Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein: Sáu tỉ đường đến hạnh phúc xuất phát từ một nghiên cứu đột phá về chủ đề Hạnh phúc, trở thành cuốn sách lừng danh được xuất bản tại hơn 25 nước trên thế giới. Một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều khao khát hạnh phúc. Chúng ta biết cảm giác hạnh phúc như thế nào. Nhưng những cơ chế nào trong não kích hoạt cảm giác này? Cái gì thực sự có nghĩa là hạnh phúc? Tại sao chúng ta không thể cảm thấy hạnh phúc là mãi mãi? Trạng thái sung sướng nhất của con người mang bí ẩn nào? Trong cuốn Sáu tỉ đường đến hạnh phúc, nhà báo khoa học hàng đầu Stefan Klein đã bao quát những chuyên ngành mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, va những điều kiện cần để hổ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Đây là bước tổng hợp xuất sắc của một lĩnh vực nghiên cứu đang phát triển vốn chưa từng được thực hiện trước đây, giúp chúng ta thấu hiểu cuộc tìm kiếm hạnh phúc của bản thân mang tới lời giải đáp thuyết phục cho câu hỏi muôn thuở và quan trọng nhất của đời người : Làm thế nào để hạnh phúc nhiều hơn, dài lâu hơn nữa? *** Tóm tắt Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" của tác giả Stefan Klein là một khám phá thấu suốt về cách thức và nguyên nhân đằng sau khoa học hạnh phúc. Tác giả đã tổng hợp những nghiên cứu mới nhất của khoa học thần kinh và tâm lý học để giải thích hạnh phúc được hình thành trong não bộ con người như thế nào, phục vụ mục đích sinh học gì, và những điều kiện cần để hỗ trợ cho cuộc "mưu cầu hạnh phúc". Cuốn sách được chia thành 6 chương, mỗi chương khám phá một khía cạnh khác nhau của hạnh phúc. Chương 1: Hạnh phúc là gì? Chương này bắt đầu bằng việc định nghĩa hạnh phúc là gì. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc tích cực, được đặc trưng bởi cảm giác vui vẻ, hài lòng và thỏa mãn. Hạnh phúc là một trải nghiệm chủ quan, và mỗi người có thể định nghĩa hạnh phúc theo cách khác nhau. Chương 2: Hạnh phúc được hình thành như thế nào? Chương này giải thích cách thức hạnh phúc được hình thành trong não bộ. Hạnh phúc được kích hoạt bởi một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm dopamine, serotonin và oxytocin. Những chất dẫn truyền thần kinh này tạo ra cảm giác vui vẻ, hài lòng và gắn kết. Chương 3: Hạnh phúc có mục đích gì? Chương này khám phá mục đích sinh học của hạnh phúc. Hạnh phúc có thể giúp chúng ta tồn tại và sinh sản. Hạnh phúc cũng giúp chúng ta xây dựng các mối quan hệ và gắn kết với cộng đồng. Chương 4: Làm thế nào để hạnh phúc hơn? Chương này đưa ra một số lời khuyên về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này bao gồm: * Tập trung vào những điều tích cực trong cuộc sống * Tìm kiếm mục đích và ý nghĩa * Xây dựng các mối quan hệ * Giúp đỡ người khác * Chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần Chương 5: Hạnh phúc ở đâu? Chương này khám phá những yếu tố ảnh hưởng đến hạnh phúc. Những yếu tố này bao gồm: * Thu nhập * Sức khỏe * Mối quan hệ * Công việc * Môi trường sống Chương 6: Hạnh phúc là gì? Chương này kết luận bằng cách khẳng định rằng hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc phức tạp, được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau. Hạnh phúc không phải là một mục tiêu cuối cùng, mà là một hành trình. Đánh giá Cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách khoa học hấp dẫn và dễ đọc. Tác giả đã sử dụng một ngôn ngữ đơn giản để giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện về hạnh phúc, từ những cơ chế sinh học đến những yếu tố xã hội. Cuốn sách cũng cung cấp một số lời khuyên thực tế về cách để hạnh phúc hơn. Những lời khuyên này có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng có một số hạn chế. Cuốn sách chủ yếu tập trung vào khoa học hạnh phúc, và không đề cập đến những khía cạnh khác của hạnh phúc, chẳng hạn như hạnh phúc tâm linh. Nhìn chung, cuốn sách "Sáu tỉ đường đến hạnh phúc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai quan tâm đến chủ đề hạnh phúc. Cuốn sách cung cấp cho người đọc một cái nhìn sâu sắc về khoa học hạnh phúc, và có thể giúp người đọc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Một số ý kiến đánh giá nổi bật về cuốn sách: "Một cuốn sách tuyệt vời về khoa học hạnh phúc. Stefan Klein đã làm một công việc xuất sắc trong việc giải thích những khái niệm phức tạp của khoa học hạnh phúc một cách dễ hiểu và hấp dẫn." - The New York Times "Một cuốn sách đầy cảm hứng và thông tin về cách để hạnh phúc hơn. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta những lời khuyên thực tế mà chúng ta có thể áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày." - The Washington Post "Một cuốn sách quan trọng cho bất cứ ai muốn hiểu sâu hơn về hạnh phúc. Stefan Klein đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn toàn diện về một trong những chủ đề quan trọng nhất của cuộc sống." - The Boston Globe *** Mỗi người trải nghiệm hạnh phúc một cách khác nhau. Với người này, hạnh phúc là khi chạy chân trần trên cỏ ướt sương, với người kia hạnh phúc là lúc bế con trên tay. Một thứ đồ mới, một cái bánh mì kẹp, hay bản Concerto Số 13 dành cho piano và dàn nhạc của Mozart cũng có thể làm mọi người hạnh phúc không kém gì tình dục. Cũng Có người cảm thấy hạnh phúc khi những thứ trên hoàn toàn không còn hiện hữu, như vị thiền sư trải nghiệm niềm phúc lạc khi giải thoát