Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bãi Hoang

JEAN-RENÉ HUGUENIN VÀ BÃI HOANG Một con ong chết. Nắng xế qua triền cửa sổ. Mùa hè đổi hướng. Cummings chết: tôi không buồn. Hemingway, Blaise Cendrars, Hermann Hesse, Faulkner chết: tôi không buồn. Một con ong chết: tôi buồn lắm. Jean-René Huguenin chết: tôi buồn lắm. Anh mới hai mươi sáu tuổi và chỉ mới xuất bản một tác phẩm: La Côte Sauvage (Bãi hoang) là quyển tiểu thuyết duy nhất của anh. Anh viết tiểu thuyết quá buồn. Nắng chiều. Đêm. Đêm tối. - Tôi không biết. Anh đã tìm thấy gì? - Một con ong chết. Je ne sais pas. Qu’est - ce que vous avez trouvé? Une abeille morte. Jean-Rene Huguenin đã viết hai câu trên trong quyển La Côte Sauvage (tr. 57). Pierre, nhân vật trong quyển ấy, là một chàng trai trẻ rất buồn, một người cô độc, một kẻ ích kỷ không tự thương mình: L’egoiste qui ne s’aime pas (tr. 70). Pierre yêu người em gái của một người bạn thân chàng… Một hôm, Pierre bỗng tìm thấy một con ong chết trên triền cửa sổ. Et ce fut l’autre versant de l’été, le jour où Pierre découvrit, sur le rebord de sa fenêtre, une abeille morte (tr. 65). Lòng người luân lưu thay đổi như những cây dương xỉ vàng sẫm, như hoa bát tiên chóng tàn, như những ngày xế bóng thoi đưa, như những con ong khô chết. Alors l’évidence éclatait: les fougères brunissaient, les hortensias se fanaient, les jours déclinaient plus vite, les abeilles mouraient - c’était l’autre versantde l’été (tr. 65). Ừ, hỏi làm gì? Đời là ngộ nhận triền miên. Người làm gì biết được. Mỗi người là một vạn lý trường thành, chắn lại hết giao thông. Người làm gì hiểu được ta. Ngộ nhận chân lý: chắc người không hiểu tôi đã tìm thấy gì trên triền cửa sổ vào buổi sáng nay? Vous ne savez pas ce que j’ai trouvé ce matin sur le rebord de ma fenêtre?(tr. 66). * * * Năm 1962, báo Pháp đăng tin rằng Jean-René Huguenin đụng xe chết. Như James Dean, Albert Camus. Tôi giở lại quyển La Côte Sauvage và tình cờ gặp lại một đoạn văn như sau: - Người ta không chết vì buồn chán. - Không, không phải vì buồn chán. Mà không vì một căn cớ nào. Tôi sẽ chết như vậy, không một căn cớ nào. On ne meurt pas d’ennui. Non, pas d’ennui. De rien… Je mourais comme çà, de rien. (tr. 86). Jean-René Huguenin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1936 tại Paris, bắt đầu viết văn hồi còn rất nhỏ, viết báo vào năm 18 tuổi, xuất bản quyển La Côte Sauvage vào năm 24 tuổi và chết ở tuổi 26. * * * Nhân vật chính của La Côte Sauvage là Olivier. Chàng đi quân dịch vài năm rồi được giải ngũ trở về sống lại với gia đình. Gia đình chàng chỉ gồm có mẹ, chị và em gái. Quê hương chàng buồn lắm. Biển. Gió. Đá cuội. Sương mù. Olivier rất yêu em gái, nhưng không thích chị. Sau hai năm nhập ngũ, lúc trở về lại đời sống bình thường, Olivier thay đổi. Chàng cảm thấy cô đơn dị thường. Đứa em gái chàng tên là Anne, chàng thương Anne ngay từ thuở bé thơ. Bây giờ chàng được tin em sắp lấy chồng; chồng Anne là bạn thân của chàng, tên Pierre. Pierre và Anne đầm ấm xoắn xuýt nhau. Olivier cô đơn. Olivier định ngăn cản đám cưới. Những thoáng nhìn, những câu hỏi xa xôi, những cử chỉ thông thường của Olivier đã khiến Pierre buồn nhiều. Pierre chán nản. Một dạo, Olivier cũng khiến Anne chán Pierre. Olivier vẫn muốn Anne sống mãi bên cạnh chàng. Tại sao thế? Thực khó trả lời. Sau cùng, Pierre và Anne vẫn lấy nhau. Họ dẫn nhau đi Paris và Tây Ban Nha. Chỉ còn Olivier ở lại sống cô đơn. Quyển La Côte Sauvage đưa tôi vào nỗi cô