Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót

Teddy là một chàng trai trẻ yêu thiên nhiên và thích làm thơ. Anh luôn mong muốn được sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Bỗng một ngày, Chiến tranh Thế giới thứ Hai nổ ra. Cuộc sống của anh hoàn toàn bị đảo lộn. Sự tàn khốc của chiến tranh đã làm thế giới quan và nhân sinh quan của anh thay đổi. Mỗi ngày với anh đều giống như ngày tận thế. Anh không tin mình còn có một tương lai. Thế rồi chiến tranh đột ngột kết thúc. Teddy bị mất phương hướng. Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống của một người bình thường. Sống sót sau chiến tranh không hẳn là điều may mắn mà đã trở thành một gánh nặng với anh. Liệu anh có thể đối mặt với những khó khăn, sóng gió liên tiếp ập tới cuộc đời mình? Và anh phải làm thế nào để xoay xở được trong cái tương lai mà anh chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ có? --------- Đôi nét về tác giả Kate Atkinson: Kate Atkinson, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1951, là nhà văn người Anh có các tác phẩm đạt khá nhiều giải thưởng. Bà là tác giả lập kỷ lục ba lần thắng giải Costa Book, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tựa đề Behind the Scenes at Museum (năm 1995), Life after Life (Chuỗi đời bất tận - năm 2013) và A God in Ruins (Những chú chim chưa bao giờ được hót - năm 2015). Ngoài ra, bà còn viết bộ bốn cuốn tiểu thuyết bestselling về cựu thám tử Jackson Brodie được chuyển thể thành phim truyền hình ăn khách trên đài BBC. *** Review sách Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót Nguyễn Linh đã review NHỮNG CHÚ CHIM CHƯA BAO GIỜ ĐƯỢC HÓT #review Các bạn đã nghe chim chiền chiện hót bao giờ chưa? Có bao giờ nghe tiếng hót con chim chiền chiện mà cảm thấy yêu cuộc sống này biết mấy chưa?  Có bao giờ nhìn thấy một chim chiền chiện bị bắt rồi không bao giờ hót được nữa và thấy luyến tiếc tiếng hót tuyệt diệu của nó không? Đọc xong "Những chú chim chưa bao giờ được hót" sẽ có cảm giác buồn và tiếc như thế đấy. Mình cực kỳ thích bộ sách trước "Chuỗi đời bất tận" của Kate Atkinson, nên khi bộ "Những chú chim chưa bao giờ được hót" mới ra là mình đã đặt mua ngay.  Cuốn sách xoay quanh chàng trai Teddy, em trai của Ursula Todd trong Chuỗi đời bất tận, một chàng trai yêu thơ ca, yêu thiên nhiên như yêu tiếng hót của chim chiền chiện vậy. Nhưng khi chiến tranh ập đến, anh nộp đơn gia nhập lực lượng không quân hoàng gia Anh, và trở thành một chú chim bay lượn trên bầu trời.  Anh không thể nhớ được bao nhiêu chuyến bay mình đã lái, bao nhiêu quả bom đã thả xuống, bao nhiêu người đồng đội đã hy sinh trên những chuyến bay cùng anh. Nhưng anh nhớ rất rõ về chuyến bay cuối cùng, khi tất cả mọi người, kể cả anh đã nghĩ mình sẽ chết, nhưng hóa ra lại sống, lại có tương lai, một tương lai không chuẩn bị trước.  Teddy trở về, kết hôn với cô bạn thời nhỏ Nancy, hai người có một đứa con - cô con gái bướng bỉnh và khó bảo Viola. Teddy thậm chí còn có hai đứa cháu ngoại Sun và Moon Bertie. Nhưng sống sót sau chiến tranh không hẳn là một điều may mắn, những ký ức đau thương trên bầu trời, cả dưới mặt đất lũ lượt ùa về xen lẫn với những sóng gió và khó khăn của thời bình khiến tương lai của Teddy cũng mờ mịt như chính màn khói của chiếc máy bay cháy rụi trong trận chiến cuối cùng của anh. Với những ai chưa đọc "Chuỗi đời bất tận", hoặc không thích cách kể chuyện của Kate Atkinson sẽ thấy cuốn sách kể dài dòng thừa thãi về cuộc đời của Teddy. Nhưng nên nhớ đây đâu phải là tiểu thuyết trinh thám, bạn đâu đi tìm hung thủ của vụ án hay động cơ gây án của hắn, khi bạn đọc tiểu thuyết, ấy là bạn đang đọc chuyện đời của một nhân vật, vui cùng niềm vui, buồn cùng nỗi buồn của anh ấy. Và chính vì đọc sách với một tâm thế không mong chờ cái kết sẽ diễn ra như thế nào, bạn sẽ vỡ òa ra khi đọc đến trang cuối cùng của cuốn sách.  