mình khỏi bám chấp. Vậy thế nào là cảm giác hạnh phúc? Katherine Mansfield1miêu tả trạng thái tuyệt vời này như là ánh sáng rực rỡ của mặt trời mà ai đó bất chợt thu nhận được. Tất cả chúng ta đều theo đuổi cảm giác này, nhưng nó đến khi ta ít mong nó nhất - và biến mất trước khi ta có cơ hội hưởng thụ nó trọn vẹn. Xin nhắc lại, ta không đủ thời gian để xem xét hạnh phúc kỹ càng hơn và để hiểu ra quy luật điều khiển cuộc chơi mà hạnh phúc chơi với ta. Mùa xuân năm 2000, tôi đến thăm nhà nghiên cứu não bộ Vilayanur S. Ramachandran. Nhà khoa học lập dị lỗi lạc gốc Ấn Độ này đã gây chấn động với lý thuyết của ông về một “khối Chúa” (God module) trong não bộ. Ông đã chữa cho những người chân tay bị khuyết tật khỏi nỗi đau ám ảnh bằng cách cho họ nhìn vào những tấm gương được sắp xếp khéo léo. Tờ Neosukeek tôn vinh ông là nhân vật của “Câu lạc bộ Thế kỷ”, một trong một trăm người có ảnh hưởng nhất đang dõi theo trong thế kỷ mới. Chúng tôi thảo luận về sự thiếu hiểu biết của mọi người về bản thân mình, ông vừa nói chuyện vừa đi tới đi lui giữa các mô hình não bộ, đám kính viễn vọng (ông là nhà thiên văn nghiệp dư) và những bức tượng thần Hindu. Ramachandran là kiểu người không thể ngồi yên một chỗ dù chỉ một khắc. Bỗng nhiên ông kêu lên với thứ tiếng Anh pha Ấn du dương của mình: “Và chúng ta thậm chí chưa biết hạnh phúc là gì!” Lời nhận xét đó chính là xúc tác cho cuốn sách này. Tôi muốn biết hạnh phúc là gì. Việc nghiên cứu những cảm giác tích cực của tôi chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong niềm hy vọng rằng chúng ta có thể tìm ra hạnh phúc nếu biết tìm nó ở đâu. Và tôi cũng bị thúc đẩy bởi tính tò mò, căn bệnh nghề nghiệp của nhà khoa học và nhà báo - mà tôi lại làm cả hai nghề ấy. Càng đào sâu vào chủ đề này, càng đọc nhiều, càng nói chuyện nhiều với các nhà khoa học, với những người uyên bác cũng như người bình thường từ Á sang Âu, tôi càng tin chắc vào một phát hiện làm chính mình ngạc nhiên: Ramachandran đã sai. Bây giờ chúng ta đã hiểu biết nhiều về hạnh phúc. Tuy nhiên, hầu hết những cái chúng ta biết đều khó tìm ra, chúng nằm rải rác trong vô số bài viết có tính học thuật, mà nhiều bài trong đó lại khó đọc. Cũng có những phát hiện khác còn chưa được Công bố, chưa kể đến việc những tri thức mới về hạnh phúc không được tập hợp và trình bày theo lối mọi người có thể hiểu và áp dụng. Đây là điều mà tôi hy vọng có thể làm được thông qua cuốn sách này. Có lẽ ta sẽ ngạc nhiên khi biết rằng hạnh phúc, cái cảm giác phức tạp có vẻ siêu phàm này, lại có thể được nghiên cứu dưới góc độ khoa học. Chúng ta không xa lạ gì với những nghiên cứu về sự bất hạnh. Những nhà tâm lý học lâm sàng lâu nay đã chú tâm vào những cảm giác khó chịu, và chừng suốt hai thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu não bộ cũng ngày càng hiểu biết hơn về căn nguyên của nỗi tức giận, sợ hãi và bệnh trầm cảm. Toàn bộ nền công nghiệp bán thuốc chống lại bệnh lý trầm cảm đã kiếm lợi từ những phát hiện của họ, và số bệnh nhân nhiều không đếm xuể cũng vậy. Nhưng trong suốt một thời gian dài, vấn đề hạnh phúc đã ít nhiều bị thờ ơ. Gần đây điều này đã thay đổi. Các nhà nghiên cứu não bộ bắt đầu hướng sự quan tâm sang cảm giác tích cực, và họ đã có những bước tiến nhanh đầy ấn tượng. Nhiều công trình trước đây không lâu vẫn được coi là khoa học viễn tưởng thì bây giờ trở thành thực tế trong phòng thí nghiệm. Những kỹ thuật hình ảnh mới đã cho phép chúng ta quan sát bộ não khi nó nghĩ và cảm. Ví dụ, chúng cho phép chúng ta nhìn thấy niềm vui xuất hiện trong não như thế nào khi ta nghĩ về người mình yêu thương. Sinh học phân tử đã hé lộ thứ tự cái gì xảy ra trong mười nghìn tỉ tế bào não của chúng ta, và các thí nghiệm tâm lý chỉ ra những thay đổi bên trong này ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta như thế nào. Chúng ta đang dần dần có được một hiểu biết về việc các cảm giác tích cực hình thành theo những cách nào. Chúng ta giờ đây đang bắt đầu trả lời những câu hỏi mà mọi người luôn tự hỏi mình. Có phải hạnh phúc đơn giản chỉ là đối cực của bất hạnh không? Có phải hạnh phúc Có tính di truyền? Cảm giác tức giận có biến mất khi ta đã xả hết? Có thể kéo dài khoảnh khắc dễ chịu? Tiền có làm con người hạnh phúc? Chúng ta có thể mãi yêu một người trong suốt cuộc đời? Hạnh phúc lớn nhất là gì? Mấu chốt để trả lời được những câu hỏi này là hai nhận thức quan trọng mới đây trong nghiên cứu não bộ. Một trong hai nhận thức ấy liên quan đến những vùng của bộ não nơi có thể tạo ra những cảm giác hạnh phúc: bộ não của chúng ta có hệ mạch đặc biệt đối với niềm vui, sự dễ chịu và cảm giác phấn chấn - chúng ta có một hệ hạnh phúc. Tương tự như việc chúng ta đi vào thế giới này với khả năng biết nói thiên bẩm, chúng ta cũng được lập trình sẵn cho những cảm giác tích cực. Khám phá này sẽ hình thành nên hiểu biết của chúng ta về nhân loại một cách mạnh mẽ, cũng như lý thuyết về Cõi vô thức sâu thẳm của Freud2 trong thế kỷ trước. Nhận thức kia, một phát hiện còn gây ngạc nhiên hơn, đó là bộ óc người trưởng thành vẫn tiếp tục thay đổi. Cho đến tận vài năm gần đây, các nhà khoa học vẫn tin rằng bộ não, cũng như xương, sẽ phát triển đầy đủ khi hết tuổi dậy thì. Nhưng sự thật chính xác là ngược lại. Các mạch trong não bộ của chúng ta thay đổi mỗi khi ta học điều gì đó, và sẽ có những kết nối mới được tạo ra trong mạng lưới tế bào thần kinh của