Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lạc Lối Về

(Bản Việt ngữ này được dịch từ bản tiếng Pháp Rentrez chez vous, Bogner! của André Starcky, Le Seuil ấn hành, 1954. Nguyên bản tiếng Đức: Und Sagte Kein Einziges Wort, ấn hành 1953.) Lạc lối về là câu chuyện về một ngày đời của một con người sau chiến tranh. Là tiếng nói cất lên trên hoang tàn đổ nát làm rung động lòng người Tiểu thuyết Lạc lối về kể lạimột ngày của một người đàn ông mà chiến tranh đã làm cho “gãy cánh”, phải rời bỏ vợ con mà anh yêu nhất đời vì không thể chịu nổi cảnh cùng cực, để lại buồn chán hơn trong mùi vị đắng chát của sự nghèo khổ cùng ký ức hãi hùng của chiến tranh. Ngoài những công việc hằng ngày để kiếm tiền gửi cho vợ con, anh lang thang qua các công viên hẻo lánh, các khoảng đất trống, vào các quán rượu để say với nỗi buồn, vào nghĩa trang để trò chuyện cùng người chết. Anh hẹn với vợ trong một khách sạn như một tình nhân lén lút, một bóng hình yêu thương nhưng chưa hiện hữu bao giờ, một tâm hồn gần gũi đồng thời xa lạ, đêm đêm vẫn khóc thầm vì anh, vì con cái, vì cảnh đời cơ cực nhẫn tâm. Anh có còn nhận ra nàng? Hay nàng chỉ là hình ảnh của một quá khứ mà ý thức khốn khổ của anh (hay đúng hơn là vô thức khốn khổ) muốn phủ nhận một cách vô vọng? Cuối cùng, “trở về” vẫn là sự lựa chọn dũng cảm nhất của con người, lựa chọn tương lai bắt đầu từ một thái độ chấp nhận sáng suốt thực tại đổ vỡ, kết thúc những bước đường lang thang, lạc lối. Sự lạc lối và trở về của nhân vật chính phải chăng cũng chính là thông điệp của Heinrich Böll về tình trạng suy tàn hậu chiến để đối diện mất mát, kiến tạo lại từ đầu những giá trị nền tảng trong cuộc sống. VỀ TÁC GIẢ Heinrich Böll, tên đầy đủ: Heinrich Theodor Böll (1917 – 1985) Là nhà văn Đức quan trọng bậc nhất sau Thế chiến thứ hai. Tác phẩm của ông được thể hiện sinh động bằng ngòi bút chân thực và đầy tính nhân văn về cuộc sống con người trong thế giới hoang tàn của chiến tranh, ở đó, họ biết yêu thương, phản kháng, biết can đảm nhìn thẳng vào định mệnh để vượt qua nó. Ông được trao giải Nobel Văn học năm 1972. Những tác phẩm nổi bật của Heinrich Theodor Böll gồm: Der Zug war pünktlich (Chuyến tàu đến đúng giờ, 1949) Wo warst du, Adam? (Người ở đâu, Adam?, 1951) Und sagte kein einziges Wort (Và đã không nói một lời duy nhất, 1953), Haus ohne Hüter (Ngôi nhà không người chăm nom, 1954) Gruppenbild mit Dame (Bức chân dung tập thể với một quý bà, 1971) Frauen vor Flusslandschaft (Phụ nữ trên miền sông nước, 1985) VỀ DỊCH GIẢ Huỳnh Phan Anh Tên thật: Huỳnh Thành Tâm, sinh 1940 tại Bình Dương.  Học ĐH Sư phạm, ngành Triết học tại Viện Đại học Đà Lạt (1960-1964), sau đó trở thành giáo sư dạy Triết, một cây bút truyện ngắn, tiểu luận phê bình và dịch thuật. Các dịch phẩm:   Một mùa địa ngục (thơ Arthur Rimbaud) Tuyển thơ tình yêu (thơ Paul Eluard) Thơ Yves Bonnefoy Chuông gọi hồn ai (Ernest Hemingway) Sa mạc (tiểu thuyết J.M.G Le Clézio) Tình yêu và tuổi trẻ (tiểu thuyết Valery Larbaud) Bãi hoang (Jean-René Huguenin) *** Bữa rồi vừa đọc xong Đứa con đi hoang trở về của André Gide thấy quyết định trở về của gã trai trẻ sao mà dễ dàng đến thế? Cho tới khi đọc Lạc lối về thì mình nhận ra rằng, để đi đến quyết định dễ dàng ấy, người ta đã phải lạc lối biết bao nhiêu, đau khổ biết bao nhiêu,… Vì thế mình càng thấy thấm câu dạy của ông bà mình: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Một khi ai đó đã cất bước ra đi, họ phải có lý do cho điều đó. Và khi họ trở về thì cũng sẽ có lý do. Cho nên điều mà những người ở lại cần làm là dang tay đón nhận họ. Vì bản thân họ đã tổn thương và lạc lối nhiều lắm rồi.   Có bạn kia nói Lạc lối về của Heinrich Böll buồn bã và thẳng thắn về cái nghèo, cảm giác như đọc Nam Cao (với nhiều rượu, cà phê và đồ ăn tây hơn, ví dụ cảnh đi vay tiền). Còn mình thì thấy giống Trần Dần (Những ngã tư và những cột đèn) hơn. Cái bi kịch của những người đàn ông tham chiến và hậu chiến nó dằn xé không chỉ bản thân họ mà còn cả những người thân bên cạnh họ rất rất nhiều.  Ngày trở về với đời sống gia đình – vợ con – của người lính là nhà cửa không còn, cái nghèo lấn chiếm vào từng ngõ ngách cuộc đời, cộng với những ký ức kinh hoàng của chiến tranh đã khiến cho anh – người lính ấy bị “gãy cánh” và lạc lối. Anh chọn cách lang thang, bợ đỡ rượu – thuốc và lề đường. Bi kịch nhất là phải dan díu với chính vợ mình như thể người xa lạ ở một khách sạn bình dân rẻ tiền. Đọc tới đoạn này mình mới thấm câu hát đang được hot trend những ngày gần đây: “Nhiều khi muốn một mình nhưng sợ cô đơn Sợ cảm giác trống vắng mỗi ngày mỗi lớn Sợ chạm vào nỗi nhớ vu vơ Gian gian díu díu mập mờ Nắm chưa xong đã vội đổ vỡ…” Tình cờ mình vừa đọc được bài thơ “Và vợ người lính nhận được gì?” – Bertolt Brecht.  Bài thơ bắt đầu bằng câu hỏi “Và vợ người lính nhận được gì” từ một thành phố mà người lính chiến đấu, sau đó là câu trả lời: đôi giày cao gót, chiếc áo vải lanh, cổ áo lông thú…, và kết thúc bằng câu “Nàng nhận được nó từ [thành phố trên kia].”  Người lính trong bài là một người lính Nazi. Y đi chiến đấu khắp nơi và mang về cho vợ những “món quà” mà y cướp được. Và “món quà” cuối cùng, là cái chết của y ở Nga, thời điểm bài thơ cho thấy đó là trận Stalingrad…. Về nội dung thì người vợ trong bài thơ này và người vợ trong câu chuyện Lạc lối về không giống nhau. Nhưng cái mình muốn nói là nghĩa bóng của câu hỏi tu từ “Và vợ người lính nhận được gì?”