từng ý một", nữ tác giả cho biết. Cuốn sách kể về hành trình phiêu lưu của Vinh - một chàng trai trẻ phải dấn thân khám phá những bí mật khiến cho bố mẹ anh mất tích đột ngột. Bố Vinh là thành viên của một hội kín được lập nên từ ba nhà khoa học vốn là bạn bè từ thời sinh viên. Họ đang cùng tiến hành một công trình nghiên cứu với mong muốn có thể thay đổi căn bản phương pháp điều trị một số bệnh hiểm nghèo. Tuy vậy, trong nhóm lại nảy sinh những mâu thuẫn. Có thành viên mong những phát kiến khoa học được đem ra giúp ích cho xã hội. Nhưng cũng có người muốn thành tựu khoa học này phục vụ cho mục đích làm giàu của bản thân. Vinh vượt qua nỗi khiếp sợ, sự cô độc và những tấn công vô hình từ nhiều phía để khám phá các âm mưu đằng sau câu chuyện khoa học. Để dẫn dắt độc giả, Phan Hồn Nhiên dùng lối viết miêu tả kết hợp với tiết tấu nhanh. Từ trang viết, tác giả đặt ra các vấn đề: Ý nghĩa sự tồn tại của con người nằm ở đâu? Đâu là mục tiêu mà khoa học và nghệ thuật hướng đến? Trong cuộc giằng co giữa giá trị tình cảm và danh vọng, của sức mạnh của tình yêu thương, bên nào sẽ chiến thắng? Phan Hồn Nhiên cho biết, chị vẫn còn tiếp tục sáng tác với sci-fi chứ không chỉ dừng lại ở một cuốn. 9h30 sáng 5/7, nữ tác giả và cây bút Phạm Bá Diệp cũng có buổi giao lưu văn học với độc giả về chủ đề "Fantasy trong văn chương Việt". *** Quãng đường quay trở về đột nhiên bị thu ngắn. Họ duy trì nhịp bước đều đặn, xuyên qua cánh rừng, xuyên qua khu mê cung. Họ bước song song. Nhưng cô gái vẫn giữ vai trò người dẫn đường. Đỉnh tòa nhà lớn lờ mờ hiện ra giữa các khối mây nặng trĩu hơi ẩm. Mặt trăng biến mất. Bóng tối đã biến thành đôi cánh khổng lồ sải rộng, bay đến từ đằng sau. Lúc này, Vinh nhận ra họ không hẳn quay về theo lối đi cũ. Ở đoạn cuối, thay vì men theo vệt đường mòn lác đác bụi cây của khu vườn, họ lọt vào một khu dân cư vắng lặng. Các ngôi nhà như những chiếc hộp nhiều kích cỡ xếp san sát, chồng khít lên nhau, tạo thành từng khối lập thể thẳng hàng. Đường phố không quá chật hẹp, nhưng bề mặt phẳng mịn của những bức tường cao vút tạo cảm giác mọi thứ bên trong chúng đều bị thu nhỏ, có thể bị nghiền nát bất kỳ lúc nào. Thảng hoặc, như một ống dẫn hun hút, lối đi giữa các khối nhà hình học đột ngột mở ra. Những đợt gió nhuộm đẫm mùi chlorine thốc tới theo các đường ống dẫn, khiến hai cái bóng đang bước lầm lũi đổ gập về phía trước. Mở căng mắt, chàng trai trẻ thử tìm một cánh cửa nào còn hé mở, một ngọn đèn còn chưa tắt trong một ô kính, hoặc một tiếng người khẽ vang lên từ một căn phòng… Nhưng không gì cả. Một sự im lìm trống rỗng, chỉ có thể tìm thấy ở quãng nghỉ giữa hai chương nhạc, nhưng trong quãng nghỉ ấy, theo một sắp đặt bí hiểm, các nhạc công cũng đã biến mất. Bất động tuyệt đối. Lạnh. Thứ hơi lạnh không phải của thời tiết, mà