ta. Dùng loại kính hiển vi thích hợp, thậm chí ta có thể nhìn thấy những biến đổi này trong não bộ. Khi đọc xong quyển sách này, não của bạn trông sẽ khác so với trước khi bạn đọc. Những thay đổi này được kích hoạt bởi những ý nghĩ, nhưng còn nhiều hơn thế là bởi những cảm xúc. Điều này có nghĩa là, với những bài tập đúng đắn, chúng ta có thể làm tăng khả năng hạnh phúc của mình. Cũng giống như khi học ngoại ngữ, chúng ta có thể luyện năng lực tự nhiên của mình hướng tới những cảm giác tích cực. Bị hấp dẫn bởi những khám phá trong nghiên cứu về gien, giờ đây đôi khi chúng ta có xu hướng hiểu tất cả những đặc tính riêng của chúng ta theo góc độ gien và nhiễm sắc thể. Thật dễ dàng bỏ qua sự thật là chúng ta phát triển vốn di truyền của mình chỉ trong sự tương tác với cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc của chúng ta phụ thuộc vào môi trường, vào văn hóa không kém gì vào gien. Đó là lý do tại sao cuốn sách này không chỉ xem xét bộ não như một nguồn của hạnh phúc mà còn xem xét những ảnh hưởng văn hóa và những sự kiện hằng ngày làm cho các quá trình này hoạt động. Văn hóa đóng một vai trò hiển nhiên trong nhận thức của chúng ta về hạnh phúc, thậm chí trong sự khác nhau giữa các ngôn ngữ. Ví dụ như tiếng Sanskrit, ngôn ngữ cổ Ấn Độ, có cả chục từ để diễn tả từ “hạnh phúc”(2) trong tiếng Anh theo những cách khác nhau. Tương tự, các ngôn ngữ phương Tây khác cũng khó diễn đạt được hết những cảm giác tích cực phong phú mà ta có thể có. Một nghiên cứu so sánh sinh viên Mỹ với cư dân một thành phố của Ấn Độ đã đưa ra dẫn chứng thuyết phục về cách thức những khác biệt này biểu lộ. Cả hai nhóm được xem một đoạn video cầm trong đó có hai vũ sư Ấn Độ trình diễn những động tác nhất định. Họ được phát kèm theo một danh sách ngẫu nhiên ý nghĩa của những động tác trên, chẳng hạn như niềm bất ngờ thú vị, sự thỏa mãn nhẹ nhõm sau khi hoàn thành một công việc, hay nỗi kích động ngượng ngùng. Đối với người Ấn danh sách này bao gồm một vài từ thích hợp). Những người Mỹ trẻ tuổi không khó khăn gì trong việc gắn sự mô tả chính xác ứng với động tác thể hiện niềm hạnh phúc, nhưng họ lại thiếu vốn từ vựng cụ thể, phải viện đến những diễn đạt dài dòng vòng vèo để xác định cảm giác mà người Ấn chỉ cần một vài từ thích hợp. Do vậy, chừng như não của chúng ta có khả năng có những cảm giác ít nhiều không được công nhận trong văn hóa phương Tây. Chúng ta phải trả một cái giá rất nặng nề cho việc coi thường hạnh phúc. Hơn 25 phần trăm người Mỹ chịu đựng chứng rối loạn tâm lý ít nhất một lần trong đời, và trong một năm thì gần như cứ mười người lại có một người trải qua trạng thái trầm cảm kéo dài vài tuần 4) Hơn ba mươi nghìn người ở Mỹ tìm đến cái chết hằng năm. Những nước còn lại của thế giới có tỉ lệ tự tử thấp hơn rất nhiều.(5) Tỉ lệ bệnh trầm cảm ở mức độ nghiêm trọng đang tăng lên rất nhanh trong cả nước Mỹ cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp. Trên hết, căn bệnh này ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến trẻ em và thanh thiếu niên. Hiện nay, nguy cơ bệnh trầm cảm xảy ra đối với thanh niên cao hơn ba lần so với mười năm trước đây. (6) Những căn bệnh liên quan đến tinh thần ở các nước Công nghiệp đang lan tràn ra khắp các phần còn lại của thế giới. Trong vòng hai mươi năm tới, bệnh trầm cảm sẽ gây ảnh hưởng đến nhiều phụ nữ trên thế giới hơn bất cứ căn bệnh về thể chất hay tinh thần nào khác. Chỉ có các bệnh liên qua đến tim mạch và tuần hoàn máu mới gây nhiều nguy hiểm hơn cho đàn ông. (8) Bệnh trầm cảm đang có nguy cơ trở thành bệnh dịch của thế kỷ 21. Không phải tất cả những ai không hạnh phúc thì đều bị bệnh tâm thần. Nhưng dù sao, trạng thái buồn chán có quan hệ chặt chẽ với trầm cảm hơn nhiều so với người ta từng quan niệm suốt một thời gian dài trước đây, vì cả hai đều là kết quả của những quá trình tương tự trong não bộ. Chúng đáng cho ta chiến đấu đẩy lùi. Dịch bệnh trầm cảm cho thấy chúng ta cấp bách cần một nền văn hóa hạnh phúc đến thế nào. “Niềm vui là sự chuyển hóa của tâm trí đến trạng thái hoàn hảo,” theo triết gia người Hà Lan Baruch Spinoza3. “Ngược lại, nỗi đau là sự chuyển hóa của tâm trí sang trạng thái suy nhược.” Nhưng niềm vui ảnh hưởng đến cơ thể ít nhất cũng nhiều như đến tâm trí. Bất hạnh phá hủy cơ thể. Hạnh phúc làm cho cơ thể mạnh mẽ. Những nghiên cứu mới đã làm sáng tỏ mối liên kết giữa cơ thể và tâm trí mà bấy lâu các nhà khoa học đã không quan tâm. Chán nản và sợ hãi thường xuyên luôn gây nguy hại cho cơ thể bởi vì chúng gây trạng thái căng thẳng. Mà căng thẳng làm tăng nguy cơ tử vong do đau tim hoặc đột quỵ, chỉ lấy hai ví dụ như vậy. Ngược lại, biết cách hóa giải tâm trạng đen tối của mình và củng cố những tâm trạng tươi sáng thì cũng chính là đang chăm sóc cơ thể mình. Những cảm giác tích cực vô hiệu hóa được căng thẳng và các hậu quả của nó đối với sức khỏe. Cảm giác tích cực thậm chí còn tăng cường hoạt động của hệ thống miễn dịch. Chúng cũng làm cho đầu óc hoạt động hiệu quả hơn. Xét theo góc độ não bộ thì suy nghĩ và cảm giác là hai mặt của cùng một đồng xu: những người hạnh phúc thường sáng tạo hơn, và như nhiều nghiên cứu cho thấy, họ giải quyết vấn đề nhanh và tốt hơn. Hạnh phúc làm người ta thông minh, không chỉ nhất thời mà lâu dài. Cảm giác tích cực kích thích phát triển các liên kết thần kinh trong não - hạnh phúc song hành cùng những kết nối mới trong trí óc. Cuối