đơn mênh mông của Olivier, của Pierre. Lối văn của Huguenin rất ngắn và giản dị. Tôi đã đọc quyển La Côte Sauvage đến hai lần. Thế mà tôi không thể nào viết nhiều về quyển này vì La Côte Sauvage là một quyển sách để đọc, cảm và im lặng. Chúng ta đã tìm được sao mai rồi? PHẠM CÔNG THIỆN *** Bãi hoang là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Jean – Rene. Xoay quanh câu chuyện của Oliver, Pirre, và Anna, những tâm tình sâu kín của tuổi trẻ mênh mang được biểu hiện sâu sắc. Jean – Rene Huguenin viết Bãi hoang khi anh 24 tuổi. Hai năm sau, anh mất vì tai nạn giao thông. Anh lưu dấu lại cuộc đời ở tuổi 26, mãi mãi tuổi hoa niên. Ở Pháp. Mùa hè. Trên những bãi biển. Hoàng hôn. Bình minh. Những bữa tiệc trà. Những buổi đi dạo. Những nhân vật của Bãi hoang loanh quanh trong cái khoảng không gian mùa hè bao trùm ấy. Không khí mùa hè ấy từng khiến Meursault vô thức giết người (Người xa lạ, Albert Camus); Aschenbach chết trong trạng thái mê man đẹp đẽ (Chết ở Venice, Thomas Mann)... Trong mùa hè, Elio Perlman và Oliver đã sống rực rỡ bên nhau trong tình yêu (Gọi em bằng tên anh, đạo diễn Luca Guadagnino); François và Maïté đã trải qua những xúc cảm nổi loạn trước ngưỡng cửa trưởng thành (Những cành lau dại, đạo diễn André Téchiné)… Ở Bãi hoang của Jean - Rene, Oliver là người lính giải ngũ từ Paris trở về quê nhà sống với gia đình, có mẹ, em gái và chị gái. Oliver sống mùa hè trẻ tuổi cuối cùng bên cạnh người yêu dấu của riêng mình. Anne là người yêu dấu của Oliver. Tình cảm giữa họ không giống như những tình cảm anh trai em gái thông thường. Jean – Rene bằng ngòi bút văn chương tinh tế, dịu dàng của mình đã gợi ra nhiều khoảnh khắc tuyệt đẹp của Anne và Oliver. Họ sát gần nhau, thì thầm với nhau, họ an ủi nhau, trách hờn nhau, nhưng ở đó, dưới ánh hoàng hôn của bãi biển, khi mặt trời dần xuống, họ lặng lẽ đi bên cạnh nhau, như đan cài trong nhau. Khi hay tin Anne sắp kết hôn với Pierre, người bạn thân nhất của chàng, Oliver hoang mang, chàng đóng mình trong tình cảm của chính bản thân. Hai người thương mến ấy bỏ chàng lại quê nhà buồn bã, bên bờ biển vắng lặng, để đi Paris, đi Tây Ban Nha. Họ kết hôn. Chỉ còn lại Oliver, buồn bã, cô đơn, và đợi chờ. Cho đến những trang cuối cùng của cuốn sách, biển vẫn mênh mang ngoài kia, cùng Oliver mỏi mệt. Cốt truyện giản đơn, nhưng đượm không khí hư ảo của mùa hè, với những gặp gỡ và tan rã, Jean - Rene đã tạo nên tiểu thuyết đẹp đẽ vô cùng. Khung cảnh ba người trẻ tuổi ở bên cạnh nhau, trên bãi biển, cảm giác “luôn tránh làm tổn thương nhau, làm mất đi sự đồng tình tế nhị”, cũng đã diễn tả được một vòng tròn ba người vừa gắn bó, vừa thân tình, vừa sợ sệt. Khung cảnh mờ nhòe bởi lớp mù sương của thời gian, của kỷ niệm càng dễ tạo được sự cảm động đối với độc giả. Theo dõi bóng dáng Anne, Pierre và Oliver bên nhau, tưởng như họ vừa có mặt ở đây (hiện tại), vừa có mặt ở đó (quá khứ). Thế giới của họ, thật mơ hồ như những ảnh hình trong nắng chói mùa hè. Khi mùa hè gần tàn, chỉ còn Oliver ở lại quê nhà. Khi ấy, chàng nghĩ gì chăng? Chàng có còn buồn vì “một con ong mới chết”, hay chàng vẫn buồn vì “mùi hương” Anne đã rời bỏ chàng hẳn rồi. Dẫu mùa hè đã đi qua, người yêu đã xa lìa nhưng trong mộng tưởng của Oliver, Anne ngự trị ở đó, hệt như lời William Shakespeare đã viết trong bài thơ Sonnet số 18 của mình: “But thy eternal summer shall not fade” (Chỉ mùa hạ của nàng không chút hư phai). Anne trong tâm hồn Oliver, sẽ mãi lấp lánh ở đó, mặc