tỏa ra từ các mặt tiền nhà câm lặng. Loãng hơn bình thường, không khí vào phổi mang theo mùi thuốc tẩy trùng. Có gì đó ở nơi đây còn đáng sợ hơn cái mê cung bằng cây lá họ đã đi qua hay ngọn đồi hoang nơi họ tìm thấy cái hòm chôn vùi. Ngay cả khi mọi chi tiết kiến trúc được duy trì ở tình trạng ngăn nắp chỉnh chu, không gian sạch tinh không chút rác rưởi, thì khung cảnh và bầu không khí vẫn hệt như trong một bệnh viện hoang phế, hay trong một thành phố chết. Chỉ khi đế giày Vinh lướt trên tấm lưới sắt đặt cách quãng đều nhau trên mặt vỉa hè, đôi chân bất ngờ cảm nhận một luồng hơi nóng mỏng nhẹ phả lên từ các miệng hố sâu hút, bằng chứng không thể phủ nhận của hoạt động máy móc đang hiện diện đâu đây, cậu mới tạm tin rằng nơi này vẫn có dấu vết con người và hoạt động của sự sống. Đã hơn bốn giờ. Vệt sáng mỏng đầu tiên của ngày hửng lên từ phía Đông đường chân trời. Đường viền của các khối nhà cũng như chất liệu của chúng đã nhìn thấy rõ hơn. Một số bức tường được xây từ thứ gạch nén sâu đậm, để trần không trát vữa, để lộ vết tích thời gian khi bị các đợt gió nhuốm mùi hóa chất và thứ hơi ẩm khắc nghiệt bào mòn. Nhưng đáng chú ý hơn, phần lớn các bức tường đều phủ kim loại. Những tấm kim loại khổng lồ liền lạc, không đường nối, bọc lấy các ngôi nhà hình hộp. Một số tấm còn mới tinh, phản chiếu các khối kiến trúc đối diện. Có một lúc, rẽ ngoặt theo người dẫn đường, Vinh ngỡ nhìn thấy ai đó đang bước về phía mình. Tuy nhiên, chỉ là hình bóng bị khúc xạ của chính cậu và cô gái mặc bộ váy dạ hội lem luốc in trên tấm gương théo sáng loáng mà thôi. Nếu người nhạc công trẻ chưa thoát khỏi trạng thái bối rối lo sợ thì ngược lại, Lữ Hòa tỏ ra hết sức quen thuộc với dãy phố lẫn lối đi tắt. Cô ta vượt lên trước Vinh vài bước chân. Làn hơi nước trắng đục phả về sau, tỏa ra từ hơi thở gấp gáp của cô. Đôi chân rã rời cùng sức lực gần như bị vắt kiệt sau một ngày xảy ra dồn dập quá nhiều sự kiện, Vinh gằn bước lên, đuổi kịp cô gái: - Chúng ta đang đi đâu vậy? Người đồng hành không trả lời. Cô ta vẫn sải bước, tốc độ gần như chạy. Giờ thì không ngại ngần nữa, Vinh vươn tay, tóm lấy khuỷu tay khô khốc của cô ta, giật nhẹ: - Ban nãy, khi thỏa thuận đi cùng nhau, cô không nói chúng ta sẽ tới đây! Vì vậy, nếu cô không cho biết nơi đây là đâu, chúng ta tới đây nhằm mục đích gì, thì tôi sẽ không đi theo cô nữa! - Nhìn kìa! – Không trả lời vào các câu hỏi, cô gái đột ngột hất cằm. Hướng nhìn của Vinh chuyển theo chỉ dẫn của người đồng hành. Vượt lên trên các khối hộp bê tông chồng chất, có một chiếc cần cẩu cao lênh khênh. In lên nền trời tím tái, khối kim loại han gỉ phả vào không gian chung quanh hơi thở lạnh lẽo của sự lãng quên. Vài gióng xương bằng sắt của cái cần cẩu tuột ốc, rôi xuống lỏng lẻo hoặc chĩa ra ngoài, đâm vào khoảng không. Thấp