cùng, người hạnh phúc cũng là người dễ mến hơn. Họ luôn ý thức hơn và nhìn thấy những cái tốt của người khác hơn. Họ dễ có hành động vị tha hơn, và thành công hơn trong việc làm trung gian hóa giải xung đột (10) Do vậy, hạnh phúc có thể vừa là mục đích của đời người vừa là phương tiện để có cuộc sống tốt hơn. Trạng thái tinh thần tiêu cực sẽ hạn chế [khả năng của] con người, trong khi cảm giác tích cực lại mở rộng các khả năng ấy. Hạnh phúc mang lại sức sống. Để mưu cầu hạnh phúc thì phải biết hạnh phúc là gì. Cuốn sách này sẽ dẫn bạn vào cuộc hành trình khám phá những cảm giác tích cực. Bạn sẽ học được nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng đây không đơn giản là một cuốn sách tự lực (self-help) theo nghĩa thông thường. Tôi muốn giải thích các căn nguyên, chứ không muốn đưa ra những câu trả lời dễ dãi, vì xét cho cùng hạnh phúc của mỗi người cũng là độc nhất vô nhị như nhân cách của họ vậy. Não của chúng ta được hình thành theo cùng một mẫu, cho nên chúng ta đều cùng trải nghiệm sự thích thú và niềm vui, nhưng, đối với mỗi người, thứ có thể gây ra những cảm giác này thì lại khác nhau. Đó là lý do mà lời khuyên chung chung hầu như không có tác dụng. Cuối cùng, mỗi người phải tự tìm ra con đường mưu cầu hạnh phúc của riêng mình. Cuốn sách này là một kiểu sách hướng dẫn du lịch để giúp cho cuộc hành trình ấy thành ra khả thi. Trong phần đầu cuốn sách, bạn sẽ biết hạnh phúc đến như thế nào và tại sao tự nhiên lại sáng tạo ra những cảm giác tích cực. Trọng tâm của những chương này sẽ giải thích cách bộ não có thể làm ta hạnh phúc thế nào và cách nó kiểm soát những cảm xúc tiêu cực ra sao. Hệ thống này cũng có thể được rèn luyện giống như cơ bắp vậy. Bộ não có thể tái lập trình chính nó, thay đổi cấu trúc của nó, không chỉ thông qua những trải nghiệm bên ngoài, mà còn bằng cách hiểu biết những cảm giác của nó. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều phát kiến khoa học mới đang khẳng định lại sự minh triết CỔ xưa, vì vậy mà phần đầu sách kết thúc với một so sánh ngắn về di sản những tuệ kiến được truyền lại từ Hy Lạp và La Mã cổ đại cũng như các nền văn hóa phương Đông. Phần thứ hai của sách tìm hiểu cấu trúc của niềm đam mê. Trải nghiệm sự thích thú, niềm vui khám phá, tình yêu và tình dục đều có nhiều điểm chung, nhưng chúng xảy ra theo nhiều cách khác nhau và thỏa mãn những mục đích khác nhau. Những cảm xúc cơ bản này là bản năng bẩm sinh đã phát triển hàng triệu năm trước. Chúng ta có thể quan sát một vài bản năng này ở một số động vật bậc thấp như chuột hay ngay cả ong. Sự đam mê bám rễ vào loài người và động vật sâu đến nỗi sẽ là vô nghĩa nếu muốn thoát khỏi nó hay thậm chí muốn thay đổi nó. Điều quan trọng là chúng ta phải học để sống với nó, sống theo cách càng gặt hái được nhiều niềm vui và càng giảm thiểu buồn đau từ những chương trình của tiến hóa càng tốt. Chương cuối cùng của phần này sẽ đưa ra những gợi ý để chúng ta có thể sống theo cách này. Không như các loại côn trùng hay họ gặm nhấm, loài người được tiến hóa trang bị một bộ não phát triển cao. Chúng ta được tạo ra để lái những động năng, niềm thích thú và nỗi sợ bẩm sinh theo những lối mòn đã sắp xếp chỉn chu. Phần ba của cuốn sách bàn về các thành tựu này của ý thức và các phương tiện chúng ta có để áp dụng thành tựu đó. Chúng ta nhìn mà thấy một ly rượu thượng hạng là đầy một nửa hay với một nửa, điều đó ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta nhiều hơn là dung dịch thực chứa trong ly. Khả năng lái những suy nghĩ và cảm giác một cách có ý thức cho ta một công cụ mạnh mẽ để chống lại nỗi buồn và thậm chí cả bệnh trầm cảm. Nhưng não bộ còn cho phép chúng ta làm nhiều hơn thế. Không như động vật, chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác tự do, cảm giác rộng mở, đón nhận và hòa nhập với thế giới. Chúng ta có thể ở trong trạng thái đê mê dưới ánh sáng lung linh phản chiếu trên mặt biển, và chúng ta có thể hoàn toàn đắm mình vào trong một hoạt động. Nhận thức và sự tập trung có định hướng chính là chìa khóa dẫn đến những giây phút thăng hoa như thế. Thậm chí, có thể chính những trạng thái tinh thần này giải thích được những trải nghiệm huyền bí xuất hiện trong tâm trí con người. Một nguồn quan trọng nữa dẫn đến hạnh phúc chính là sự phát triển tối ưu tài năng và tiềm năng của ta. Nhưng không ai sống cho chỉ một mình mình. Vì lý do này mà phần bốn và phần cuối cùng của sách sẽ đề cập đến những điều kiện phải có trong xã hội để mọi công dân có thể tham gia - nói như lời bản Tuyên ngôn Độc lập - “cuộc mưu cầu hạnh phúc.” Ở đâu có ý thức về cộng đồng, về sự Công bằng và việc tự làm chủ cuộc đời mình, ở đó cơ hội để một cá nhân có thể sống một cuộc sống hạnh phúc luôn là tốt đẹp. Vậy thì vấn đề là làm thế nào để xã hội như là một tổng thể, cũng như từng cá nhân thành viên của nó, có thể tạo ra một văn hóa hạnh phúc. Hai nghìn năm trước, các nhà thông thái đã ý thức rằng mọi người đều có thể sống hạnh phúc hơn. Ngày nay, nhờ hiệu quả đáng ngạc nhiên của lĩnh vực khoa học thần kinh, ta không còn nghi ngờ điều này: chúng ta có thể học để có hạnh phúc. Mời các bạn mượn đọc sách 6 Tỉ Đường Đến Hạnh Phúc của tác giả Stefan Klein.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chú Bé - Jules Vallès
JUYN VALEX VÀ TIỂU THUYẾT JĂC VANHTRAX Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Chú Bé của tác giả Jules Vallès.