Có một chi tiết có lẽ rất phù hợp với thời tiết này. Khi nghe tiếng chim chiền chiện hót, tức là hôm đó là một ngày nắng đẹp trời, còn những ngày âm u mưa gió sẽ không thể nghe thấy được tiếng chim. Bức ảnh chụp từ mùa mưa lần trước mà giờ mới được đem ra dùng. *** 15 tháng 9 năm 2001 Đã bốn ngày từ khi tòa tháp đôi sụp đổ, tôi tỉnh dậy vào buổi sáng và thấy một gã khổng lồ đứng đó, ngay cuối giường. Tôi gần như hét lên theo một cách ẻo lả nhất, nhưng tất cả những gì thoát khỏi lồng ngực là sự im lặng. Không có tiếng thét nào cả. Tốt. Bởi nếu có thì sẽ làm cho tên khổng lồ kia sợ hãi và trốn tịt xuống gầm giường. Chỉ mất một hai giây để tôi nhận ra đó là ai. Và tồi tệ hơn, là tôi đang ở đâu. Rồi tôi thực hiện thói quen mới được hình thành của mình từ sau sự kiện 11/9, thường là sau một giấc ngủ ngắn vạ vật trong xe của ai đó: liệt kê lại những việc đã xảy ra trong đầu. Những điều đã mất, những điều đã thay đổi. Chẳng còn New York, chẳng còn nghề ngỗng, chẳng còn người mẹ nào nữa, chẳng còn bạn bè nào khi mà tất cả bọn họ đều ra đi cùng hai tòa tháp, tất cả mọi thứ tôi làm để mãi mãi rời bỏ Kansas, cuối cùng đều là vô nghĩa. Tôi quay về nơi khỉ ho cò gáy này, nơi mà tôi đã thề sẽ không bao giờ trở lại. Và mắc kẹt ở nơi đây. Những cơn ác mộng cứ tiếp diễn nhau một cách “trơn tru”. Mọi thứ tốt đẹp đều biến mất. Tôi lại ngước nhìn gã khổng lồ gầy gò, là anh tôi, Ben. Tôi cũng đoán trước mình sẽ chạm mặt anh, có điều… Tối qua khi tôi về tới nhà thì đã muộn - tất nhiên, muộn theo tiêu chuẩn của Ben - và lúc đó anh đã đi ngủ rồi. Anh vẫn không nhìn thẳng vào mắt người khác. Nhưng cũng không giả vờ bằng cách nhìn vào điểm giữa hai chân mày như dân kinh doanh vẫn làm. Mọi hành động của Ben đều không được bình thường cho lắm. Anh quay hẳn đầu đi và nhìn xuống đất theo một góc bốn mươi độ, mắt dán vào sàn nhà. Đấy. Một điều chẳng hề thay đổi. “Chào anh,” tôi nói. “Em phải đưa anh đi làm. Dậy đi.” Đó là những lời đầu tiên chúng tôi nói với nhau sau sáu năm. Tôi ngồi dậy, vẫn mặc chiếc quần đùi ngắn, chớp mắt. Tôi không được ngủ đủ giấc. Hoàn toàn không. Mắt giống như đang có bụi vậy, và dạ dày tôi thì gầm gào. “Em có xe không?” Ben hỏi. Tôi biết anh đang lo lắng. “Em không.” “Thế làm sao em chở anh đi làm được?” “Cô Jespers nói rằng em có thể dùng xe của mẹ.” “À.” “Nhưng cô ấy không biết mẹ để khóa ở đâu. Anh có biết không?” “Có,” Ben đáp. “Anh biết.” “Thế chỉ cho em đi?” “Ừ.” “Luôn đi. Luôn và ngay chứ?” “Mẹ để chìa khóa ở cái móc chỗ cửa trước ấy.” “Tốt.” Tôi nói, Có tiến bộ. Câu này thì tôi không nói ra. “Thế… ờm… anh có nhận ra em là ai không?” “Có,” Ben đáp. “Anh nhớ được em à?” “Ừ.” “Em là ai?” “Em của anh.” “Đúng rồi. Tốt. Anh nhớ tên em chứ?” “Ừ.” “Thế sao anh không nói tên em ra?” “Vì em không bảo anh phải nói. Chỉ hỏi xem anh có nhớ không thôi mà.” “Thực ra, ý em là, sao anh không nói. Anh thử nói xem nào?” “Rusty*.” Cái biệt danh cũ, lâu rồi, cứa vào lòng tôi như một thanh sắt lởm chởm. Lởm chởm, và tất nhiên là… gỉ sét. “Giờ em được gọi là Russell.” “Vì sao?” “Vì em lớn rồi.” “Anh phải đi làm. Anh phải ở chỗ làm lúc 7 giờ kém 15 phút. Không thể muộn được. Ông McCaskill sẽ không thích anh đi muộn.” “Hẳn rồi. Được thôi. Thì đi làm. Thế anh ăn chưa?” “Rồi.” “Ăn gì?” “Ngũ cốc.” “Anh dậy lúc nào thế?” “Từ lúc năm giờ.” “Em có nghe thấy chuông báo thức đâu.” “Anh không đặt. Cũng không cần. Sáng nào anh cũng dậy lúc năm giờ.” “Sao anh chưa vào xe?” Tôi hỏi, lên giọng một chút để anh nghe thấy, nhưng cũng cố gắng ghìm xuống một chút, tránh làm phiền hàng xóm. Chiếc Buick cũ của mẹ tôi bắt đầu khởi động. Tôi có thể cảm thấy thứ rung động đặc thù dưới mông. Không nhẹ nhàng lắm. Tôi mở cửa phía lái xe, trườn người ra ngoài và nói với Ben, đang đứng cạnh cửa