hơn một chút, sà xuống, gần như chạm vào mái nhà bên dưới, là hai sợi thừng lớn. Giữa hai sợi dây ấy, một túm vải rách bươm, bay phần phật cuồng loạn. Đột ngột, như cảm nhận được ai đó đang nhìn mình, các dải vải tả tơi bỗng im thõng. Rồi không hề có dấu hiệu báo trước, chúng lại tiếp tục đu đưa phất phơ. Trong khung cảnh chỉ có vài khối nhà, không hề hiện diện bóng cây và mọi thứ đều bất động, sự chuyển động lẫn dừng khựng kỳ dị ấy gây nên một ấn tượng ma quái. Không chỉ thân thể Vinh đông cứng, mà các ý nghĩ trong đầu cậu cũng tê dại, mất sạch mọi phán đoán. Phải khá lâu, câu hỏi đơn giản mới có thể thốt ra: - Cái gì vậy? - Phần còn lại của một người nào đó! – Lữ Hòa nhún vai. Cô ngoảnh hẳn về người nhạc công, nói thản nhiên, như thể cô quá quen thuộc với các giải thích kiểu này – Bất kỳ một kẻ lạ nào đến đây mà không được cho phép, đều có kết cục như thế. - Tại sao? – Vinh choáng váng. - Anh không đoán ra ư? Đây là khu vực cấm. Anh thấy rồi đấy, không một sinh vật nào, dù là côn trùng, có thể tồn tại trong bầu không khí này. - Cô thì sao? - Tôi đến bất cứ nơi nào tôi muốn, dù được phép hay không. - Còn tôi bị bắt, bị trừng phạt tàn khốc, vì nơi đây, tôi không được phép có mặt? - Phải. - Cô được quyền đi lại trong khu vực này dễ dàng, thế nên cô đặt tôi vào tình thế của một kẻ lệ thuộc. Và nếu không muốn chết, nhất cử nhất động của tôi sẽ phải tuân theo điều khiển của cô, như một tên ngốc! – Vinh cao giọng, với cơn giận chực bùng nổ. - Nhầm rồi, Vinh! – Lữ Hòa thì thầm, đôi lông mày sắc nét cau lại. Bằng cách ấy, cô ta ngầm nhắc nhở người đối thoại rằng, gây ồn ào lúc này là điều vô cùng ngu xuẩn. Rồi vẫn giữ cung giọng rất thấp, cô ta chậm rãi nhấn mạnh từng từ - Cũng như anh, tôi sẽ nhận trừng phạt hệt những kẻ tọc mạch khác, bị treo lên kia cho đến chết, bị bỏ mặc mục ruỗng, nếu tôi bị bắt gặp trong khu vực cấm này. Người nhạc công trẻ chết lặng. Ánh nhìn của cô gái đối diện đặt vào một điểm nào đó phía sau lưng cậu. Đôi mắt thẫm lại của cô ta chất chứa nỗi giận dữ, giễu cợt, nhưng hơn hết, là sự đau đớn không thể che giấu. Một số niềm tin vốn tạo nên thành trì của lòng can đảm bắt đầu rạn vỡ trong Vinh. Những kinh nghiệm từ tuổi nhỏ cô độc luôn buộc cậu xác định vị thế bất kỳ người nào mà mình tiếp xúc: Là một ai đó không cần để tâm. Là một ai đó buộc phải duy trì mối liên hệ cần thiết. Hoặc kẻ thù. Chỉ có ba lựa chọn. Xúc cảm yếu mềm là món xa xỉ, có thể dành cho bất cứ ai, trừ cậu. Nhưng, ở đây - một nơi không ngờ đến, lúc này – thời khắc không ngờ đến, cô gái ở bên cạnh đột nhiên đưa cậu đến một phát hiện kỳ lạ về chính mình. Cô ta vừa là tất cả, nhưng cũng không là ai trong ba mẩu hình có sẵn. Vinh đã nhận ra, bằng sức mạnh thản nhiên phơi bày, bằng sự yếu ớt cố gắng che đậy, thật tự nhiên, cô ta buộc cậu phải