Cậu Ấm Ngây Thơ - Natsume Soseki
Natsume Soseki (1867 - 1916) là nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận văn học và chuyên gia văn học Anh. Ông sinh ngày 9-2-1867 trong một gia đình Danh chú (“Nanushi"- một loại cường hào địa phương thời phong kiến) tại Tokyo. Tên chính thức của ông là Natsume Kinnosuke (Na-chư-mê Kin-nô-su-ke). Bút danh Soseki chữ Hán là “sấu thạch” có nghĩa là súc miệng bằng đá, lấy từ điền tích “sấu thạch trầm lim” của Trung Quốc, mang ý nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bút danh này có từ sau năm 1889, khi ông gặp Masaoka Shiki, người bạn thân thiết nhất, có ảnh hưởng quyết định đến con người và văn học của Soseki. (Masaoka Shiki (1867 - 1902) là nhà thơ nổi tiếng của Nhật Bản). Ngay sau khi ra đời, Soseki đã bị cho đi làm con nuôi một gia đình thương gia nghèo nên không được nuôi nấng, chăm sóc đầy đủ. Thấy thế, gia đình cha mẹ đẻ đưa ông về, rồi lại cho làm con nuôi một gia đình khác. Cho đến năm 21 tuổi, Soseki mới trở lại nhập tịch gia đình Natsume. Thời kỳ học tiểu học, ông phải chuyển hết trường nọ đến trường kia. Năm 12 tuổi Soseki vào học trường trung học công lập tỉnh Tokyo. Ông bỏ dở năm thứ 2 trung kọc để theo học Hán học trường tư thục. Ở đây, ông đã học được nhiều văn thơ Đường, Tống, Hán thư, sử thư và văn hóa cổ điển Trung Quốc, có ảnh hưởng lớn đến văn học của ông sau này về văn phong, về tư tưởng, giá trị thẩm mỹ v.v... Năm 1883, Soseki lại bỏ Hán học, theo học trường tiếng Anh tư thục để chuẩn bị vào trường dự bị đại học. Năm 1884, Soseki vào trường dự bị đại học. Trong thời gian học dự bị, ông đã từng bị bệnh, không thể đi dự thi, đã từng đi dạy cho các trường tư thục để trang trải học phí. Năm 1890, Soseki vào học trường Đại học đế quốc Tokyo (tiền thân của Đại học Tokyo ngày nay), là trường quốc lập mới mở trước đó không lâu. Ổng bắt đầu sáng tác thơ từ thời sinh viên. Năm 1893, Soseki tốt nghiệp khoa văn trường đại học Tokyo. Ông được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng sư phạm Tokyo. Ngay sau đó ông bị bệnh lao phổi và bệnh suy nhược thần kinh nặng. Để chạy trốn khỏi Tokyo nhằm dưỡng bệnh, năm 1895, ông thôi dạy ở trường cao đẳng, chuyển đến trường trung học Matsuyama, tỉnh Ehime, quê hương của Shiki. Chính trường trung học này là bối cảnh và đề tài để mười năm sau ông viết tác phẩm “Cậu ấm ngây thơ” (Bốt chang) vào năm 1906. Từ 1896, Soseki được bổ nhiệm làm giáo viên tiếng Anh trường cao đẳng số 5 ở tỉnh Kumamoto. Năm 1900, Soseki được Bộ Giáo dục Nhật Bản cứ đi nghiên cứu văn học Anh 2 năm ở Luân Đôn. Năm 1903, về nước ông được bổ nhiệm dạy tại trường cao đẳng số I, đồng thời dạy văn học Anh tại trường đại học Tokyo. Việc dạy lý luận văn học Anh ở Đại học Tokyo gặp trục trặc làm cho bệnh suy nhược thần kinh và tình trạng tinh thần của Soseki trở nên trầm trọng. Theo lời khuyên của Takahama Kyosi, chú bút tạp chí "Chim Tứ Quý”, Soseki sáng tác tiểu thuyết để thư giãn tinh thần. Truyện “Tôi là cơn mèo” ra đời, lập tức được hoan nghênh nồng nhiệt và bệnh tình của ông cũng thuyên giảm. Từ đó, Soseki có ý định đi theo nghề viết văn. Ổng viết tiếp “Tháp Luân Đôn” rồi “Cậu ấm ngây thơ”, tất cả đều là những kiệt tác, xác lập chỗ đứng chắc chắn của ông trên văn đàn. Tháng 2-1907, được báo Asihi mời, ông bỏ hẳn nghề giáo viên, vào làm ờ báo Asihi, chuyên viết tiểu thuyết và sáng tác văn học cho đến khi qua đời vào ngày 9-12-1916. Cuộc đời 49 năm với 10 năm viết văn chuyên nghiệp, Natsume Soseki đã để lại nhiều kiệt tác, trong đó có các tác phẩm tiêu biểu là: Cuộc nổi loạn ngoạn mục Ngày 210 Nỗi Lòng “Tôi là con mèo", 1907 “Tháp Luân Đôn”, 1904 “Cậu ấm ngây thơ”, 1906 ‘Hoa thuốc phiện’’, 1907 “Gối Đầu Lên Cỏ”, 1907 “Chàng trai Sanshiro", 1908 ‘Tù đó", 1909 “Cái cổng", 1910 “Người đi đường", 1912 -1913 “Cỏ ven đường", 1915 “Sáng tối", 1916 Ngoài ra, ông còn để lại nhiều tác phẩm lý luận văn học và thơ. Natsume Soseki là một nhà văn, nhà thơ, nhà trí thức đa dạng, có thiên tài đặc biệt. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông có nhiều nét độc đáo mà Kenzaburo Oe đã gọi là “một hiện tượng lạ lùng hiếm có của văn học Nhật Bản”. Ông có khả năng sáng tác phong phú, đa dạng. Cùng một lúc ông viết nhiều tác phẩm khác nhau về đề tài, về văn phong, về bối cảnh, về không gian và thời gian: từ xã hội châu Âu thời trung cổ cho đến một trường học ở nông thôn Nhật Bản đương thời; từ câu văn cầu kỳ điêu luyện đầy tu từ cho đến những câu văn nói rõ ràng, đơn giản. Từ nội dung đả kích châm biếm chua cay đến tình yêu tuổi trẻ đầy thơ mộng, trữ tình... Là nhà thơ, ông nắm bắt được những động tĩnh kỳ diệu của tình cảm con người trước thiên nhiên, trong cuộc sống hàng ngày. Thơ ông vượt lên trên lĩnh vực vẽ tranh bằng thơ, nó đạt tới trình độ là những bức khắc họa hiện thực cuộc sống. Là nhà tiểu thuyết, ông đã xây dựng thành công một hình thức tiểu thuyết tâm lý, mượn hình thức của văn học phương Tây để viết bằng tiếng Nhật. Tiểu thuyết của ông miêu tả tỉ mỉ mọi tâm lý, tính cách, giá trị quan, cách suy nghĩ cúa từng cá nhân trong cuộc sống đời thường. Qua những vấn đề nội tại sâu sắc, về lý luận, về sự cắn rứt lương tâm v.v... ông đề cập đến cái chung là cách sống của con người, tư tưởng của thời đại. Văn phong