. Kate trong Lạc lối về nhận được sự nghèo khó, khinh khi; cô nhận được sự chia lìa, xa cách với chồng. Cô phải chăm những đứa con, phải nhìn chúng lớn trong nghèo khổ, phải thấy mình già đi mà không thể thay đổi được điều gì. Fred lạc lối trong đống đổ nát của tâm hồn người lính tham chiến cuộc chiến vô nghĩa, còn Kate lạc lối trong tâm hồn ngày một trống rỗng do Fred đập phá từng giờ từng khắc. Đọc Lạc lối về có cảm giác chiến tranh chưa khi nào chấm dứt, nó vẫn âm thầm tồn tại, xé tan hoang cái bình yên trong mỗi con người, từng mối quan hệ. Chiến tranh không chỉ tồn tại ở tiếng bom đạn, tiếng súng. Chiến tranh làm người ta héo mòn dần vì không biết đến ngày mai, nhưng hậu chiến, sau những giờ nhàm chán trong sự căng thẳng, người ta lại tàn úa cả cách trở về đời sống trước kia, bởi người ta đã chết trên những mặt trận vô bổ, người ta không còn cùng một tiếng nói – một quan điểm – cái nhìn với những người ở cách xa mặt trận ấy.    “Trong chiến tranh anh say vì buồn chán. Em không thể tưởng tượng người ta say vì buồn chán ra làm sao; sau đó người ta nằm trên giường và tất cả quay cuồng trước mắt. Em cứ thử uống ba gàu nước ấm, nước cũng làm em say mèm như sự buồn chán vậy. Và chiến tranh thì buồn chán không thể tưởng tượng được”.   Để có thêm góc nhìn và nhiều cảm xúc khác về những con người hậu chiến, xin mời bạn đọc thêm Những thứ họ mang của Tim O’Brien. Còn mình thì đang đọc Ký ức lạc loài của W.G. Sebald – một tác phẩm buồn hơn cả chữ buồn khác về những mảnh đời, số phận hậu chiến – mình sẽ sớm review khi cảm xúc ổn định trở lại *** Công việc xong, tôi đến ngân hàng lãnh tiền. Nhiều người đang chen chúc nhau trước phòng phát ngân, tôi phải đợi hết nửa tiếng đồng hồ mới trình được tấm chi phiếu cho người thủ quỹ để người này trao cho một cô gái mặc áo bờ-lu vàng. Cô gái ấy đến bên một hàng thẻ, rút tấm của tôi ra, nói: “hợp lệ”, và trả tấm chi phiếu lại cho viên thủ quỹ. Hắn thận trọng trải những tờ giấy bạc lên mặt đá. Tôi kiểm lại tiền, bước ra phía cửa và đến bên một chiếc bàn nhỏ cạnh đó để cho tiền vào một phong bì và viết mấy hàng cho vợ tôi. Trên bàn vung vãi những mẩu giấy xuất tiền màu hường, tôi nhặt một tấm và viết bút chì lên mặt trái: “Anh phải gặp em ngày mai, anh sẽ gọi điện về trong vòng hai tiếng đồng hồ”. Tôi cho thư vào phong bì trước tiên, rồi đếm những tờ giấy bạc, liếm vào phần có bôi keo nơi mặt trái, nhưng sau một phút lưỡng lự, tôi lấy ra một tờ mười đồng mác cho vào túi áo. Tôi viết tiếp vào giấy. “Anh giữ lại mười mác: anh sẽ trả lại cho em vào ngày mai. Hôn các con. Fred”. Nhưng rồi lớp keo không còn dính nữa! Tôi đến bên một cái ghi-sê trống, nơi phát tiền. Ở bên kia, một cô gái đứng dậy và kéo tấm gương lên, nàng có nước da nâu, người ốm và mặc một chiếc áo đan màu hường cài một cành hoa nhân tạo nơi cổ. Tôi hỏi nàng: “Có thể cho tôi xin một tờ giấy có dán keo được không cô?”. Nàng nhìn tôi lưỡng lự, đoạn xé một mẩu giấy từ một cuộn giấy màu nâu sẫm trao cho tôi, không nói một tiếng nào, và đóng ghi-sê lại. Tôi nói cảm ơn về phía tấm gương, trở về bàn, dán thư lại và rời ngân hàng sau khi kéo mũ bê-rê sụp xuống. Trời mưa, ngoài đại lộ, những chiếc lá rời rạc đáp xuống mặt nhựa. Tôi đứng trước cửa ngân hàng, đợi chuyến xe 12 rẽ nơi góc đường. Tôi xuống đến quảng trường Tuckhoff. Chiếc xe điện trờ tới, tôi bước lên. Xe chất đầy người, quần áo họ toát ra một mùi ẩm ướt. Cơn mưa còn dữ hơn khi tôi bước xuống quảng trường Tuckhoff. Tôi đã không mua vé ngồi. Tôi chạy vào đụt mưa dưới mái hiên một cửa hiệu bán xúc xích. Tôi bước vào quầy hàng, gọi một miếng xúc xích nướng và một chén canh, đoạn mua mười điếu thuốc và móc tờ giấy mười đồng mác trả. Tôi vừa nhai xúc xích vừa nhìn vào tấm gương ở cuối cửa tiệm. Thoạt đầu tôi không nhận ra mình, tôi ngắm nghía cái khuôn mặt hốc hác, thiểu não dưới chiếc mũ bê-rê xơ xác kia. Tôi chợt thấy mình trông giống như người bán hàng rong dạo nào mà mẹ tôi không hề xua đuổi bao giờ. Bà không có can đảm làm việc đó. Khuôn mặt họ chìm lẫn trong bóng tối của nhà trên, hiện lên một nỗi tuyệt vọng thảm khốc, thỉnh thoảng tôi mở cửa cho họ vào, và khi, trong cơn sợ sệt, tôi vừa trông chừng tủ áo vừa gọi mẹ. Mẹ tôi từ bếp bước lên, hai bàn tay chùi vào tấm tạp dề, mặt mày họ sáng lên một cách kỳ lạ và đáng ngại. Những con người đó, họ bán thuốc giặt hoặc sáp, dao cạo râu hoặc những sợi dây giày. Bởi vì hạnh phúc khi nó soi sáng được những con người quen sống cơ hàn thì trông thật khủng khiếp. Chỉ cần trông thấy mẹ tôi, người ta cũng cảm nhận được niềm hạnh phúc đó. Không nỡ đuổi xô một ai, mẹ tôi vẫn mang bánh mì và tiền bạc cho những người hành khất, nếu có, hay ít ra bà cũng cho họ một tách cà phê. Khi không có gì, bà cho họ uống nước lạnh đựng trong cái ly sạch sẽ và gửi đến họ niềm an ủi, khích lệ chứa đựng trong cái nhìn của bà. Chung quanh nút nhận chuông, những cái khấc và những dấu hiệu khác của bọn ăn xin cứ gia tăng lên mãi, và một người bán rong luôn được dịp đặt một món đồ, dù là chỉ một sợi dây giày để đổi lấy một đồng tiền nhỏ nhoi. Trước mặt những người đại diện thương mãi, mẹ tôi cũng có thái độ dễ dãi, buông xuôi như vậy, bà không cứng cỏi được trước vẻ mặt của những con người đó, cũng khổ sở không kém gì những kẻ khác, và bà sẵn sàng ký những hợp đồng mua bán, bảo hiểm hoặc đặt hàng. Thuở nhở, tôi nhớ có lần nằm trên giường, nghe cha tôi trở về nhà vào buổi chiều, và cuộc cãi vã bùng nổ ngay khi ông đặt chân vào phòng ăn, một cuộc cãi vã giữa những bóng ma, trong đó mẹ tôi chỉ đóng vai trò thứ yếu, khiêm nhường. Đó là một người đàn bà nhẫn nhục. Trong số những người đến nhà chúng tôi có một người đội chiếc mũ bê-rê nhàu nát tên Disch mà sau này tôi được biết là một người tu xuất, hắn đi bán thuốc giặt. Như vậy, vừa ăn món xúc xích nóng từng làm đau những nướu răng hư của tôi, tôi nhận ra, nhờ tấm gương của cửa tiệm, rằng mình giống một người tên Disch: mũ bê-rê, khuôn mặt tiều tụy và thiểu não, cái nhìn buồn bã, tất cả đều ở đó. Tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy những khuôn mặt của bọn người ngồi cạnh tôi, những cái miệng há hốc chực chờ khép lại trên một mẩu xúc xích, những vụn thịt biến mất sau những chiếc răng vàng khè, trong những khoảng hổng tăm tối, tôi trông thấy những chiếc nón còn tốt, những chiếc nón đã cũ kỹ, những mái đầu trần tóc tai ướt đẫm, tất cả làm tăng thêm vẻ hồng hào, bụ bẫm của khuôn mặt người đàn bà bán xúc xích. Bà ta tươi cười dùng một cái nĩa bằng cây để vớt những miếng xúc xích đang nổi trên mặt nước mỡ, bôi hột cải lên một vuông giấy bồi, chuyền vào giữa những cái miệng đang nhai ngấu nghiên, thu về những tờ giấy bồi bẩn thỉu bôi đầy hột cải, bán thuốc lá và nước chanh, cất tiền, luôn luôn bằng những ngón tay hồng hào, bụ bẫm trong khi mưa vẫn tiếp tục gõ trên mái hiên. Còn tôi, khi tôi cắn vào miếng xúc xích, khi tôi hả họng ra và đằng sau những chiếc răng vàng khè của tôi hiện ra cái lỗ đen ở đầu cuốn họng, chính tôi lại có cái vẻ tham ăn mà tôi đã từng gớm ghiếc nơi kẻ khác. Đầu của chúng tôi trồi lên ở đó, giống như trên một sân khấu múa rối, dật dờ trong hơi nóng bay lên từ những cái chậu. Tôi sợ sệt, vùng thoát ra và chạy qua cơn mưa để chạy tới đường Mozart. Nhiều người đang đổ dồn dưới những bức mành mành của các cửa tiệm, đợi tàn cơn mưa. Đến phòng làm việc của Wagner, một lần nữa tôi phải dùng khuỷu tay mới đến được bên cánh cửa và ráng hết sức để kéo nó về phía tôi bởi cánh cửa mở ra phía bên ngoài. Sau cùng tôi cảm thấy nhẹ nhõm, bước xuống những bậc thang, ngửi phải mùi da xông lên từ những chiếc giày mòn cũ thấm đẫm mồ hôi, mùi da tươi thoảng mùi nhựa thông, trong khi chiếc máy may cũ vẫn chạy đều. Tôi đi ngang qua trước hai người đàn bà đang ngồi đợi trên chiếc ghế dài, thò tay mở cửa kính và tôi lấy làm sung sướng bắt gặp nụ cười trên khuôn mặt của Wagner khi lão trông thấy tôi. Tôi quen biết với lão đã ba mươi lăm năm rồi bởi chúng tôi ở ngay phía trên cửa tiệm của lão - đúng vậy, ở phía trên, ở một khoảng nào đó phía trên khoảng xi măng giờ đây phủ lấy xưởng làm việc của lão - lúc đó tôi mới lên năm và tôi đã mang những chiếc giày của mẹ tôi đến cho lão. Phía sau chiếc ghế của lão, tượng Chúa Ki tô trên thập tự giá treo trên vách, bên cạnh tượng thánh Crépin, một lão già hiền lành với một chòm râu màu muối tiêu cầm một cái chân sắt trong đôi bàn tay được chăm sóc quá kỹ, trái hẳn với đôi bàn tay của người thợ đóng giày. Tôi chìa tay ra trước Wagner, lão ném cái nhìn về phía chiếc ghế đẩu nơi đầu bàn bên kia, ra dấu cho tôi ngồi, lão ngậm một mớ đinh trong miệng. Tôi ngồi xuống ghế, móc phong bì từ trong túi ra và Wagner đẩy về phía tôi hộp thuốc và giấy quấn thuốc. Nhưng điếu thuốc của tôi hãy còn cháy, tôi còn nói với lão: “Cám ơn”, và vừa đưa phong bì cho lão, tôi nói: “Có thể…” Lão lấy những cây đinh trong miệng ra, đưa ngón tay sờ lên đôi môi khô héo để yên trí rằng không còn cây đinh nào dính trên miệng, và nói: “Lại một món nhờ gửi cho vợ cậu…” Lão cầm lấy phong bì trong đôi tay, ngẩng đầu lên, nói: “Được rồi, tôi sẽ gửi đi khi thằng cháu tôi nó xưng tội về trong… - lão nhìn đồng hồ tay - trong nửa tiếng đồng hồ thôi”. Tôi nói: - Hôm nay vợ tôi cần tiền rồi, có tiền trong đó. - Tôi biết, lão nói. Tôi bắt tay lão và bước ra ngoài. Khi bước trở lên những bậc thang, tôi chợt nghĩ là tôi có thể mượn tiền lão và lưỡng lự trong giây phút, nhưng khi nghĩ lại, tôi mạnh dạn bước lên bậc thang sau cùng và lách đi giữa đám người đang chen chúc trên lề đường. Năm phút sau khi tôi bước xuống xe buýt tại đường Benekam thì trời hãy còn mưa. Tôi chạy đi giữa những đầu hồi cao của những ngôi nhà kiến trúc theo lối gô-tích được gia cố bảo tồn vì giá trị lịch sử của chúng. Qua những lỗ hổng của các khung cửa sổ cháy nám, người ta thấy xuất hiện một bầu trời xám thẫm. Tôi nhảy đến dưới máy hiên của ngôi nhà duy nhất có người ở, nhận chuông và đứng đợi. Người giúp việc có đôi mắt dịu hiền và nâu thẫm, trong đó tôi có thể đọc được niềm trắc ẩn tương tự với tình cảm ngày nào của tôi về những con người mà giờ đây tôi bắt đầu thấy có điểm tương đồng. Nàng cởi áo khoác giúp và lấy chiếc nón ra khỏi đầu tôi, giũ chúng ở trước cửa cho ráo nước và nói: “Trời đất, chắc là ông ướt tới xương rồi”. Tôi gật đầu và tiến đến trước tấm gương, đưa hai bàn tay lên vuốt tóc. Tôi hỏi: - Bà Beisem có ở nhà không? - Không. - Bà ấy có biết ngày mai là một tây không. - Không, cô ấy trả lời và nàng đưa tôi vào phòng khách, đẩy chiếc bàn về phía lò sưởi và mang đến cho tôi một chiếc ghế, nhưng tôi vẫn đứng quay lưng về phía lò sưởi nhìn thấy cái đồng hồ xưa đến một trăm năm mươi tuổi của gia đình Beisem. Gian phòng bày biện ngổn ngang những đồ vật cổ, những khung cửa sổ lắp kính gô-tích. Mời các bạn đón đọc Lạc Lối Về của tác giả  Heinrich Böll & Huỳnh Phan Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùa Mưa Ở Singapore
Mùa mưa ở Singapore xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang hai dòng máu Việt - Singapore gốc Trung tên Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của hai nhân vật, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây. Minh Tuyên đã từng yêu rất chân thành, nhưng vì hoàn cảnh, số phận và những câu chuyện kể rất đỗi thực, mà Di - người yêu đầu của cô cảm thấy quá khó để tiếp nhận và cứ thể quay bước ra đi. Ngược lại với Di, Kỳ Phong - anh chàng Việt Nam, dù chưa ở bên Minh Tuyên bao lâu, nhưng lại có ước muốn mãnh liệt được chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. *** Nội dung của truyện xoay quanh mối tình của cô họa sĩ đường phố mang trong mình hai dòng máu Việt - Sing gốc Trung tên là Minh Tuyên và một du học sinh người Việt tên Kỳ Phong. Qua ngôi kể của Minh Tuyên và Kỳ Phong, cuộc sống hằng ngày của những người dân nhập cư trong khu Chinatown, khu Tiểu Ấn… hiện lên khá phong phú và được khắc họa rõ nét. Minh Tuyên với nguồn gốc xuất thân khá phức tạp: Mẹ cô là người Việt vượt biên, bị lừa bán vào một nhà chứa và gặp cha cô tại đây, ông đem lòng yêu bà và quyết tâm mang bà ra khỏi chốn