mùa hè trôi đi. Bãi hoang của Jean - Rene không phải nhấn ý vào tình cảm loạn luân. Tình cảm giữa Oliver và em gái Anne, là thứ tình cảm thuần khiết, như sự gắn kết tự nhiên của đất trời. Jean –-- Rene chết trẻ quá. 26 tuổi, trẻ như mãi mãi tuổi 20. Anh chỉ có một tác phẩm để lại. Jean - Rene cũng giống như Alain Fournier, tử trận khi 27 tuổi, với cuốn tiểu thuyết duy nhất, Kẻ lãng du. Bãi hoang và Kẻ lãng du đều là những mộng mơ tuyệt đẹp của tuổi trẻ, với những tình cảm thênh thang về tình bạn, tình yêu, về mộng ước. Nhưng nếu Kẻ lãng du, Meaulnes chìm đắm trong cuộc phiêu lưu quyến rũ, với nhiều thi vị, thì Oliver của Bãi hoang tự ấp ủ mình trong nỗi cô đơn buồn bã. Một nỗi buồn thật thanh tân của Kẻ lãng du, hay một nỗi buồn ngập tràn cô độc của Bãi hoang, đều khiến tuổi trẻ trở thành dấu vết rực rỡ. Hai nhà văn trẻ tuổi tạo nên hai nhân vật trẻ tuổi, dẫu họ đã từ biệt cõi tạm này rồi, nhưng tuổi trẻ của họ, Oliver và Meaulnes, độc giả không thể nào quên. Bãi hoang được viết bằng ngôn ngữ văn chương giản dị, ngắn gọn, nhưng đẫm chất tình thơ. Chàng tác giả trẻ tuổi đã thực sự dụng công trong việc trau chuốt ngôn từ, dùng ngôn từ để bộc bạch, nâng niu những rung động của tâm tư Oliver, Anne hay Pierre. Bản tiếng Việt của Bãi hoang do dịch giả Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ. Một tác phẩm dịch xuất sắc. Bản dịch cô đọng, súc tích, với tiếng Việt tinh hoa được chắt lọc tinh tế, cẩn trọng. Huỳnh Phan Anh đã dịch nhiều tác phẩm kinh điển nổi tiếng như Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật), Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann), Tình yêu và tuổi trẻ (Valery Larbaud), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe), Lạc lối về (Heinrich Boll)… Ngoài dịch thuật, ông còn viết phê bình, nghiên cứu, làm báo, viết văn, và mảng nào cũng để lại dấu ấn quan trọng. Thủy Nguyệt   Mời các bạn đón đọc Bãi Hoang của tác giả Jean-René Huguenin & Huỳnh Phan Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nặng Gánh Cang Thường - Hồ Biểu Chánh
Thanh Tòng - Lệ Bích, con của Tả Tướng quốc Thân Nhơn Trung và Thái Úy Lê Niệm, là đôi trai tài gái sắc được cha mẹ hai bên hứa gả. Không may, sau đó, giữa Tả Tướng quốc và quan Thái Úy nảy sinh xung đột. Tả Tướng quốc cảm thấy bị sỉ nhục nên nói con trai đi trả thù cho cha. Thanh Tòng đến gặp cha vợ để phân phải trái, nhưng tính tình quan Thái Úy nóng nảy nên hai bên tranh cãi và giao đấu kịch liệt. Trong lúc giao đấu, không ngờ quan Thái Úy tử vong. Thanh Tòng bị khép vào tội giết hại trung thần. Tình duyên theo đó cũng lỡ làng. Kể từ đây, cuộc đời Thanh Tòng trải qua nhiều biến đổi thăng trầm...  *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Nặng Gánh Cang Thường của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Cay Đắng Mùi Đời - Hồ Biểu Chánh
Tiểu thuyết Cay Đắng Mùi Đời của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Cay Đắng Mùi Đời của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Chỉ Một Lần Yêu - Bà Tùng Long