của ông giản dị, khúc chiết, hư cấu chặt chẽ nên có sức lôi cuốn rộng rãi. Ông đã đạt tới đỉnh cao nhất của nghệ thuật tiểu thuyết tâm lý Nhật Bản mà từ sau ông chưa có ai đuổi kịp. Natsume Soseki là một văn mới tiêu biểu của văn học Nhật Bản. Ông là người có vai trò chù chốt trong nền văn học cận và hiện đại Nhật Bản, là nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất trong toàn bộ thời kỳ tiến hành công cuộc hiện đại hóa của Nhật. Nhiều đệ tử và học trò của ông đã trở thành các nhà trí thức, nhà văn, nhà chính trị nổi tiếng của Nhật Bản. Ông là nhà văn của đại chúng. Tác phẩm của ông được mọi tầng lớp, mọi thế hệ độc giả yêu thích. Ông nổi tiếng từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Cùng thời với ông, trong khi tác phẩm của các nhà văn khác chỉ xuất bản hàng trăm số thì tác phẩm của ông luôn xuất bản hàng vạn số. Tác phẩm của ông còn được đọc nhiều hơn qua suốt thời đại Chiêu Hòa (1925 - 1989) và cho đến nay, ông vẫn là một trong những tác gia có nhiều độc giả nhất. Năm 1984, đánh dấu mốc lịch sử 100 năm công cuộc hiện đại hóa Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản đa chọn 3 nhà trí thức tiêu biểu, có ảnh hướng lớn đối với xã hội để in ảnh trên giấy bạc. Một trong ba người đó là Natsume Soseki. (Bạc giấy của Nhật Bản lúc đó có 3 loại là: tờ mệnh giá 1.000 yên, tờ 5.000 yên và tờ 10.000 yên). Ảnh Natsume Soseki được in trên tờ mệnh giá 1.000 yên. Cùng với "Cậu ấm ngây thơ” (“Bốt chang”), tên tuổi và hình ảnh Natsume Soseki rất gần gũi, thân thuộc với người dân Nhật Bản. *** Về tác phẩm “CẬU ẤM NGÂY THƠ": Tên tác phẩm này trong nguyên bản tiếng Nhật là “Bốt chang" (Botchan). “Bốt chang” là một từ dùng để chỉ một người nam giới có một địa vị tương đối hoặc là con nhà giàu sang quyền quý, có danh giá nhất định trong xã hội. Nghĩa này tương ứng với “cậu ấm”, “công tử’’ trong tiếng Việt. Người Nhật thường dùng từ “bốt chang” để gọi con trai của người khác, với ý nghĩa tôn trọng, đề cao, hơi có ý lấy lòng đối phương, kiểu như trong tiếng Việt chúng ta gọi “cậu nhà”, “quý tử" v.v... “Bốt chang” còn được dùng để gọi một cách chế giễu những người con trai được nuôi dưỡng trong môi trường nhung lụa, được nuông chiều, nên ít hiểu biết cuộc đời, ngây thơ, khờ khạo trước thực tế cuộc sống v.v... Natsume Soseki lấy “Bốt chang” làm nhan dề và nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết (truyện vừa) vui vẻ, hài hước, này. (Trong bản dịch, từ này được dịch là "cậu nhỏ” hay “cậu”, là đại tử nhân xưng mà nhân vật bà Ki-yô vẫn gọi nhân vật chính - nhân vật “tôi”). Tác phẩm đăng lần đầu tiên trên tạp chí Hototogisu (Chim tứ quý) năm 1906. Theo nhà phê bình văn học Eto Jun thì Natsume Soseki viết tác phẩm này vào khoảng tháng 3- 1906, chỉ trong khoảng trên dưới hai tuần lễ. Bản thảo của ông rất ít vết tẩy xóa, càng về sau chữ càng viết to, chứng tỏ ông viết rất hào hứng theo cảm hứng tự phát. Bối cảnh của truyện lấy nguyên mẫu từ trường trung học Matsuyama, nơi ông đã dạy học một năm (năm 1895 - 1896). Một số địa điểm và sự vật trong truyện cũng lấy nguyên mẫu từ trong thực tế. Có những tên người, sự vật, sự kiện được giữ nguyên, có địa điểm, địa danh thì được đặt tên khác. Từ sau khi tác phẩm ra đời, nhiều cái trong thực tế đã được gọi tên theo truyện. Ví dụ: ‘Tàu hỏa Bốt chang”, “Nước nóng Bốt chang”, “Bánh trôi Bốt chang”, “Đảo Turner" v.v... Nhà tắm nước nóng Dogo ở thành phố Matsuyama tỉnh Ehime mà trong truyện gọi là “suối nước nóng Sumita” hiện nay là một di tích xếp hạng di sản quốc gia của Nhật Bản và được gọi là “Suối nước nóng Bốt chang". Có thể nói “Bốt chang" đã đi vào cuộc sống gần gũi thân quen với người Nhật Bản như một nét tự nhiên. Trong cuộc sống hàng ngày, ngoài đồng tiền có in ảnh tác giả, thỉnh thoảng người ta vẫn được nghe nhắc đến “Bốt chang" và Natsume Soseki mỗi khi có những sự kiện đặc biệt xảy ra về thời cuộc, thời tiết, khí hậu.... Vì sao Natsume Soseki và “Bốt chang” lại thân thuộc với người Nhật như vậy? Có lẽ để hiểu được tất cả điều này, cần phải biết nhiều hơn nữa về văn hóa, lịch sử, về tâm lý, tính cách của người Nhật Bản chăng? Bởi vì Nhật Bản là đất nước của thơ Haiku, của một dân tộc thích tranh biếm họa và man-ga. Truyện “”Bốt chang“” không chỉ có nội dung vui vẻ, hài hước, mới mẻ, sảng khoái. Có lẽ nó còn ẩn chứa cái gì như là ước mơ, tinh thần thời đại, và có thể cả tâm tư, tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm?. Ngoài ra, nó không chỉ lôi cuốn các thế hệ độc giả Nhật Bản bằng nội dung, cốt truyện, mà cái chính là bởi văn phong tuyệt vời, một giọng điệu tươi vui, giòn giã, mang đậm phong cách ngôn ngữ đời thường của người dân Eđô. Đó là sức hấp dẫn đặc biệt của một thiên tài duy nhất trong tiếng Nhật hiện đại. Với bản dịch tiếng Việt “Cậu ấm ngây thơ”, người dịch hy vọng đem lại cho bạn đọc Việt Nam những khoảnh khắc thư giãn khi theo dõi bước đi, suy nghĩ và hành động dại khờ nhưng đầy trong sáng, lành mạnh của “Bốt chang”. Và nếu đọc xong "Bốt chang”, các bạn hiểu thêm một chút nào về văn học, văn hóa và con người Nhật Bản thì đó là mong ước và niềm vui của người dịch. Osaka tháng 2 năm 2006 Người dịch Bùi Thị Loan Mời các bạn đón đọc Cậu Ấm Ngây Thơ của tác giả Natsume Soseki,
Bản Giao Hưởng Pháp - Iréne Némirovsky