ga-ra, nhất quyết không vào xe. “Đây không phải loại cửa tự đóng được,” Ben nói, giọng rất to, không quan tâm đến việc hàng xóm có đang ngủ hay không. Giọng anh có vẻ mất kiên nhẫn. Như thể tôi phải biết rõ việc đó. Như thể tất cả mọi người đều phải hiểu chuyện theo cái cách mà Ben nghĩ vậy. “Anh đợi ở cửa ga-ra cho đến khi mẹ lái xe ra. Rồi anh đóng cửa. Sau đó anh mới vào xe.” Tôi thở dài, cẩn thận lùi xe ra khỏi ga-ra. Tôi không lái xe nhiều năm rồi. Và thực ra là bằng lái của tôi còn hết hạn từ lâu. Nhưng bây giờ không phải lúc để nói đến những việc như thế. Ben ngồi vào ghế bên cạnh, vắt dây an toàn qua vai. Tôi lùi chiếc Buick của mẹ lần nữa. “Em không được ra đường lớn,” anh nói. Và trước khi tôi kịp hỏi là vì sao, thì đã được nghe câu trả lời, “Em không được ra đường lớn cho đến khi thắt dây an toàn.” Tôi gật lia lịa, rồi thắt dây an toàn vào. Đó là cách nhanh chóng nhất, đỡ căng thẳng nhất để giải quyết vấn đề. Tôi vừa lái vừa ghé mắt nhìn Ben. Cố gắng quan sát xem sau sáu năm, anh đã thay đổi bao nhiêu. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thứ tôi có thể thấy chỉ là anh trông già hơn thôi. Anh cao gần hai mét, tất nhiên tôi không trông đợi sẽ có thay đổi gì về điều này. Vẫn lêu nghêu, vẫn gầy gò, vẫn dài ngoằng, vẫn các cử động vụng về, tựa như một thứ ví dụ kỳ lạ nhất trên thế giới về một chú ngựa non; mặc dù bản thân Ben trông không còn trẻ nữa. Mái tóc nâu của anh cũng dài hơn và bù xù. Có thể chỉ đơn giản là anh chẳng chăm chút, nhưng mái tóc đó trông như một phong cách có chủ ý. Một kiểu tóc để tạo vẻ bất cần, lạnh lùng. Các cô gái trẻ tuổi thường sẽ thấy Ben thật cuốn hút. Đặc biệt là khi anh không nói gì và chỉ đứng yên một chỗ. Họ nghĩ rằng anh là kiểu bí ẩn, kín đáo một cách hấp dẫn, cho đến khi anh mở miệng. Họ sẽ ngay lập tức nhanh nhanh chóng chóng tránh xa anh, để quay lại với những việc quan trọng của mình. “Rẽ ở đây,” Ben nói. “Anh có quên gì không thế?” “Không.” “Em nghĩ anh có quên đấy.” “Là gì vậy?” “Anh quên nói với em là rẽ bên nào.” “Bên này,” anh nói, chỉ về bên phải. Mỗi con đường, mỗi tòa nhà mà chúng tôi đi qua, đều gợi lại những cảnh tượng thường xuất hiện trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của tôi: đột nhiên tỉnh dậy và thấy mình lại ở cái thị trấn nhỏ bé đến mức đáng sợ này, nơi mà tôi bị cầm tù trong mười tám năm đầu đời. Tôi cố gắng nghĩ theo hướng đó. Đây là một giấc mơ tồi tệ. Sẽ dễ dàng và đỡ khó chịu hơn là chấp nhận việc trước mắt chính là thực tại. Giọng của Ben làm tôi giật mình. “Em muốn biết… à?” “Hả?” “Em muốn biết… điều gì đó đúng không?” “Ồ. Anh muốn nói gì hả. OK*. Nói đi.” “Có một thành phố lớn này. Có những tòa nhà rất to. Và ai đó đã lái máy bay. Đâm thẳng vào mấy cái tòa nhà đó. Ý anh là, hai cái máy bay. Và thế là chúng cháy. Chúng ở đây là mấy tòa nhà, không phải máy bay. Mà thực ra là cả hai.” “Em biết, anh ạ. Em đã ở đấy mà.” “Thế á? Nhưng em có bị cháy đâu.” “Em đứng đủ gần để thấy thôi, chứ không gần đến mức để bị cháy.” “Ồ,” Ben nói. “Em muốn biết… gì khác nữa không?” “Có.” Tôi nói, mặc dù không thực sự nghĩ vậy. “Em đã đi đâu thế?” Tôi hít một hơi, dài và sâu, rồi chầm chậm thở ra. Tôi biết sớm muộn gì anh cũng sẽ hỏi. Nhưng tôi đã nghĩ câu hỏi đầu tiên sẽ là về Mẹ. “Em đi học đại học. Anh biết mà.” “Ồ. Thế là em đã… gì ấy nhỉ? Khi mà hoàn thành ấy? Ở trường ấy.” “Tốt nghiệp.” “Ừ. Thế em đã tốt nghiệp chưa?” “Rồi.” “Khi nào thế?” “Cách đây hai năm.” “À.” Im lặng, có chút gượng gạo, chúng tôi đi qua hai khu nhà nữa. “Rồi sau đó em đến New York.” “New York! Đó là tên của cái thành phố lớn với những ngôi nhà cao tầng…” “Đúng rồi, anh ạ. Em biết mà.” “Em có muốn biết một thứ khác nữa không?” Anh không quan tâm đến việc tôi trả lời là muốn hay không. “Anh biết rất nhiều về việc đóng gói tạp hóa đấy nhé. Không dễ như người ta nghĩ đâu. Có rất nhiều thứ em phải biết. Như là em không nên để quá nhiều chai lọ thủy tinh cùng nhau bởi vì chúng có thể đụng vào nhau và vỡ. Và không để trứng ở đáy túi. Bánh mì cũng không để ở đáy. Hoa quả ở đáy thì có thể được, nếu là hoa quả cứng như dừa, chứ không phải loại mềm như là đào. Và mọi thứ phải cân bằng, nếu không người ta sẽ khó xách đi được. Đồ đạc cũng không thể quá nặng, không là đáy túi sẽ bị thủng. Anh cá là em không biết rằng việc đó cần nhiều kiến thức như thế.” “Chắc vậy.” Tôi nói, đột nhiên thấy thèm thuốc quá thể. Tôi đã không hút thuốc trong hơn bốn năm. Mà thậm chí lúc chứng kiến hai tòa tháp đôi đổ xuống tôi cũng không cảm thấy thèm thuốc như bây giờ. “Anh cá là anh biết nhiều hơn em.” Tôi thậm chí không hiểu là anh đang giận dỗi hay tự hào nữa. Hoặc là cả hai. “Chắc chắn rồi.” “Anh cá em không nghĩ rằng có bất kỳ thứ gì anh lại biết nhiều hơn em.” “Trước đây việc gì anh cũng biết rõ hơn em.” “Thế à? Anh không nhớ.” “Anh đã từng như vậy.” “Nhưng anh không nhớ. Kia rồi. Ngay kia. Siêu thị Gerson. Ngay góc kia rồi.” Mời các bạn đón đọc Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót của tác giả Kate Atkinson & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hội Những Trái Tim Cô Đơn - Elizabeth Eulberg
Dành tặng EEC thân yêu. Dành tặng đặc biệt đến Dav Pilkey, người đầu tiên khích lệ tôi viết cuốn sách này. Đều là lỗi của anh hết đấy nhé! Tớ, Penny Lane, trịnh trọng xin thề suốt cuộc đời còn lại sẽ không hẹn hò với đứa con trai nào nữa. Ừm, có lẽ mươi mười lăm năm nữa tớ sẽ cân nhắc lại lời thề này, khi tớ không còn sống ở Parkview, bang Illinois nữa, hoặc khi tớ học xong tại trường Trung học McKinley, nhưng lúc này tớ sẽ không dính líu gì đến tụi con trai nữa. Tụi nó chỉ biết nói dối, lừa phỉnh. Đấy, tất tần tật. Toàn là quỷ dữ. Đúng là vẫn có vài người tử tế, nhưng ngay khi bọn họ đạt được mục đích, họ sẽ đá đít bạn và chạy theo mục tiêu mới. Vì thế tớ chán ngấy rồi. Không hẹn hò gì nữa. Chấm hết. Yesterday "Love is such an easy game to play…" *** “Hài hước, ấn tượng. Một cuốn sách cần phải đọc và thích hợp với bất kỳ ai đã từng yêu – hay thề sẽ vĩnh biệt tình yêu” (Stephen Meyer). 16 tuổi, hâm mộ ban nhạc The Beatles, Penny Lane phát ốm với đám con trai và chán ngấy việc hẹn hò sau khi mối tình với cậu bạn thanh mai trúc mã tan vỡ, mối tình khiến cô cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Bởi vậy cô nàng thề sẽ từ bỏ tình yêu và thành lập “Hội những trái tim cô đơn”, sẽ chỉ tập trung vào việc học và quan tâm tới bản thân mình. Nhưng Penny chẳng ngờ được là có bao nhiêu cô nàng cũng có tâm trạng giống mình và muốn gia nhập hội. Thậm chí cả những cô nàng trước giờ cô chưa từng nghĩ sẽ quan tâm tới nó cũng muốn tham gia. Và rồi có những điều không tưởng nổi đã xảy ra… Thế còn bạn, bạn sẽ làm gì khi bạn là thành viên sáng lập một cái hội chống-hẹn-hò nhưng lại bắt đầu rung rinh trước một anh chàng đẹp trai, dễ thương và quan trọng hơn cả anh ta rõ ràng là muốn hẹn hò với bạn? Đọc qua “Hội những trái tim cô đơn” thoạt tiên ta sẽ ngỡ cuốn sách viết cho lứa tuổi mới lớn và nó quá “trẻ” đối với những người đã trưởng thành, nhưng không hẳn vậy. Với văn phong thực sự hấp dẫn với những chủ đề xoay quanh tình bạn, tình yêu và cả những giá trị đích thực của bản thân mỗi người, Elizabeth Eulberg đã khiến mọi người cảm nhận được những điều thú vị và hấp dẫn mọi lứa tuổi trong tác phẩm của mình. “Hội những trái tim cô đơn” sẽ làm cho bạn đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác cùng với những chi tiết vui nhộn, đáng yêu. Một cuốn sách thú vị trong mùa Valentine dành tặng mọi lứa tuổi, những ai đã hẹn hò và cả những trái tim vẫn chưa tìm được nửa kia của mình. .... Mời các bạn đón đọc Hội Những Trái Tim Cô Đơn của tác giả Elizabeth Eulberg.