dành cho mình một vị trí khác, một xúc cảm chưa từng biết đến trước kia. Đó là thứ rung động xa lạ, làm khối cơ trong lồng ngực cậu thắt lại, vừa hãi sợ muốn lãng tránh, vừa muốn tiến đến thật gần, giữ lấy cô ta, che chắn cho cô ta khỏi những nguy hiểm vô hình đang lảng vảng đâu đây. Lữ Hòa tiếp tục bước đi. Tay cô khoanh lại trước ngực, chống cự khí lạnh càng lúc càng tê buốt. Đôi vai mảnh khảnh luôn vươn thẳng kiêu hãnh hơi rủ xuống, tựa một lời thừa nhận câm nín về sự cảnh giác mệt mỏi và bất an đeo bám. Vinh lẳng lặng đi theo cái bóng co ro phía trước. Cả hai không trao đổi. Trong lặng thinh, họ bỗng thấy rõ rật tình trạng yếu ớt, cô độc và quá khó khăn để chia sẻ của mình. Vinh nghĩ cậu có thể bước nhanh hơn, chạm nhẹ vào người đồng hành, nói gì đấy với cô. Điều gì cũng được, chẳng hạn xin lỗi về sự ngờ vực thô bạo ban nãy buông ra. Nhưng, lời nói cứ bám lại trong cổ họng, như những chiếc lá khô mục, rời rạc, cho đến một lúc thì hoàn toàn chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cái cần cẩu lùi dần về sau. Vinh không dám ngoảnh nhìn nó thêm. Dù chẳng hề là người yếu bóng vía, cậu vẫn không khỏi sởn gai ốc với ý nghĩ, rằng sau lưng cậu, bị treo lơ lửng trên cao, là một ai đó đã từng hít thở, đi đứng nói cười, yêu thương và giận dữ, liều lĩnh và can trường. Một ai đó đi ra từ một ngôi nhà nào đó, nơi anh ta hay cô ta đã từng gắn bó, có một chỗ quan trọng trong lòng người thân bạn bè. Nhưng giờ đây, những điều ấy chỉ còn là chút âm vọng đang tắt lịm. Tất cả đều tan biến, ngoại trừ chút tàn tích sót lại đung đưa trong làn gió lúc hừng đông. Ở lối rẽ hẹp, Lữ Hòa bỗng dừng lại trước ngôi nhà giống như một khối rubic, được bọc bởi từng mảng lớn những ô gạch nhiều màu. Một vài chỗ bong tróc, để lộ bên trong cũng là thứ gạch cùng loại, sẫm màu hơn vì lâu năm hơn. Thật kỳ quặc khi người ta không dùng vữa hay bột trát chuyên dụng, mà bảo trì ngôi nhà bằng cách phủ thêm các lớp gạch khác. Có lẽ đó là lý do khiến các khối nhà nơi đây khá nặng nề, còn các ô kính cũ thì như những con mắt lõm sâu, được bảo vệ bởi các tấm lưới sắt. Loay hoay một lúc với cánh cửa đóng chặt, như một tay trộm, bằng đầu mũi nhọn của chiếc mỏ neo mắc trên sợi dây kim loại mảnh thắt ngang eo chiếc váy dạ hội, Lữ Hòa đã mở được ổ khóa bấm. Trước khi lỉnh hẳn vào bên trong tối om, cô dặn khẽ: “Chờ tôi nơi đây, khoảng 10 phút. Đừng đi đâu hết nếu không muốn gây nguy hiểm. Tôi sẽ quay ra ngay khi lấy được thứ cần thiết!”