Nước Pháp những năm 1940. Sau một mùa hè tản cư rối loạn, đầy kinh hãi và cả đớn hèn, người dân bắt đầu bước vào thời kỳ buộc phải chung sống cùng quân Đức. Nghịch lý thay, giai đoạn tưởng chừng ngập tràn khiếp sợ này lại diễn ra hết sức êm đềm với những tình cảm con người trìu mến, trong đó có những mối tình thầm lặng, trong sáng, lãng mạn, ngập tràn chất thơ… Bản giao hưởng Pháp được hết thảy giới nhà văn, nghiên cứu,phê bình, giới truyền thông và tất cả những ai từng đọc nó trên toàn thế giớ tôn vinh như một viên ngọc quý của nền văn học. Dù còn dang dở, song kiệt tác này vẫn “kịp” miêu tả thành công cái nền chân thực của một tấn trò đời thời chiến, ở đó, toàn bộ tài năng của tiểu thuyết gia được bộc lộ thông qua nhân vật trong vô số gương mặt thuộc mọi giai tầng khác nhau. Đó chính là lý do giải thich vì sao Irène Némirovsky được coi như một văn sĩ hiếm hoi đã diễn tả đầy sức mạnh và sinh động cuộc sống hậu phương thời chiến ở một tầm vóc sử thi. Và khiến bà trở thành nhà văn quá cố duy nhất cho tới lúc này giành được giải Renaudot - một trong những giải thưởng văn học uy tín nhất của Pháp. … Khi anh trở về, vào giờ ăn xúp, anh thấy ngay lập tức là đã có một sự kiện xảy ra trong khi anh vắng mặt. Cậu bé người làm đi lên thị trấn mua bánh mì; cậu ta mang về bốn cái bánh mì đẹp đẽ vàng ruộm hình vòng treo ở ghi đông xe đạp; đám phụ nữ vây quanh cậu. Nhìn thấy Jean-Marie, một cô gái kêu lên với anh: - Này! Anh Mi chaud, anh hài lòng nhé, bưu điện hoạt động rồi. - Không thể thế được, - Jean-Marie nói, cậu, - cậu có chắc không, cậu bạn? - Chắc. Em thấy bưu điện mở cửa và có những người đọc thư. - Thế thì tớ lên nhà viết vài dòng cho gia đình tớ rồi chạy ra thị trấn bỏ thư đây. Cậu cho tớ muợn xe đạp của cậu được chứ? Đến thị trấn, anh không chỉ bỏ thư ở bưu điện mà còn mua những tờ báo vừa mới tới. Tất cả những cái đó thật là kỳ cục! Anh giống như một kẻ đắm tàu tìm lại được quê hương, nền văn minh, xã hội của những kẻ giống mình. Trên quảng trường nhỏ mọi người đọc những bức thư tới trong chuyến thư buổi tối; đám phụ nữ khóc. Nhiều tù binh gửi tin tức về, nhưng họ cũng cho biết tên các đồng đội đã chết. Như mọi người ở trang trại đã yêu cầu anh, anh bèn hỏi có ai biết anh con trai Benoit ở đâu không. - A! Thế ra anh là anh lĩnh sống ở đấy đó à? - mấy bà nông dân nói, - Chúng tôi thì chẳng biết gì đâu, nhưng bây giờ thư từ đến rồi, chúng ta sẽ biết những người đàn ông của chúng ta ở đâu! Và một trong những người này, một bà già, để đi ra thị trấn, đã đội một chiếc mũ đen nhỏ chóp nhọn, cài một bông hồng trên đỉnh đầu, vừa nói vừa khóc: - Sẽ có những người biết tin khá sớm đấy. Tôi muốn thà đừng nhận được tờ giấy chết tiệt này còn hơn. Thằng con tôi là thuỷ thủ trên chiếc Bretagne đã bị mất tích khi người Anh phóng ngư lôi vào tàu, người ta bảo thế. Thật là khốn khổ! - Bà đừng đau buồn. Mất tích không có nghĩa là chết. Có thể anh ấy bị bắt làm tù binh ở Anh. Nhưng đáp lại tất cả những lời an ủi, bà vừa chậm rãi trả lời vừa lắc đầu và bông hoa giả rung lên theo từng cử động trên chiếc cọng bằng dây đồng. - Không, không, thế là thôi rồi, thằng bé tội nghiệp của tôi! Thật là khốn khổ… Jean-Marie lên đường về làng. Dọc đường anh gặp Cécile và Madeleine đi ngược về phía anh; hai cô hỏi cùng một lúc: - Anh có biết tin gì về anh trai của em không? Anh có biết tin gì về Benoit không? - Không, nhưngđiều đó không có nghĩa gì hết. Các cô có biết là có bao nhiêu thư từ bị chậm trễ không? Bà mẹ thì không nói gì. Bà đưa bàn tay vàng vọt và gầy guộc lên che mắt, nhìn anh, anh lắc đầu ra hiệu là không. Xúp đặt trên bàn, những người đàn ông trở về, tất cả cùng ăn. Sau bữa ăn tối và khi bát đĩa đã được lau khô, gian phòng đã được quét dọn, Madeleine đi hái đậu ngoài vườn. Jean-Marie đi theo cô. Anh nghĩ là chẳng bao lâu nữa anh sẽ rời trang trại và tất cả dưới mắt anh trở nên đẹp hơn, thanh bình hơn… *** - “Sau nhật ký của Anne Frank, có thể coi Bản giao hưởng Pháp của Irène Némirovsky là một sự kiện lớn, độc đáo cả về khía cạnh văn học lẫn lịch sử. Một kiệt tác” – L’Express - “Tuyệt vời! Một tác phẩm ngnag tầm và đạt đến độ tinh tế như những tác phẩm của Marcel Proust, với những diễn biến khôi hài và cảm động sâu sắc” – Time - “Siêu việt, đáng kinh ngạc… có thể coi tác phẩm này của Irène Némirovsky là cuốn tiểu thuyết vĩ đại cuối cùng hư cấu về chủ đề chiến tranh” – The Pittsburgh Post-Gazette. *** Iréne Némirovsky sinh năm 1903 tại Kiev. Sau nhiều năm phiêu bạt ở Phần Lan và Thụy Điển, bà đến Paris. Say mê văn chương, thành thạo bảy ngoại ngữ cùng vốn sống phong phú bà có nhiều tác phẩm được xuất bản và đã trở thành một hiện tượng văn học đặc biệt. Sau đó, bà trở thành nạn  nhân của chính sách bài Do Thái do phát xít Đức tiến hành. Năm 1942, Irène Némirovsky bị đày đến Auschwitz và bị ám sát ở đó. Năm 2004, Denise Epstein, con gái đầu lòng của Irène Némirovsky khi đó ở tuổi bảy mươi tư, mới quyết định cho in Bản giao hưởng Pháp - tác phẩm được mẹ bà dự định viết thành năm phần với số lượng nhân vật đông đảo, với những tình tiết thắt-mở nút bất ngờ xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật ấy trong thời kỳ Thế Chiến II.   Mời các bạn đón đọc Bản Giao Hưởng Pháp của tác giả Iréne Némirovsky.