Khi được tin Sơn bị thương ở mặt trận Tây Nam, Tuyết lo lắng đứng ngồi không yên:  - Không biết anh bị thương ra sao, có hề gì không, đang nằm điều trị ở đâu? Tuyết hồi hộp chờ Lan, em gái Sơn, đem tin về cho Tuyết biết nơi Sơn nằm điều trị là Tuyết sẽ xin phép cha mẹ đi thăm Sơn. Tuyết cho đó là bổn phận mà mình phải làm. Người ta không quen nhau, chưa có cảm tình với nhau, mà các em gái hậu phương còn đem quà ủy lạo các thương binh nằm ở Quân y viện, thì lẽ nào Tuyết lại làm ngơ khi nghe Sơn bị thương? Tuyết và Sơn là bạn học từ khi còn ngồi "ê, a" trên ghế trường làng. Tình bạn thời thơ ấu đã đưa họ đến tình yêu khi cả hai khôn lớn. Biết bao lần Tuyết và Sơn bàn đến chuyện tương lai, hy vọng được cha mẹ chấp thuận để tình yêu họ được kết thúc bằng một đám cưới. Nhưng rồi cũng như bao thanh niên khác trong khi nước nhà có chuyện binh đao, Sơn nhập ngũ đi làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc và Tuyết ở nhà đỡ đần cha mẹ, may vá thêu thùa chờ ngày Sơn hoàn thành nghĩa vụ trở về. Hai năm nay, cha mẹ Tuyết nhiều lần khuyên Tuyết nên lập gia đình có nhiều người đến dạm hỏi, nhưng Tuyết vẫn một lòng chờ đợi Sơn. Cha mẹ Tuyết cũng biết Tuyết đã yêu Sơn nên không muốn lấy quyền làm cha mẹ ép buộc Tuyết phải quên Sơn. Bà Hương, mẹ của Tuyết, không khỏi ái ngại cho con gái. Thêm một năm trôi qua là bà thêm sợ Tuyết phải ế ẩm hoặc dở dang. Bà thường nói:  - Đời con gái như cánh hoa sớm nở tối tàn, khi còn hương sắc thì o­ng bướm dập dìu, nhưng đến khi hoa phai phấn lạt thì biết tìm đâu ra người yêu thương mình? Tuyết không nghĩ vậy. Tuyết tin ở tình yêu của Sơn, một mối tình dệt những mười mấy năm, ngày tháng chỉ làm thêm bền chặt chứ không thể làm phai lạt. Tuyết thuộc hạng người yêu chỉ một lần, vì thế dù phải đợi Sơn đến bao giờ, Tuyết cũng đợi được. Những ngày được về phép, Sơn đến thăm Tuyết và nhắc Tuyết lời hẹn ngày nào. Sơn luôn giữ gìn cho Tuyết, lúc nào cũng yêu thương trong sự tôn trọng, quý mến. Sơn nói với Tuyết:  - Anh phải giữ cho em là vì đời lính không có gì chắc chắn. Nếu mai đây anh có bề gì thì em vẫn còn được tấm thân trong trắng để về với người chồng sau này. Như thế anh sẽ không ân hận... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Bà Tùng Long.
Đời Con Gái - Bà Tùng Long
Mười hai tuổi, Xuân Lan bắt đầu nhận thấy mình không được yêu thương như các anh chị em khác trong nhà. Mẹ Xuân Lan, bà Phương, dường như ghét bỏ nó. Chỉ có cha và chị Mai Lan, người chị đã đi tu, con riêng của bà Phương với chồng trước, là thương con bé. Những buồn tủi, nghi ngờ trong Xuân Lan lớn lên cùng với sự bất hòa, hục hặc trong gia đình, để rồi khi tất cả bùng nổ đã hé lộ bí mật đầy trái ngang, tội lỗi về sự ra đời của con bé. Đời con gái chỉ cần được yêu thương, nhưng yêu thương cũng chính là nguồn cơn bất hạnh… *** Xuân Lan bắt đầu hiểu chút ít về chuyện đời và nhận xét những sự việc xảy ra trong gia đình từ khi lên mười hai tuổi. Năm ấy nó thi đậu vào lớp đệ thất trường Gia Long, một trường nữ trung học lớn nhất ở miền Nam. Trong khi nó đậu thì Ngọc Hương, chị nó, lớn hơn nó một tuổi, lại rớt và phải ghi tên học ở một trường tư. Vì lẽ ấy mà sự thi đậu của nó không được gia đình đón tiếp một cách vui vẻ. Nó đậu không ai khen, không ai mừng, trái lại cha nó, mẹ nó, các chị nó đều thương Ngọc Hương vì không may bằng nó. Xuân Lan biết suy nghĩ từ lúc đó. Tại sao cũng là con mà nó lại không được yêu thương như các chị nó? Tại sao mỗi sáng chủ nhật, trong khi cha mẹ nó và các chị các anh, cả mấy em nữa, đều được lên chiếc xe sang trọng để đi Thủ Đức, hoặc về quê hay ra Vũng Tàu đổi gió, thì nó lại được mẹ dặn: – Con ở nhà trông nhà nhé. Chóng ngoan mẹ về sẽ thưởng. Khi mọi người đi rồi, chị bếp, người giúp việc trung thành của gia đình, đã nhìn nó với tối mắt đầy thương xót, rồi lắc đầu nói một mình: – Tội nghiệp con bé! ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Đời Con Gái của tác giả Bà Tùng Long.