. Vinh gật, chấp nhận dễ dàng. Đuôi váy lấp lánh ánh bạc lấm bụi đất của cô ta vừa bị bóng tối bên trong nuốt gọn, cánh cửa tức khắc khép lại, với tiếng “tách” nhẹ của ổ khóa đã được bấm chốt. Trong ánh sáng hửng lên, khung cảnh xung quanh hiện ra càng rõ nét hơn. Vỉa hè khá hẹp, lót gạch sỏi, cao hơn hẳn so với mặt đường trải nhựa. Khu vực này không quá lớn như lúc đầu Vinh tưởng. Có lẽ chỉ chừng hơn chục con đường. Nhưng các con đường ấy cắt nhau như một bàn cờ. Để xóa nhòa khả năng định hướng, Lữ Hòa đã cố ý đưa cậu đi ngoằn ngoèo qua tất cả các đường cắt trên bàn cờ ấy. Đầu gối Vinh thoáng run lập cập. Không hẳn vì lạnh. Cậu nhận ra mình đang rất đói. Suốt từ chín giờ tối hôm qua, lúc dạ tiệc khai màn, cậu đã không ăn thêm chút gì. Giá có mẩu bánh mì hay cốc sữa thì thật tốt lúc này. Không hy vọng tìm thấy thức ăn quanh đây, ngoại trừ liều mạng đột nhập vào bên trong một ngôi nhà bất kỳ. Như một cái bóng, Vinh lặng lẽ men theo bức tường gạch, rẽ trái. Ở một ô cửa sổ, lớp lưới bảo vệ đã bị bung ra khỏi bản lề. Bên trong, lớp kính ố nâu từng đốm loang lổ. Vinh nghiêng người về phía trước, chống cả hai khuỷu tay lên bệ cửa để giữ thăng bằng và đu hẳn người lên khỏi vỉa hè. Mũi giày cậu gá vào một viên gạch vỡ. Với tất cả sức lực còn lại, cậu kéo mạnh tấm lưới, giằng hẳn ra khỏi khung cửa. Một tiếng xoảng nhẹ khi tấm lưới mục rơi xuống vỉa hè. Vinh gồng người, căng thẳng chờ đợi phản ứng đáp trả. Nhưng không gì cả. Cậu rướn lên cao hơn. Hơi thở mạnh làm mờ lớp kính trước khi phả ngược trở lại vào mặt cậu. Khi đưa tay chùi lớp kính ẩm lạnh, Vinh thoáng giật thót. Nhưng chỉ là phản chiếu gương mặt của chính cậu, với đôi mắt to tướng, với hốc má tối thẫm, với vệt lông mày dày rậm nổi rõ trên vầng tráng cao trắng bệch. “Bình tĩnh và tập trung nào!” – cậu lẩm bẩm tự nhủ. Ánh sáng mờ nhạt đầu ngày chỉ cho phép nhìn thấy một phần không gian bên trong. Các căn phòng liên thông với nhau bởi những ô cửa không cánh. Ở phòng này, kê dọc theo tường là vài chiếc gương đơn bằng sắt sơn trắng, loại giường có thể điều chỉnh lên xuống bằng tay xoay cổ điển đã có mặt cách đây vài chục năm. Chắc chắn đã lâu không ai sử dụng mấy cái giường này bới chúng không có nệm, chỉ có những lò xo kim loại chăng ngang dọc. Phòng kế bên, góc nhìn khuất hơn chỉ cho thấy một dãy bàn làm việc, cũng sơn trắng xếp cạnh nhau. Phía trên, những kệ đựng hồ sơ được khóa chặt. Đột nhiên, Vinh nghĩ, trí tưởng tượng của mình đã không đi quá xa khi so sánh khu vực này với một bệnh viện bị bỏ hoang. Căn phòng mà cậu đang nhìn trộm vào chỉ có thể là nơi làm việc của bác sĩ, y tá và bệnh nhân, không thể khác được. Lần tay theo kẽ hở giữa khung kính và gờ tường, Vinh tìm cách đẩy cánh cửa này lên. Tuy nhiên, khung gỗ bao quanh tấm kính được gắn rất chặt vào tường gạch. Cách duy nhất để lọt vào bên trong là đập vỡ lớp kính. Đúng lúc người nhạc công trẻ xoay khuỷu tay trong chiếc jacket, chuẩn bị thúc mạnh, ở mặt sàn thông giữa hai gian phòng, thình lình trườn đến một bóng đen bé nhỏ. Giữ cánh tay đưa lên trong tư thế kỳ quặc, dán mặt vào vuông kính ố màu, Vinh mở căng mắt. Bóng người đang duy chuyển trên sàn đá cẩm thạch lam ngắt khựng lại, ngước lên, nhìn thẳng vào mắt kẻ bám vào ô kính ... Mời các bạn đón đọc Máu Hiếm của tác giả Phan Hồn Nhiên