Hành Trình Tình Yêu - Katie Fforde
Lời thề từ bỏ đàn ông nhiều khi lại bị phá vỡ bởi chính những người đàn ông giàu lòng kiên nhẫn. Jo Edwards không bao giờ định sống trên một cái sà lan. Cô thậm chí không chắc là mình có thích thuyền hay không. Nhưng khi chồng cô đổi cô để lấy một một người mẫu trẻ hơn, cô nhận ra các lựa chọn của cô bị giới hạn một cách đáng lo ngại. Dora Hamilton không bao giờ lập kế hoạch trốn chạy trong đám cưới của chính mình. Nhưng khi ngày trọng đại đó đến gần, bàn chân lạnh lẽo của cô chẳng có dấu hiệu gì của sự ấm áp – và việc chấp nhận lời mời ẩn náu của Jo trên con tàu Ba Chị Em dường như là sự lựa chọn duy nhất. Khi Jo và Dora bắt đầu làm mới cuộc sống lộn xộn của họ, họ nhận ra cả hai cần có một cái nhìn thực tế để giúp họ ổn định. Nhưng, bất chấp lời thề từ bỏ đàn ông, họ không thể nào chống lại được sự can thiệp đầy kiên trì của anh chàng Marcus điển trai nhưng bí ẩn, cùng anh chàng Tom quyến rũ và giản dị, những người dường như quyết định giúp đỡ họ cho dù họ có thích hay không… *** Dora đặt mấy cái túi xuống và nhìn người phụ nữ đang vẫy tay với cô bên kia mặt nước. Theo hướng dẫn, cô đã bắt taxi từ nhà ga của cái thị trấn xinh xắn bên bờ sông Thames này và được thả xuống ở cổng bến thuyền. Rồi cô gọi điện thông báo mình đã tới. Bà chủ nhà mới của cô sẽ đón cô và dẫn cô vào trong. Cô vẫn nhận ra bà ấy, dĩ nhiên, nhưng mẹ người bạn thân nhất của cô đã thay đổi đôi chút so với lần cuối cô gặp bà. Bà đang mặc áo sơ mi khoác ngoài dài thòng và quần jeans thụng. Trước kia, bà thường mặc kiểu quần áo mà những phụ nữ tỉnh lẻ như mẹ cô hay mặc: váy, áo lụa, hoặc có thể là một cái áo phông ôm sát người, với áo len casơmia tròng ra ngoài. Tóc bà, vốn được chăm chút gọn gàng vì một tuần đến tiệm làm đầu một lần, bây giờ trông khá bù xù, xơ xác. Tuy nhiên, bà đang mỉm cười ấm áp, và Dora cảm thấy rốt cuộc việc tìm đến bà nương tựa có thể chẳng phải một ý kiến tồi. “Làm thế nào mà cháu xoay xở được với đống đồ này trên tàu hỏa thế?” Bà Edwards hỏi khi băng qua cây cầu tới chỗ Dora. Bà nhấc mấy cái túi “dùng được nhiều lần” căng phồng những chiếc áo len dài tay. “Và tại sao cháu lại cần chỗ áo len này? Đang là tháng Năm mà!” “Mẹ cháu nói ở trên thuyền lúc nào cũng lạnh,” Dora giải thích với vẻ áy náy. “Và những người đi cùng chuyến tàu đã giúp đỡ cháu nhiều,” cô nói tiếp, nhớ lại sự tốt bụng của họ đã gần như khiến cô òa khóc thế nào. Cô rất mong manh, điều nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến cô xúc động. “Cô thực sự nghĩ rằng, nhìn chung thiên hạ vẫn tốt bụng hơn những gì người ta đồn thổi,” bà Edwards nói, lịch sự lờ đi lời nhận xét về cái lạnh và những con thuyền. “Giờ thì theo cô.” Dora đeo ba lô lên lưng và đi theo bà trên con đường dẫn đến một cái cổng thép cao. Bà Edwards rướn người về đằng trước và chạm vào một tấm kim loại. Cánh cửa kêu bíp bíp và bà đẩy nó ra. “Cô cất chìa khóa từ trong áo lót,” bà giải thích. “Tay cô lúc nào cũng bận xách thứ gì đó. Cô sẽ đưa cháu một chìa riêng, để cháu có thể ra vào tùy ý.” Bà liếc nhìn Dora. “Được không?” Dora gật đầu và theo bà Edwards xuôi theo lối đi bộ dẫn đến dãy cầu phao. Mỗi chiếc cầu phao đều cột một con thuyền. Mặc dù rất muốn nhìn chúng, Dora vẫn mừng vì bà Edwards không dừng lại - ba lô của cô quá nặng. Họ đã đi qua khoảng bốn chiếc thuyền, chẳng chiếc nào giống chiếc nào, trước khi bà Edwards dừng lại cạnh một chiếc thuyền lớn sơn màu xanh lá cây đậm. “Đây là chiếc Ba chị em. Ban đầu nó có một cái tên Hà Lan, nhưng chẳng ai phát âm được, vì thế Michael, chủ sở hữu của nó, đã dịch tên nó ra như vậy. Đó là một cái tên phổ biến dành cho những con thuyền Hà Lan.” Bà Edwards quẳng mấy cái túi lên thuyền rồi nhảy phốc qua mạn thuyền với sự lanh lẹ không ngờ. Dora nghĩ mẹ cô sẽ phải cố hết sức mới làm được việc đó, nhưng rồi nhớ lại rằng mẹ cô đã luôn phải nỗ lực trong mọi việc, đó là một phần lý do tại sao cô ở đây. Bà Edwards quay lại, chìa tay cho Dora. “Đưa cô mấy thứ đó, rồi nếu cháu đặt chân ở kia, cháu có thể lên thuyền khá dễ dàng. Chỉ cần luyện tập một chút thì cháu sẽ nhảy lên nhảy xuống con thuyền này như một con cừu non thôi.” ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.