này. Cuộc sống bao nhiêu năm không được như ý muốn khiến một lần nữa, mẹ Minh Tuyên lại sa vào chốn cũ. Bà cùng người tình lên kế hoạch vượt biển về Việt Nam nhưng bị bại lộ. Mẹ Minh Tuyên đã tự kết liếu đời mình bằng cách cắt tóc mình, bện lại, quấn vải xung quanh để thắt cổ. Nỗi khổ đau lớn nhất trong cuộc đời Minh Tuyên là cha cô bắt cô vẽ lại gương mặt của mẹ mình khi đó làm di ảnh thờ. Cũng khởi nguồn từ bi kịch này, Di - người đàn ông của Minh Tuyên đã rời bỏ cô trong sự im lặng sau khi tìm hiểu được mọi chuyện. Ngược lại với Di, sau khi có được tình yêu từ Minh Tuyên và được cô kể cho nghe mọi chuyện, Kỳ Phong có ước muốn mãnh liệt là được ở bên cạnh, chở che cho Minh Tuyên và muốn lấy cô làm vợ. Nhưng tình yêu của họ gặp phải sự ngáng trở từ An Nhiên - một cô bạn “thanh mai trúc mã” với Kỳ Phong từ thuở nhỏ, người cứ đinh ninh sau này sẽ chỉ mình trở thành vợ của anh. Cộng thêm sự hậu thuẫn từ gia đình Kỳ Phong, An Nhiên đã “ngầm lôi kéo” được Kỳ Phong trở về Việt Nam. Buổi chia tay Kỳ Phong không hẹn ngày gặp lại, anh cũng không biết rằng có một mầm sống đã tượng hình trong cơ thể Minh Tuyên sau lần ân ái ban đầu. Một tai nạn không may đến với Minh Tuyên, cô mất đi đứa bé khi cái thai mới được vừa ba tháng. Trong sự bơ vơ, cô đơn đến tận cùng, cô chấp nhận đi Bắc Kinh cùng Caleb - một người mà cô không yêu, chỉ tồn tại một tình bạn. Ngày Kỳ Phong trở lại Singapore, góc phố Pagoda không còn Tuyên nữa, chỉ còn những câu nói như nhắn nhủ: “Hãy tâm niệm rằng hạnh phúc chính là được tìm về lại nơi yêu dấu cũ, để nhớ về người xưa cũ của những ngày tháng đã qua. Hạnh phúc ấy chỉ có được, khi ta nhận ra rằng mình chẳng thể nào ngừng lại những hồi tưởng ấy.” *** Hãy Đọc Quyển Sách Này, Như Thấm Một Cơn Mưa! Những trang đầu của quyển sách này đã đánh lừa tôi, và chắc sẽ đánh lừa cả bạn. Bạn sẽ tưởng như đang đọc một câu chuyện quá nhẹ, quá lỏng lẻo, nhân vật mờ mờ, lẫn vào nhau đến nỗi dù chúng không nhiều lắm, nhưng ta thấy khó phân biệt. Thậm chí khó xác định ngay giới tính của nhân vật. Sau ít trang, có vẻ mọi thứ hơi khác. Tôi đã nghĩ có thể đây là câu chuyện về nỗi buồn của những người du học. Ở lứa tuổi đầy rung cảm đầu đời, họ bị rơi vào một môi trường không có sự ấm áp quen thuộc của quê hương, nơi họ lớn lên. Cho dẫu nơi họ đi học là một nơi rất đẹp đẽ, yên bình hay một nơi đầy ắp những âm thanh ào ạt của một nhịp sống đầy cuốn hút, lộn xộn và lạ lẫm của nền văn hóa khác… thì cái mà người trẻ đi học xa quê không tránh được - là nỗi cô đơn. Tôi nghĩ giờ đây, nỗi cô đơn ấy còn sâu sắc hơn. Nếu người du học trước kia có một nỗi cô đơn giản dị của kẻ xa nhà, thì giờ đây, những người trẻ đi học ở nước ngoài mang theo nỗi cô đơn ngay từ quê hương, nơi cuộc sống có quá nhiều nguyên do khiến tâm hồn trẻ hoang mang và lạc hướng (có lẽ, đó là khó khăn, cũng là ân sủng của cuộc đời cho họ - thế hệ trước như tôi không có ân sủng ấy). Họ khám phá ra rằng phía sau những khác biệt rất lớn, tưởng chừng như thể giữa hai thế giới khác nhau, của quê nhà và xứ người, là sự giống nhau đến lạ lùng của nỗi niềm, thân phận. Lời thốt lên “Singapore này thật quá nhỏ bé” như thể chứa một hàm ý sâu xa về sự giống nhau trong nỗi u uất, niềm cô đơn, sự thèm khát cảm thông, kiếm tìm và chờ mong tình yêu cứu rỗi - những trạng thái của tâm can ta có thể gặp ở bất kỳ đâu trên Trái đất này. Phải chăng sự giống nhau trong hiện đại hóa của nếp sống đem lại sự giống nhau trong tâm trạng mất phương hướng, cô đơn, chật hẹp? Nhưng rồi những chục trang viết tiếp theo cho ta thấy có vẻ đó cũng chẳng phải là chủ đề của tác phẩm không dài, cũng không ngắn bạn đang cầm trên tay. Các tình tiết, vẫn đơn giản, như quyện đặc lại dần, và bạn đã có cảm giác rằng đây không phải câu chuyện về những nỗi buồn vô cớ, mà là câu chuyện về những số phận khắc nghiệt, những cảnh đời không giản đơn. Mọi thứ ngột ngạt dần lên, gay gắt dần lên. Phải chăng đây là câu chuyện về những vết thương, về những người trẻ tuổi phải bước vào đời và phải sống với những vết thương khó lành trong tâm hồn? Phải có lý do để họ, vào tuổi yêu, trong một môi trường không bị đói nghèo thiếu thốn đe dọa, lại có cảm giác về sự nhỏ bé (có thật theo kích cỡ địa lý, không thật theo chiều kích nhân gian) của đất nước này: “Singapore bé nhỏ nhưng sao chẳng thể nào đi hết những mệt mỏi ở nơi này”… Hay đây là câu chuyện về một thế hệ, theo ngôn ngữ triết học hiện sinh, đang “bị ném vào” thế giới hiện hữu - cái thế giới là di sản của những năm tháng trước đó, cái thế giới vẫn bị sức ép và sự độc đoán của những năm tháng trước chi phối? Mỗi thế hệ tích lũy năng lực sống của mình theo một kiểu khác nhau - Không theo ý muốn của thế hệ đó, mà do bối cảnh quy định. Trong một thời buổi nhiều ngả rẽ này, không phải là lỗi của họ, nếu những người trẻ tuổi giờ đây không thể tích lũy năng lực sống theo cách giản dị, hào sảng, hồn nhiên, mà phải theo cách vật lộn với sự ngột ngạt, chật vật tìm tia sáng trong veo (liệu có còn?) của sự giao cảm giữa những trái tim. So với các thế hệ trước, họ sống trong một thế giới đỡ thiếu thốn hơn về vật chất và tự do cá nhân. Nhưng họ cũng chạm vào các dằn vặt, bế tắc, trống vắng… sớm hơn. Đó là lý do khiến có nhiều cơ sở để tin rằng, năng lực sống của họ sẽ bền vững hơn người ta có thể nghĩ. Cho đến cuối cuốn sách, bạn đọc, cũng như tôi, sẽ nhận ra rằng các phỏng đoán về chủ đề của tác phẩm này hóa ra đều không đúng, hoặc chỉ đúng một phần. Đọc hết trang cuối, bạn mới biết rằng đây không phải một câu chuyện chỉ bao hàm những điều mà bạn đoán. Đây đơn giản là một bài thơ. Một bài thơ rất buồn. Người ta không tìm nghĩa trong thơ. Người ta chỉ lặng yên để thơ thấm vào mình. Chính xác là cuốn truyện này thấm vào ta theo cách ấy. Lúc đầu nó khó đọc, không phải vì có trúc trắc gì trong chất liệu, mà chính bởi