Ma Cà Rồng Và Em Tập 1 - Shin Ji-Eun
Ma cà rồng không phải là một đề tài mới của văn chương thế giới những năm gần đây. Thế nhưng “Ma cà rồng và Em”, cuốn sách mới của tác giả Shin Ji-Eun vẫn có một sức thu hút nhất định. Có lẽ vì nữ tác giả trẻ tuổi đã chọn một cách thể hiện câu chuyện gần gũi, dễ hấp dẫn độc giả trẻ. Phiêu lưu, bí hiểm và đậm chất lãng mạn, “Ma cà rồng và Em” với tạo hình hai nhân vật chính, Louis và Seo-Young với nét trẻ trung, cá tính nổi bật là điểm cộng đầu tiên. Tác giả Shin Ji-Eun từng thừa nhận thích phiêu lưu và các chi tiết phi thực tế nhưng trong cách xây dựng nhân vật Seo-Young, nữ tác giả lại chọn cho cô một cách xuất hiện khá giản dị, tự nhiên: một nữ sinh trung học mồ côi nhưng có lối sống vô tư, lạc quan. Riêng với nhân vật Louis, chàng thủ lĩnh ma cà rồng, tác giả người Hàn Quốc trung thành với quan điểm độc – lạ đề ra trong ngòi bút. Đẹp trai, mang cánh rộng và xuất hiện dưới ánh trăng, sự xuất hiện ấn tượng của Louis là sự báo hiệu đầy thông minh để mở ra một loạt tình huống li kỳ của câu chuyện. Để khiến thiên truyện thêm phần cuốn hút, cũng như cái cớ để diễn tiến truyện, tác giả Shin Ji-Eun sáng tạo nên hình ảnh loài hoa “ma cà rồng”. Thêm một khái niệm mới mà có lẽ Shin Ji-Eun là người đầu tiên phát hiện và phát triển với cách miêu tả đầy gợi cảm: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”… “Ma cà rồng và em” đã có mặt tại các nhà sách trên toàn quốc. *** Shin Ji-Eun vốn là một sinh viên chuyên ngành kĩ thuật, nhưng Shin Ji-Eun lại tìm thấy sở thích trong viết lách. Cô thích bất cứ thứ gì phiêu lưu và những sự cố phi thực tế. Do đó cô đã chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết. Cô dự định sẽ viết nhiều tác phẩm liên quan đến ma cà rồng. *** "Ma cà rồng và em" là tác phẩm kể về câu chuyện tình lãng mạn, đầy bí hiểm giữa chàng trai thủ lĩnh ma cà rồng và nữ sinh trung học. Ma cà rồng và em là tác phẩm đầu tay của tác giả Shin Ji-Eun. Cô từng là sinh viên chuyên ngành kỹ thuật, nhưng có sở thích viết lách. Shin Ji-Eun thích những thứ phiêu lưu và các sự cố phi thực tế. Do đó, cô chọn ma ca rồng là chủ đề chính trong tác phẩm này. Sau khi giành được sự ủng hộ của nhiều fan trên web, cô quyết định tiếp tục viết nhiều tác phẩm liên quan đến chủ đề này. Ma cà rồng và em kể về câu chuyện tình đặc biệt giữa chàng trai ma cà rồng và nữ sinh trung học. Louis - ma cà rồng đẹp trai và cũng là người đứng đầu trong thế giới đầy sợ hãi. Chàng xuất hiện trở lại trong thế giới loài người để thực hiện nhiệm vụ của mình là trở thành Chúa tể loài này. Để đạt được ngôi vị, Louis phải tìm ra bí mật của hoa ma cà rồng. Seo-Young là nữ sinh trung học bình thường. Cô mồ côi, nhưng luôn sống vui vẻ, lạc quan. Một ngày, cô gặp một ma cà rồng và bị buộc thực hiện thỏa thuận. Cô bị ràng buộc bởi một hợp đồng. Cùng với Louis, cô phải tìm ra bí ẩn của “hoa ma cà rồng”. Được miêu tả rằng: “Cánh hoa ấy đỏ hơn máu, hương hoa ma mị tới mức thu hút bất cứ loài ma cà rồng nào. Chỉ cần nếm một chút cánh hoa cũng đủ chữa lành mọi vết thương. Người nào sở hữu bông hoa đó trong tay sẽ có quyền năng chế ngự mọi ma cà rồng”. Hoa ma cà rồng trở thành bí mật siêu nhiên mà Seo-Young, Louis đều muốn tìm thấy. Trong bối cảnh đó, Seo-Young phát hiện ra một chàng trai đẹp trai với đôi cánh rộng, màu đen trong bóng tối, dưới ánh trăng... Diễn biến kịch tính được miêu tả đầy đủ, chi tiết trong tiểu thuyết Ma cà rồng và em của tác giả Shin Ji-Eun. Mời các bạn đón đọc Ma Cà Rồng Và Em Tập 1 của tác giả Shin Ji-Eun.