Dấu Vết Của Mẹ - Marta Dzido
Kịch bản không có gì đặc biệt. Hai cô cậu học trò cuối cấp và cái thai không mong muốn, cuộc trốn chạy của chàng trai vô trách nhiệm. Cô gái cố gắng sống bình thường, quên đi cậu bạn và chạy trốn sự cô đơn… Nhưng Dấu vết của mẹ là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, với một sự già dặn đặc biệt, nhất là khi tác giả viết nó lúc chưa tròn hai mươi. Với dấu vết của mẹ, Marta Dzido đã bước vào hàng ngũ những nhà văn trẻ quan trọng nhất của Ba Lan. *** Năm 1956. Một mùa hè ngột ngạt. Hai người phụ nữ ngồi chờ trước phòng khám phụ sản. Một người rất trẻ, gần như một cô bé, vì ai cũng chỉ đoán cô mười tám tuổi là cùng mặc dầu cô đã hai mươi sáu tuổi - có hẹn đến phá thai. Cô có hai con nhỏ, một ông chồng lao phổi, không việc làm, không kế sinh nhai. Người phụ nữ thứ hai - già hơn, ăn mặc chỉn chu và lịch sự - bị vô sinh, tuy nhiên bà ta vẫn đến bác sĩ với hy vọng được giúp đỡ. Họ bắt đầu nói chuyện. Cô gái chờ làm thủ thuật nói rằng cô ta không thể có đứa con thứ ba, cô không biết phải xoay sở thế nào, rằng chồng cô sắp chết, rằng cô đã kiệt sức và rằng… Người không thể có con nói: - Em cứ để đẻ đi, chị sẽ nhận cháu bé, chị sẽ nuôi dạy nó, yêu thương nó… - Không, không thể như thế được - cô gái muốn bỏ cái thai nói. - Chị sẽ trả tiền cho em - người thứ hai nài nỉ. - Không mà, chị... - Nhưng chị sẽ trả thật mà. Nhiều… - và chị ta rút từ ví ra một tệp tiền. - Đây, em cầm đi, em cứ cầm rồi suy nghĩ, được không? - Xin chị để cho tôi yên - cô gái chờ làm thủ thuật nói. Cô ta đứng dậy rồi chạy khỏi bệnh viện. Sáu tháng sau cô ta sinh một bé gái. Hai mươi bốn năm sau bé gái ấy sinh một bé gái khác.   Năm 2000. Cô gái út trong số ba chị em gái đã lớn. Mặc dù đã hai mươi tuổi nhưng trông cô như một đứa trẻ con và không một ai có thể nghĩ rằng cô lại là mẹ của một bé gái mấy tháng tuổi. Lại một mùa hè ngột ngạt, và cô gái ngồi trong bệnh viện, chờ vào khoa phụ sản. Bây giờ để phá thai phải trả hai ngàn zloty. Ngồi cạnh cô là một phụ nữ ăn mặc chỉn chu và lịch sự, nhưng họ không chuyện trò gì. Cô gái đã hẹn với bác sĩ, người sẽ làm cái việc phá thai. Từ hai ngàn, anh ta giảm xuống tám trăm, có lẽ anh ta thấy thương cho cô. Cô ta đến chỗ bác sĩ với cái thai năm tuần tuổi và một đứa bé ba tháng tuổi trên tay, cô nói là bác sĩ của bệnh viện bảo cho con bú sữa mẹ đều đặn là biện pháp tránh thai tốt nhất. Rằng hoóc môn của thuốc tránh thai sẽ vào sữa và có hại cho đứa trẻ, còn đặt vòng thì lại quá sớm. Cô ta tin, vì bác sĩ cơ mà, nhất định phải biết thế nào là tốt nhất chứ. Và giờ đây cô đang mang thai, cái thai mà chỉ một tiếng nữa thôi sẽ không còn nữa. Khi mọi việc đã xong xuôi, cô gái như trút được gánh nặng, nhưng lại thấy xấu hổ vì không biết sẽ phải kể về chuyện này như thế nào và với ai. Cô không biết cái việc cô vừa làm xong được gọi là gì. Cô im lặng rất lâu, cho tới khi không giữ nổi nữa cô bèn viết sách. Về phá, nạo, vét, về phương pháp hút chân không, về sẩy thai, về tiết dịch và máu. Cô viết cuốn sách mà chỗ này chỗ kia còn khập khiễng, non nớt, lộn xộn, ngây thơ, một số câu bộc lộ vẻ ngoài kiêu căng của một nữ sinh trung học. Cô viết xong và lại thấy nhẹ nhõm. Cô mang cuốn sách đến nhà xuất bản, nhưng giám đốc nhà xuất bản, chị Beata S. nói với cô rằng không thể để thế được, rằng nếu đã viết cuốn sách về nạo phá thai thì cần phải có quan điểm rõ ràng, ủng hộ hay phản đối, và phải nói được điều đó một cách sáng sủa, dễ hiểu. Làm sao để độc giả không phải băn khoăn. Và nói chung là cần phải đầu tư thêm thời gian công sức. Nhưng cô gái đã không còn muốn nữa, cô cứ để cuốn sách nguyên xi như