sự nhẹ bẫng của chất liệu. Nhưng đúng như tên gọi, nó là một cơn mưa. Không vội vã, không phải lúc nào cũng ào ạt, cơn mưa từ trang này sang trang khác cứ làm nặng dần, nặng dần không gian của câu chuyện, như nước mưa dần ngập bờ bãi. Tôi thú nhận là đã đọc phần đầu cuốn sách này trong một trạng thái khá hờ hững, vì đã tưởng đây chỉ là một thứ nhật ký biến hình của tuổi mới lớn. Nhưng khi hết cơn mưa, cũng là hết trang cuối, tôi ngạc nhiên khi nhận ra mình đã bị lừa một cách ngoạn mục. Tác giả đã viết như thể một người lơ đãng dúi xuống đất một cái cây con, rồi lơ đãng vun vén cho nó, đến lúc cái cây tự lớn lên, thành một thực thể khác hẳn, mà ta không kịp nhìn ra nó được chăm sóc thế nào. Dường như các trang viết tự trải ra, đúng thật như một cơn mưa, hạt mưa rơi trước kéo hạt mưa sau. Và mưa dứt cũng tự nhiên như khi nó bắt đầu. Chúng ta bất chợt thấy mình ướt đẫm bởi những giọt da diết, thương cảm, xót xa, ấm áp… mà những nhân vật của truyện đã trải qua. Còn có thể nói gì khác - chỉ có thể là một bút pháp quá chuyên nghiệp! 7/2011 Nhà báo Trần Đăng Tuấn Nguyên Phó tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam. *** Người ta bắt đầu treo đèn lên rồi. Cả khu Chinatown ửng hồng lên như một thiếu nữ Trung Hoa vừa vận xiêm y, tô son điểm phấn lại, uyển chuyển khoe khuôn mặt tươi như hoa, lấp lánh dưới những ánh đèn vàng. Nếu Chinatown là một thiếu nữ bằng xương bằng thịt, tôi đoán sẽ chẳng mấy chàng trai dám chạm đến bởi sự lung linh và huyền bí của nó. Nhưng đã thực sự chạm đến rồi, tôi e là người ta sẽ ngại ngần hơn rất nhiều. Tôi bày đồ nghề ra, ngồi chơ vơ trên chiếc ghế, thấp bé như một viên gạch xây nhà. Góc tôi ngồi, bên cạnh hàng bác Cheng, bác bán những bức tranh cổ về một Singapore từ những ngày xa xưa, từ cái thời đất nước này chỉ mới là một làng chài của người Mã Lai vào thế kỉ XIX. Bác Cheng, người đàn ông xấp xỉ năm mươi tuổi, ấy vậy mà râu tóc bạc trắng, bộ râu dài đến ngang cổ, bác tự hào về nó lắm. Bác Cheng là người có tâm hồn nghệ sĩ và lãng mạn nhất mà tôi từng được biết từ trước đến giờ. Những người như thế, chẳng bao giờ giàu được, bác Cheng rất nghèo. Nhưng những người như thế lại thấy hài lòng và sung sướng trong hoàn cảnh của chính họ. Tôi cũng là một họa sĩ nghiệp dư, ở đây hay gọi là “họa sĩ đường phố”. Tôi cũng nghèo, cái nghèo bắt nguồn từ gia phả, từ đời ông bà truyền sang cha mẹ, đến đời tôi, lại thêm đam mê cái nghiệp này, học hành chẳng được cao, bản thân cũng lãng mạn, mong manh, dồn ứ lại bên trong là cả một sự bất lực và bế tắc, nhưng lúc nào cũng tỏ ra quá ư cao ngạo. Thực tế, tôi chẳng có gì, ngoài những bức tranh. Thực tế, tôi biết mình chẳng khá lên được. Khu Chinatown bắt đầu nhộn nhịp, những gương mặt hòa lẫn vào nhau. Tôi ngồi chống cằm, đưa đẩy những bức tranh chân dung mẫu cho người đi lại dễ thấy. Tôi vẽ chân dung, tôi vẽ những gương mặt. Bức chân dung đầu tiên tôi vẽ là mẹ, khi ấy tôi mới lên sáu tuổi. Lúc ấy mẹ đã hôn lên trán tôi, và bảo rằng nhất định tôi sẽ trở thành một nữ họa sĩ nổi tiếng. Sau đấy, mẹ đã âm thầm tìm hiểu để mang về cho tôi những cuốn sách về hội họa đắt tiền, mẹ như thấy trước tài năng của tôi và động viên tôi cố gắng từng chút một. Và bức chân dung đó, mẹ luôn giữ bên mình, giờ tôi chẳng biết nó đang ở đâu nữa... Cứ nhớ đến thế, từng đoạn phim ký ức cứ tua lại chầm chậm, mí mắt tôi bắt đầu nặng dần. Tôi cúi mặt cho từng dòng ký ức trôi qua. Tôi làm việc này ngày qua ngày một cách đều đặn. Đêm đến, tôi thở dài trong sự chán nản trước khi nhắm nghiền đôi mắt. Một cô gái đứng trước mặt tôi, nghiêng nghiêng đầu, mái tóc ngắn được vén gọn gàng hai bên tai, đôi mắt to và sáng. Cô ấy cười với tôi, nụ cười như một bông hoa sen đang nở: - Bạn vẽ mất bao lâu? - Mười lăm phút. - Tôi trả lời. Cô ấy gật đầu, tôi chỉ vào chiếc ghế nhựa nhỏ, có lưng dựa. Cô gái ngồi xuống đấy, khẽ vén váy sang một bên. Tôi ngắm nhìn cô ấy một phút, chỉ hướng cho cô gái nhìn và bắt đầu những phân đoạn nhỏ cho tổng thể gương mặt. Một vài người qua lại tò mò và thích thú đứng lại xem, những lúc như vậy, tôi sẽ bắt đầu đông khách hơn. Họ lại giơ tay chỉ trỏ, bảo tôi vẽ thật tài tình. Tôi khẽ cười, vung những nét bút, ánh mắt nhìn lên, rồi lại nhìn xuống bản vẽ… Những gương mặt cứ đến, đi vào trong đôi mắt tôi mười lăm phút, rồi lại trôi đi, dễ dàng như ăn bữa cơm hằng ngày vậy. Cô gái cầm bức tranh, cười rất mãn nguyện: - Bạn vẽ đẹp quá! - Nghề của tôi mà. - Bao nhiều vậy? - Hai mươi lăm đô2. 2Đồng đô la Singapore. Cô gái cầm tranh, quay người đi, một người khác lại ngồi vào chiếc ghế đó. Tôi lại vung vẩy cây bút vẽ, không suy nghĩ gì mấy. Bác Cheng đứng ở gian hàng bên cạnh, nhìn sang cười hóm hỉnh. Rất nhiều lần như vậy, bác Cheng và tôi thường trao đổi với nhau về những kỹ thuật vẽ chân dung. Bác Cheng là người mê tranh cổ và am hiểu hội họa sâu sắc, mặc dù bác không phải là một họa sĩ. Cả khu phố dài nhộn nhịp, tiếng người qua lại, người mua kẻ bán, những đèn lồng đỏ hồng treo cao, tôi ngồi chống cằm nhìn, vẫn luôn thấy mình thật biệt lập. Những người khách đến không làm tôi thấy vui hơn, từ bao năm nay vốn đã như vậy, dường như tôi cũng chẳng có thói quen đếm tiền thường xuyên, tôi nhét tiền vào một hộp sắt nhỏ, hằng ngày lấy ra từ đấy, và vẫn thấy mình sống đủ qua ngày. Cuộc sống như một đoàn tàu, chạy chậm, đều mãi, không dừng lại bao giờ. Tôi hoàn thành bức vẽ cuối cùng vào lúc mười giờ, cất dọn đồ nghề xong, lững thững bước về, gió bắt đầu thổi nhè nhẹ, tôi cảm nhận rõ sự chuyển động của những sợi tóc mai nhỏ trên đầu mình. Các ông lão, bà lão của tôi bắt đầu dọn dẹp hết những bàn ăn còn sót lại. Tôi cười chào họ trong bóng đêm của một ngày tàn. Bàn chân bước chậm dần, phía sau lưng tôi, đèn lồng đã tắt. Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa Ở Singapore của tác giả Linh Lê.