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.
Người Đẹp Trong Khách Sạn - Hoàng Minh Tường
Người đẹp trong khách sạn là tiểu thuyết được xuất bản năm 1990  Có một lần, sau ba tháng làm việc ở Băng Cốc, nơi đặt trụ sở văn phòng UNESCO khu vực, Pôn Vericơn trở về căn phòng của mình ở khách sạn Hoa Sen. Người ta đã chuẩn bị cho anh một bữa ăn hết sức thịnh soạn với những món ăn mà anh ưa thích. Ngồi xuống bàn ăn mà mắt Pôn cứ nhìn đi đâu đó, tựa hồ như anh vừa bị mất một cái gì, thiếu vắng một cái gì. Và anh cứ ngồi hút hết điếu xì gà này tiếp điếu khác, chai rượu vang còn nguyên trước mặt, những món ăn nguội ngắt. *** Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần Hoàng Minh Tường từng trải qua các nghề dạy học, viết báo và viết văn. Hoàng Minh Tường là một trong những nhà văn hiện đại của Việt Nam, tác giả cuốn Thời của thánh thần vừa phát hành đã bị thu hồi. Tiểu thuyết Đồng chiêm, Nhà xuất bản Thanh niên (1979) Đầu sông, (1981) Những ngả đường, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1986) Gặp lại dòng sông, Nhà xuất bản Lao động (1986) Những người ở khác cung đường, Nhà xuất bản Giao thông vận tải (1988) Con hoang (1989) Người đẹp trong khách sạn (1990) Giá như được yêu một người (1994) Thủy hỏa đạo tặc, Nhà xuất bản Văn học (1996) Đen và béo, Nhà xuất bản Kim Đồng (1997) Đồng sau bão, Nhà xuất bản Văn học (2000) Ngư phủ, Nhà xuất bản Công an nhân dân (2005) Thời của thánh thần. Nhà xuất bản Hội nhà văn (2008) Gia phả của đất. Nhà xuất bản Phụ Nữ (2013) Nguyên khí. Nhà xuất bản Dân Khí,NgườiViêtshop,(2014) Le temps des Genies Invincibles - Nhà xuất bản La Fremillerie - Paris,(2014) Thi sĩ sang sông - Bản dịch tiếng Hàn Quốc - Nhà xuất bản B books - Seul,(2015) Thời của Thánh Thân Bản dịch tiếng Nhật - Nhà xuất bản Đại học Ngoại ngữ Tokyo - Tokyo,(3/2016) Những mảnh Rồng Nhà xuất bản Vipen,Berlin,Đức (2018) Truyện ngắn Cưới lại, Nhà xuất bản Hà Nội (1992) Gã viết thuê, Nhà xuất bản Hội nhà văn (1999) Những mảnh đời khác nhau, Hoàng Minh Tường, Phạm Ngọc Chiểu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới (1986) Những chuyện tình xưa cũ,Nhà xuất bản Hoi nha van, (2000) Nàng Êva mù, Nhà xuất bản Lao động (2005) Cá hóa Rồng, (2006) Khoảng xanh non, (2007) Ngôi nhà ma,(2013) Bút ký, phóng sự Đa thê: Nhà xuất bản Lao động (1995) Nghìn lẻ một nàng dâu (2002) Thôn quê liệt truyện (2006) Chuyện một người thầy (2007) Bình minh đến sớm, Nhà xuất bản Kim Đồng (1986, 1990), Nhà xuất bản Trẻ (2000) Bạn văn ngoài vùng phủ sóng, Nhà xuất bản Hội nhà văn (2011) Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Trong Khách Sạn của tác giả Hoàng Minh Tường.