vậy, và mấy năm sau cô viết một cuốn sách khác. Lần này thì cuốn truyện thành công. Viết về thất nghiệp, về dân thủ đô hợm hĩnh ngạo mạn và về những cuộc hôn nhân thất bại. Cô gái xuất hiện trên báo chí và truyền hình, ở đấy cô không biết phải nói gì, mà họ thì hỏi đủ thứ - về nữ quyền, về giáo hoàng và về thế hệ gì gì đấy. Cô cười tươi, rụt rè nói: “vâng, vâng” hoặc là “không, không”. Không được một câu dài hơn. Cuối cùng người xuất bản, ông Piotr M. thuộc công ty đưa ra dự kiến: - Hay là chúng ta in cái cuốn về phá thai ấy? Nhưng cô gái do dự. Vì đã sáu năm rồi và có lẽ bây giờ tốt hơn nên viết cuốn mới chứ đừng có lôi mấy cái chuyện cũ rích ấy ra, không được đâu, mà cô cũng không muốn mất công vào đó nữa… Cuối cùng cô trả lời: - Nhưng đấy đâu có phải là văn chương hay ho gì… - Không sao - tiếng của người xuất bản trong ống nghe - nó chân thực và nói về một vấn đề quan trọng… - Nhưng em sợ - cô gái nói vào ống nghe - là mọi người sẽ hỏi đây có phải là viết về em không và có đúng là em phá thai không? - Đừng sợ, em có con cơ mà, đó là minh chứng tốt nhất cho việc em không phá thai… - Piotr M. nói. ... Mời các bạn đón đọc Dấu Vết Của Mẹ của tác giả Marta Dzido.
Cô Gái Đằng Sau Chiếc Mặt Na - Neilani Alejandrino
Một câu chuyện tình cảm động và lãng mạn như hàng ngàn câu chuyện tình khác. Jade Một bộ tóc giả màu đen, một cặp kính gọng đen choán gần hết khuôn mặt cùng bộ quần áo lỗi thời, tất cả mọi người đều cho rằng cô là một cô gái lập dị, xấu xí hoặc một cô gái đến từ thời cổ đại. Cô đã quen với việc trở thành trò cười cho những người xung quanh Thế nhưng đâu mới là con người thật sự của Jade Collins? Tại sao cô lại che giấu vẻ đẹp thực sự của mình? Điều gì sẽ xảy ra khi sếp của cô, ngài Eros Petrakis nhận ra con người thật của cô? Liệu cô có thể cảm hóa được con người lạnh lùng và tàn độc ấy? Eros Một người đàn ông hoàn hảo, đẹp trai, quyền lực, tài giỏi, giàu có cùng một cơ thể quyến rũ khiến mọi phụ nữ đều phải cúi rạp dưới chân anh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những thứ hào nhoáng bên ngoài đó, anh là một người vô cùng tàn nhẫn, ngang ngược, lạnh lùng và vô cảm. Anh là cơn ác mộng tồi tệ nhất đối với những ai dám đối đầu với anh. Mọi người nghĩ rằng anh chính là một tên ác quỷ. Anh không bao giờ cười, không bao giờ nói "làm ơn" cũng không bao giờ nói hai từ xin lỗi. Tất cả nhân viên đều kính sợ anh. Anh có thể sa thải họ bất cứ lúc nào chỉ với một cái búng tay. Điều gì đã khiến anh để ý tới Jade? Anh sẽ phản ứng như thế nào khi phát hiện ra con người thật sự của cô đằng sau vẻ bề ngoài lập dị ấy? *** Vẻ đẹp của một người phụ nữ không nằm ở thứ trang phục mà cô ấy khoác trên người, thân hình hay cái cách mà cô ấy làm dáng. Vẻ đẹp của người phụ nữ nằm trong đôi mắt bởi đó chính là cánh cửa dẫn tới trái tim của cô, nơi tình yêu ngự trị. Vẻ đẹp thực sự của một người phụ nữ phản ánh tâm hồn của cô ấy. Đó là sự quan tâm mà cô cho đi, là những đam mê mà cô theo đuổi. Vẻ đẹp của người phụ nữ sẽ lớn dần theo năm tháng. — Audrey Hepburn Jade “Chào buổi sáng bà Chang. Tối qua bà ngủ ngon chứ?” Tôi vui vẻ gửi lời chào tới sếp của tôi, bà Grace Chang, một quý bà 65 tuổi. Tôi rất lo lắng bởi bà thường hay bị đau đầu và không thể ngủ ngon vào buổi tối. Bà Chang là chủ của một quán Café nhỏ ở Manhattan, New York nơi mà tôi sinh sống. Tôi là một thu ngân. Tôi làm việc từ 8 giờ sáng cho tới 8 giờ tối từ thứ 2 cho tới thứ 6. Cửa hàng không có đủ nhân viên vì vậy tôi phải làm rất nhiều việc. Tôi vừa là phục vụ, vừa pha café và đôi khi tôi còn phải lau dọn cửa hang sau khi tan việc. Tôi không thể phàn nàn về những