Chạm Tay Vào Hạnh Phúc
Chạm Tay Vào Hạnh Phúc viết về một câu chuyện cổ tích thời hiện đại, để ta thấy rằng ở đâu đó, theo một cách nào đó, hạnh phúc vẫn luôn hiện hữu, chờ ta với tay chạm vào nó. Bị vợ bỏ ở tuổi năm mươi, Paul phải làm quen trở lại với cuộc sống độc thân, mà việc đầu tiên là tự đi siêu thị. Và ở đó, ông đã gặp Julie, để rồi cả cuộc đời ông và cuộc đời cô đều rẽ sang một hướng khác... *** Tết đến thì mình làm gì? Tranh thủ vài khoảnh khắc được xả hơi sau khi thực hiện chiến dịch dọn dẹp nhà cửa bở hơi tai. Đầu năm 2020, mình đã hoàn thành quyển tiểu thuyết tình cảm của nữ nhà văn Pháp – Agnes Ledig với tựa đề “Chạm tay vào hạnh phúc”. Đây là quyển sách mình mua được trong gian hàng xả kho của Nhã Nam mới đây với giá khá hời (56.000 – đã giảm 50% so với giá bìa). Mặc dù vậy, đây là quyển sách đã thu hút mình đọc liên tù tì 3 ngày. Vì sao ư? Vì đây là quyển sách có thể chạm đến trái tim của người đọc theo cái cách riêng của Ledig. Đúng như lời bình của Le Figaro, “Chạm tay vào hạnh phúc” không bị cái cảm giác giả tạo của những cuốn sách an ủi bằng cách tô hồng mọi thứ trước những ý nghĩa u ám của độc giả. Mà giống như một trải nghiệm sống thực sự …, khi bất hạnh không làm ta gục ngã. Quyển sách xoay quanh câu chuyện về một cô thu ngân tại siêu thị chỉ mới vừa chạm ngưỡng 20 đã phải mưu sinh vì đứa con thơ. Cuộc sống của cô mang một màu tăm tối khi từng ngày phải chiến đấu với những cái nhìn đầy miệt thị của khách hàng, sự vô cảm và tàn nhẫn của tên giám đốc luôn lấy cô ra để mua vui mỗi khi con thú trong hắn trỗi dậy. Và rồi, một ngày kia, cuộc sống cô chuyển sang bước ngoặt mới khi gặp gỡ vị cứu tinh cũng mang trong mình những vết sẹo của cuộc đời. Những con người mới với những mặt tối trong con người họ bước vào cuộc sống cô một cách bất ngờ và dần dần thay đổi con người cô, và cả chính họ. Thế nhưng, có lẽ thượng đế luôn thích trêu ngươi chúng ta, thích thử thách xem con người mạnh mẽ đến nhường nào khi bất hạnh ập xuống họ. Tất nhiên, con người luôn là những sinh vật mạnh mẽ, họ vượt qua được tất thảy dù rằng mang trên mình những vết sẹo mà năm tháng khó phai mờ được. Đến cùng, những người trong câu chuyện này đều tìm được hạnh phúc cho riêng mình và rằng họ xứng đáng được chạm tay vào hạnh phúc. Hãy thử một hương vị mới mà Ledig mang tới để làm ướt át một chút cuộc sống của bạn. Để qua đó, có thêm niềm tin về hạnh phúc trong cuộc sống này. Vũ Hàn Review *** Việc bạn yêu thương và bị cuốn hút bởi cuốn sách này cũng giống như đột nhiên muốn nghe và thấy ứa nước mắt trước những bài hát cũ của Richard Marx. Có những lúc tự nhiên như vậy, sự thành thật đến từ câu chữ, ý tứ, từ cảm xúc hơn là cốt truyện… khiến bạn lay động, giúp bạn nới lỏng bản thân và thành thật với chính mình, rằng u sầu là điều không tránh khỏi, rằng ai cũng từng có cái hố của riêng mình và phải gắng gượng ngoi lên bề mặt, rằng cứ đi, cứ tin, cứ yêu và thả lỏng đôi chút hoặc nhiều chút để được hàn gắn và hồi sinh, bởi "có những lúc cần nới lỏng dây cương để nỗi buồn phi nước đại", Agnes Ledig viết. Đọc Chạm tay vào hạnh phúc của Agnes Ledig, bạn phải thực sự kiên nhẫn. Bởi phần đầu của câu chuyện dễ khiến người đọc lầm tưởng với những cuốn truyện cổ tích kẹo ngọt. Julie, người mẹ đơn thân nghèo đang phải vật lộn với công việc thu ngân, được một ông khách già giàu có để mắt tới, mời cô và con trai ba tuổi cùng tham gia một kỳ nghỉ hè. Và cuộc đời cô thay đổi mãi mãi sau cái gật đầu đồng ý đó. Một đặc điểm của nỗi u sầu là dễ khiến bạn hay nghi ngờ. Người đọc mở đầu câu chuyện với nỗi u sầu của Julie và cảm thấy nghi ngờ với những gì mình đang đọc. Cũng giống như Julie nghi ngờ mục đích của ông già Paul giàu có quyết định chóng vánh đưa cô đến với kỳ nghỉ ba tuần ở biển. Ông già cần gì ở cô gái trẻ sau khi vợ bỏ đi? Và thưa Agnes, chị định thiết đãi độc giả chuyện gì khi lọ lem gặp hoàng tử quá sớm? Nhưng rồi câu chuyện dần dần được mở ra theo hướng không ngờ khi các nhân vật xuất hiện với quá khứ khổ đau và thực tại ngổn ngang, họ là Jerome đang chìm sâu trong nỗi đau mất vợ, là Caroline vụng về và thiếu tự tin, là Romain đơn độc, là Manon vui tươi nhưng vô hướng, là chính Paul luôn dằn vặt về cuộc hôn nhân 30 năm lạnh lẽo… Đám đông mà Agnes tạo nên là một tập hợp của những con người bị tổn thương, thu mình lại trong vạn vạn lớp vỏ hoặc quẩn quanh trong cái hố của chính mình mà chưa ý thức, hoặc ý thức nhưng bất lực về cách vượt thoát. Cho đến khi họ gặp nhau, được kết nối bằng niềm âu yếm, tình yêu và cả những nỗi đau mới toác miệng. Giống như cách nói của Julie, họ là những mảnh lego rời rạc, cố gắng cố kết và bám trụ, người yếu nhất dựa vào người mạnh nhất, và người mỏng manh nhất đôi khi lại là liều thuốc liền sẹo cho người ngỡ là rắn rỏi nhất. Sự mộc mạc của người phụ nữ nghiệp dư tập viết văn từ năm 2005, bằng thiên khiếu, tính nữ và cả những nỗi đau thực sự từ cuộc sống riêng đã giúp Agnes Ledig gọi tên được một điều vô hình trong cuốn sách của mình: Niềm âu yếm. Đó không hẳn là tình yêu, càng không phải là tình dục, niềm âu yếm là ngọn lửa nhỏ sưởi ấm và đánh thức khao khát được kết nối trong mỗi con người. Niềm âu yếm khiến các nhân vật, và cả người đọc nhận ra rằng vẫn có những điều dịu dàng đợi chờ mình ngoài kia, dù bên trong lớp vỏ này chất đầy những cay đắng. Đó là cái nắm tay và nụ cười bất ngờ Lulu dành cho Jerome, là cử chỉ Romain không nỡ gập lá thư dày nặng tình yêu thương của Julie bỏ vào túi mà khe khẽ để lên bàn, và đặc biệt là đêm đầy sao khi Jerome ôm Julie say ngủ giữa dập dềnh sóng biển. Bạn cần dụi đầu thật sâu vào lồng ngực ai đó, bạn cần một bàn tay ấm nóng chạm nhẹ và sưởi ấm làn da, hay khóc thành thật và không kìm nén để thoát khỏi khổ đau và bắt đầu chạm vào hạnh phúc… Đó là niềm âu yếm riêng mà Agnes Ledig gửi đến cho những người đọc kiên nhẫn của mình. Một cuốn sách tuyệt vời cho những kỳ nghỉ dài trước mắt. *** Julie ấy mà, cô đã quen với việc này lắm rồi. Cô đã có thể phản đối, mạo hiểm, mất việc làm, nhưng giữ được phẩm giá cho bản thân. Phẩm giá nào nhỉ? Cái thẻo đàn bà này đã đánh mất phẩm giá từ đời nảo đời nào rồi. Khi động chạm tới vấn đề sống còn, ta đành xếp xó những lý tưởng vĩ đại vẽ ra từ hồi còn là một cô bé. Và ta chịu đựng, câm lặng, để mặc người khác muốn nói gì thì nói, ta cam chịu. Vả lại, cô cần công việc này. Thực sự cần. Gã Chasson chó đẻ này biết thế. Gã giám đốc cục cằn có thể đuổi việc một nhân viên thu ngân chỉ vì tính nhầm mười euro. Đằng này những năm mươi euro! Tuy nhiên, Julie biết ai đã ăn cắp năm mươi euro đó, khi cô vừa quay lưng đi. Nhưng ai mà ưa những kẻ tố cáo đồng nghiệp. Chẳng ai ưa. Chuyện này sẽ khiến ta phải gánh lấy tiếng xấu cũng dai dẳng chẳng khác nào một con chấy bám trên tóc. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. “Cô Lemaire ạ, tôi có thể đuổi việc cô ngay lập tức. Tuy nhiên, tôi biết hoàn cảnh của cô, tôi biết cô không thể hoàn trả số tiền được. Coi chừng đấy, tôi có thể yêu cầu cô tìm một giải pháp để sửa chữa những sai lầm cô mắc phải trong công việc thu ngân. Cô hiểu ý tôi muốn nói gì không? Nếu không, hãy hỏi vài đồng nghiệp nữ của cô, họ biết phải làm thế nào rồi đấy”, hắn văng những lời này vào mặt cô, mắt hắn nhìn cô chòng chọc không chút ngại ngùng, môi nở nụ cười nham hiểm. Đồ đểu! Tuy nhiên, hắn trông rất ra dáng. Chàng rể lý tưởng. Cao lớn, năng động, tươi cười, cằm vuông và tóc ngả hoa râm hai bên thái dương. Bàn tay lúc nào cũng đặt lên lưng người khác để trấn an, khích lệ. Luôn có một câu tử tế khi ghé qua chào nhân viên mỗi sáng thứ Hai. Một cô vợ thanh lịch và những đứa con lễ phép. Mẫu đàn ông xuất thân tầm thường đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để leo dần lên, buộc người ta phải tôn trọng và ngưỡng mộ. Đấy là mặt lấp lánh của tấm huy chương. Thế rồi, khi lật nó lại, ta sẽ thấy có chó sói, thú săn mồi, gã đàn ông muốn phụ nữ quỳ mọp dưới chân để chứng tỏ mình là kẻ mạnh nhất. Vài phút sau, Julie rảo bước dọc hành lang dài nối liền phòng giám đốc với khu vực bán hàng. Giờ nghỉ của cô đã hết. Cô những muốn dành quãng thời gian đó cho việc khác chứ không phải dạng triệu tập này. Cô lấy ve ống tay áo quệt mạnh giọt nước mắt vương trên má. Một dấu hiệu yếu mềm đáng thương hại mà cô phải gạt đi tức khắc. Bởi vì Julie ấy mà, cô đã quen với việc này lắm rồi. Cô thuộc những người mà số phận chẳng mấy khi nương tay. Có những người như thế đấy… Paul Moissac dừng lại trước quầy pizza đông lạnh, hoài nghi. Ông chẳng gặp vấn đề gì khi chọn lốc bia đang cầm trên tay, nhưng còn vụ này! Có lẽ đây chính là lần đầu tiên ông đặt chân tới siêu thị. Hoặc ít nhất cũng là lần đầu tiên đi một mình. Vợ ông đã bỏ ông cách đây một tháng. Trước khi đi, trong mối hăm hở rộng lượng sau chót có lẽ sẽ để lại trong bà cảm giác thú vị vì đã hoàn thành nghĩa vụ, bà đã chất đầy đồ ăn vào tủ lạnh. Người phụ nữ hoàn hảo không chút tì vết, cho đến tận những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ không ai trách cứ bà về vụ ra đi đột ngột và chẳng hẹn ngày về này. Nhưng hôm nay, Paul không còn cách nào khác. Sụt mỗi tuần một ki lô có thể có lợi trong thời gian đầu nhưng lại có vẻ nghiêm trọng nếu vượt quá một ngưỡng nào đó. Chỉ nghĩ đến việc một mình ngồi vào bàn ăn trong nhà hàng cũng đã khiến ông nản chí đến độ mất cả cảm giác ngon miệng. Ở tuổi năm mươi mốt, có lẽ đã đến lúc cần biết tự xoay xở trong một cửa hàng thực phẩm. Cuối cùng ông quyết định chọn loại pizza đắt nhất. Chỉ còn thiếu mỗi chuyện ông ăn vớ vẩn cho qua bữa với cái cớ là vợ ông đã bỏ đi sau ba mươi năm chung sống. Khi phải lựa chọn, ông luôn chọn thứ đắt nhất, tin chắc rằng đó là một đảm bảo cho chất lượng. Khi đi ngang quầy “rau quả”, trong đầu ông chợt hiện ra một trong những câu vợ ông ưa thích nhất, thường được tuôn ra một cách máy móc, giống như mọi câu khác. “Năm lại rau quả mỗi ngày.” Bà chêm câu này vào giữa câu “Thuốc lá sẽ giết chết anh” và câu “Rượu không tốt cho sức khỏe của anh đâu.” Sao mà bà ấy có thể khiến người ta mệt mỏi đến thế! Dẫu sao ông cũng nhét vài quả táo vào túi ni long rồi tiến về dãy quầy thu ngân. Ông cầm ba món hàng trên tay, chờ đến khi tìm thấy chút chỗ trống trên băng chuyền để đặt xuống. Đằng trước ông, một bà hộ pháp vừa trút xuống cả một xe hàng toàn những thứ linh tinh. Lại một phụ nữ hẳn là cũng cơm chẳng lành canh chẳng ngọt với bạn đời. Ông nhanh chóng nhận ra rằng mình đã không chọn được quầy thu ngân vắng nhất để có thể rời thật nhanh khỏi cái hang ổ tiêu dùng này, nhưng cô nhân viên thu ngân lại xinh. Mặt khó đăm đăm, nhưng xinh xắn. Đặc quyền của nhan sắc: bù đắp cho tính nết khó chịu. Luôn là vậy. Ta lượng thứ mọi chuyện cho những phụ nữ xinh đẹp, thậm chí trước khi họ kịp mở miệng. Cô nhân viên thu ngân này chỉ thoáng nhìn bà khách khi trả lại tiền thừa, và tranh thủ dịp đó để gạt đi một giọt nước mắt không rõ từ đâu đang lăn trên má. Cằm không run, hơi thở không gấp gáp, đôi mắt không long lanh, không, một gương mặt thản nhiên nhưng giọt nước mắt đã tự tiện lọt ra ngoài để hít thở không khí trong lành. Đến lượt Paul. — Chào Julie! — Chúng ta biết nhau sao? cô vừa hỏi vừa ngước nhìn ông, vẻ ngạc nhiên. — Không, nhưng tên cô được viết trên thẻ nhân viên mà. Nếu không thì ta đeo thẻ có ghi tên để làm gì? — Để tố giác chúng tôi với trưởng quầy thu ngân nếu chúng tôi tính nhầm ba xu lẻ. Hiếm khi để chào hỏi lắm. — Tôi cũng có vài thói xấu, nhưng không có thói chỉ điểm. — Ông chưa cân táo rồi, cô nói bằng giọng đều đều chán chường. — Phải cân hả? — Đúng rồi! — Thế tôi phải làm gì bây giờ? — Hoặc ông đi cân chỗ táo này, hoặc ông bỏ lại không mua nữa. — Tôi sẽ đi cân, tôi làm nhanh thôi, Paul đáp, đoạn vớ lấy cái túi. Nhưng tại sao ông lại tha thiết muốn mua chỗ táo này đến thế?! — Cứ thong thả thôi, chuyện này sẽ chẳng thay đổi gì cuộc sống của tôi đâu! cô gái khẽ bình luận trong khi ông đã biến mất khỏi dòng người đang xếp hàng. Các khách hàng đứng sau ông bắt đầu sốt ruột. Julie tranh thủ quãng nghỉ này để thư giãn cái lưng đã khiến cô đau đớn suốt tuần nay. Người đàn ông quay lại, thở hổn hển, rồi đặt chỗ táo đã được cân trước mặt cô gái. — Ông chọn mã nho thay vì mã táo rồi! — Thật sao? — Nho Golden. Trên nhãn này ghi thế. Mà đây lại là táo Golden. — Có nghiêm trọng không? — Ông sẽ phải mua với giá cao hơn. Nếu ông muốn thì có thể quay lại đổi. Tiếng ồn ào trong hàng người đứng chờ bắt đầu to lên khiến ông từ bỏ ý định. — Không sao đâu, tôi trả tiền theo cái nhãn đó. Có lẽ vì thế mà táo sẽ ngon hơn! ông mỉm cười nói với cô. Julie cũng khẽ cười. Lâu lắm rồi không có người đàn ông nào tử tế với cô. Đừng nói là theo kiểu này! Tuy nhiên, ở tuổi hai mươi, Julie đã không còn quen với kiểu quan tâm này nữa rồi. Sự vô tư đã nhập hội với phẩm giá ở nghĩa trang của những ảo tưởng vô vọng. — Buổi tối xem bóng đá chăng? cô vừa hỏi vừa đưa biên lai cho ông. — Không, sao cô lại hỏi thế?! — Chẳng sao cả. Bia, pizza… — Buổi tối của đàn ông độc thân! — Đàn ông độc thân vẫn có thể xem bóng đá mà. Julie không thèm trả lời khách hàng kế tiếp đang cố gắng lôi cô ra làm nhân chứng, bà ta phẫn nộ vì có người lại không biết rằng rau quả thì phải cân trước khi thanh toán. Loại “lèo nhèo” mà thậm chí cô còn không nghe nữa. Bộ quy tắc ứng xử đã làm cô ngán ngẩm từ lâu rồi. Mỉm cười - Xin chào - Tạm biệt - Cảm ơn. Cô chỉ áp dụng khi biết người ta đang giám sát mình. Vụ táo tủng kia ít ra cũng cho phép cô ngơi ra vài phút và uống chút nước thảo dược trong chai mang theo, để cố gắng nuốt trôi vị đắng của công việc này. Mời các bạn đón đọc Chạm Tay Vào Hạnh Phúc của tác giả Agnès Ledig.