điều đó vì bà Chang trả lương cho tôi khá hậu hĩnh. Thật sự thì cũng không đến mức quá hậu hĩnh nhưng ít nhất cũng đủ cho tôi và gia đình được ăn uống đầy đủ tươm tất và thanh toán các loại hóa đơn. “Chào Jade, tôi ngủ rất ngon, cảm ơn cháu. Mấy viên thuốc giảm đau mà tôi uống tối qua cuối cùng cũng đã phát huy tác dụng”. Bà cười với tôi đầy trìu mến. “Thật tuyêt, bác sĩ của bà đã nói sao?” tôi vừa hỏi vừa nhét cái túi da đã sờn màu cùng cái áo khoác len cũ vào trong ngăn tủ. Sau đó chỉnh lại mái tóc giả của mình và tháo cặp kính to quá khổ so với khuôn mặt xuống để lau chùi. “Chỉ là chứng đau nửa đầu thôi. Không có gì nghiêm trọng” Tôi mừng là cuối cùng bà cũng chịu nghe lời tôi. Tôi đã nói với bà nhiều lần về việc chăm sóc sức khỏa nhưng bà không chịu nghe. Bà có một nỗi ám ảnh đối với bệnh viện, trạm y tế và bác sĩ. Hẳn là bà đã phải trải qua một điều gì đó vô cùng đau buồn khi con nhỏ. “tối qua, vợ của George đã sinh” “Thật sao? Cháu thấy mừng cho họ. Sau 5 năm, cuối cùng họ cũng đã có con. Là một cô bé phải không bà?” Tôi cảm thấy vô cùng mừng cho George, anh chàng pha chế café của quán. “Đúng vậy. Thêm vào nữa thì hôm anh ta cũng không thể đi làm được, cháu có thể lấp chỗ trống của anh ta được không?” Ôi trời, điều đó đồng nghĩa với việc tôi sẽ phải đảm nhận hai công việc một lúc. “Dạ vâng, được ạ. Cháu có thể xoay sở được”. Tôi cười và vuốt lại mất nếp nhăn trên bộ váy hoa màu nâu mà tôi đang mặc. Thật ra thì đây là chiếc váy yêu thích của tôi, tôi mặc nó rất thường xuyên. Nó là của bà tôi. Đúng ra thì hầu hết quần áo trong tủ của tôi đều là của bà. Đã gần đến giờ của hàng mở cửa, tôi phân vân tự hỏi không biết tại sao những nhân viên khác, Suzanne và Kurt vẫn chưa đến. Suzanne là phục vụ, công việc của cô là nhận order và bưng bê thức ăn. Kurt là nhân viên lau bàn ghế, sàn nhà và nhà vệ sinh. Gần đây, tôi phát hiện ra rằng Suzanne và Kurt đang yêu nhau. Tôi đã bắt gặp họ trong nhà vệ sinh. Họ quên không khóa cửa. “Dừng lại, đừng nói với bà Chang về điều này hoặc tôi sẽ bẻ gẫy xương cô” Kurt đe dọa tôi. Hắn ta thậm chí còn vặn tay tôi ra sau lưng. Tôi phát khóc vì bị đau “Tôi sẽ không nói với ai, tôi hứa. Làm ơn hãy thả tôi ra”. Tôi cầu xin. Cuối cùng thì hắn ta cũng buông tay tôi ra. “Tốt. Hay nhớ kĩ điều đó” Cặp mắt hắn nhìn tôi chằm chằm đầy tức giận. Tôi xoa bóp cánh tay mình, nó đỏ ứng và nhức nhối. “Rồi, giờ thì ra ngoài đi đồ xấu xí. Cô sẽ không muốn tiếp tục ở trong này đâu.” Suzanne cười lớn và đẩy tôi ra ngoài. Đúng vậy, họ thường xuyên bắt nạt, chế nhạo tôi còn tôi thì đã quen với điều đó. Tôi làm như không nghe thấy những từ ngữ khinh miệt từ họ. Tôi không muốn gây sự với họ. Tôi rất cần công việc này, cả gia đình tôi đều trông chờ vào tôi. Thêm vào nữa thì bà Chang là một người chủ rất tốt. “Jade, tôi ở trong nhà bếp. Nếu cháu cần gì thì hãy gọi tôi nhé” “Vâng, thưa bà” Tôi mặc chiếc tạp dề màu đen và chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón vị khách đầu tiên. Tôi đi vào trong phía quầy phục vụ, bật máy thu ngân và máy pha cafe. Tôi đã học được cách pha café từ George, anh nhân viên pha chế. Trong gần một năm làm việc trong quán café, anh ta đã dạy tôi tạo hình nghệ thuật trên tách café và cách để pha chế một cốc Espresso hảo hạng. Tôi đã chăm chỉ học hết những điều mà anh ta chỉ bảo về cafe, toàn tâm toàn ý thu nhận kiến thức. Khi tôi đang lau chùi quầy phục vụ thì vị khách đầu tiên vào quán. Hai người đàn ông trong bộ vest đen và kính đen bước vào. Họ làm tôi nhớ đến bộ phim “Men in black”. ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đằng Sau Chiếc Mặt Na - Neilani Alejandrino.