Mỗi Lần Gặp Em
“Được rồi, vì đang ở Anh nên con ước mình gặp được một chàng hiệp sĩ đẹp trai và lịch thiệp,” cô sửa lại. “Một người với tinh thần hiệp sĩ. Một người có công việc ổn định, ôn hòa và có một ngôi nhà với một căn phòng đủ rộng cho một buổi hòa nhạc piano. Và anh ấy sẽ yêu con như yêu chính bản thân. Nhiêu đó cũng không phải quá nhiều, phải không?” Năm 1999, Jessica Blakely – một cô gái người Mỹ không gặp may trong tình yêu – đã nhìn lên trời và ước được gặp một chàng trai có tấm lòng hào hiệp và coi cô bình đẳng vớianh. Điều ước đưa cô trở về năm 1260 và đến với Richard de Galtres, một hiệp sĩ được mọingười nể sợ, đồng thời là chủ nhân lâu đài Burwyck-trên- biển. Ban đầu, Richard không ưa Jessica bởi bản tính thẳng thắn và mạnh mẽ của cô. Nhưng anh từ từ phải lòng Jessica khi cô dần phá vỡ lớp vỏ bọc cứng rắn và giận dữ ở anh. *** Jessica Blakely không tin vào Định Mệnh. Tuy nhiên, khi đứng trên đỉnh chiếc cầu thang xoáy kiểu Trung Cổ và ngó xuống vực sâu ảm đạm phía dưới, cô phải tự hỏi mình, phải chăng từ trước đến nay, có ai đó đang chèo lái cuộc đời cô. Mọi thứ xảy ra không như cô nghĩ. Định Mệnh hẳn biết rõ cô chẳng có hứng thú gì với những tòa lâu đài trơ trọi, hoang vu hay những chàng hiệp sĩ trong những bộ áo giáp gỉ sét. Hẳn là như thế. Cô hít một hơi thật sâu và cố sắp xếp lại lần lượt tất cả những gì đã xảy ra, những gì đã khiến cô rơi vào hoàn cảnh hiện tại. Dường như chẳng có gì bất thường. Cô đi hẹn hò xem mặt rồi nhận lời mời cùng anh ta đến Anh trong kỳ nghỉ phép của khoa trường Đại học nơi anh ta dạy và rồi đầy háo hức lên máy bay với anh ta hai tuần sau đó. Chủ của trang viên xinh đẹp được bảo tồn từ thời nữ hoàng Victoria nơi hai người ở là Lãnh chúa Henry de Galtres. Jessica mê mệt ngôi nhà ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nơi đây có những bữa tiệc sang trọng với những món ngon siêu phàm và được bao bọc trong lòng một vùng đồng quê bình dị. Vấn đề duy nhất là chẳng hiểu vì sao, Lãnh chúa Henry lại cho rằng tòa lâu đài đổ nát trong khuôn viên nhà mình là thứ gì đó rất cần được gìn giữ. Chỉ cần nhìn thấy nó là Jessica đã thấy lạnh hết cả sống lưng. Cô không hiểu tại sao và cũng không muốn tìm hiểu câu trả lời. Thay vào đó, cô để mình tận hưởng tất cả những tiện nghi hiện đại mà nhà Lãnh chúa Henry có. Và chắc chắn khi cô có thể buộc mình rời khỏi nơi được coi là căn nhà thứ hai này, cô có thể sẽ đi khắp London mua sắm bằng tiền tiết kiệm tại Harrods. Thế nhưng trước khi nhìn thấy những chiếc máy tính tiền, cô lại bị thôi thúc tìm nơi trốn trong lâu đài đổ nát ấy. Cuộc đời cô có điều gì đó vô cùng bất ổn. Một tờ giấy bốc mùi mốc meo suốt bảy thế kỷ đáp thẳng vào mặt khiến cô ho sặc sụa và phải phẩy tay trước mũi liên tục. Có lẽ lúc nãy, cô nên im lặng và tránh việc bày tỏ bất kỳ sự bất mãn nào trước Thượng Đế. Mọi thứ biết đâu sẽ tốt đẹp hơn nếu từ lâu cô biết giữ im lặng, có lẽ trước khi cô đồng ý với cuộc hẹn ấy. Cô nghĩ một lúc, nhưng rồi lại lắc đầu. Rắc rối của cô bắt đầu đã lâu, từ trước khi chuyến đi chơi với Archibald Stafford III diễn ra. Thật ra, cô có thể biết rõ từ khoảnh khắc nào cuộc đời cô đã lạc vào tay Định Mệnh. Đó là từ những buổi học piano. Khi cô 5 tuổi. Bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ rằng thứ mà tưởng chừng như rất vô thưởng vô phạt, rất ngây thơ, rất thân thiện với lũ trẻ lại dẫn một người phụ nữ theo con đường cô ấy chẳng có ý định đi. Nhưng Jessica chẳng tìm được một bằng chứng nào để phủ nhận điều đó. Những buổi học piano mang đến những học bổng nhạc lý, rồi dựng nên sự nghiệp âm nhạc cho cô, nhưng rồi không hiểu sao lại phá hủy các mối quan hệ xã hội, khiến cô không có sự lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận lời mời mới nhất trong chuỗi những cuộc hẹn hò xem mặt vô vọng: Archie Stafford và đôi giày lười bóng lộn của anh ta. Archie là người bao trọn tất cả chi phí mời cô tới Anh trong một tháng. Anh ta đã giành được chuyến đi này nhờ chăm chỉ nịnh nọt trưởng khoa. Anh ta thực sự không hòa hợp với những người thường hội họp cùng trưởng khoa hay Lãnh chúa Henry ngồi hút xì gà từ nửa đêm cho tới lúc gà gáy, nhưng cũng có thể đó lại là những gì Archie khao khát. Jessica tự hỏi không hiểu anh ta cần một bạn hẹn tới mức nào mà lại mời cô đi cùng. Lúc anh ta ngỏ lời, cô còn bận nghĩ về những tách trà và bánh xốp nên không lo nghĩ gì về lời mời ấy. Một chuyến đi chơi do trường đại học tài trợ, điều đó đã khiến cô cảm thấy cực kỳ an tâm. Thật không may, làm khách của Archie nghĩa là phải nói chuyện với anh ta và đó là điều cô ước giá như mình có thể tránh trong ba tuần tới. Chỉ đến khi lên chuyến bay, cô mới khám phá ra anh ta đáng ghét đến mức nào. Cô tự nhủ sẽ không bao giờ để lộ hộ chiếu của mình cho bất cứ ai mà cô biết chưa đầy một tháng như trong trường hợp này nữa. Nhưng dù muốn hay không, cô vẫn bị kẹt với anh ta suốt chuyến đi này, có nghĩa là ít nhất thì cũng phải lịch sự trò chuyện. Hơn nữa, mẹ cô đã dạy phải luôn tỏ ra lịch sự. Tất nhiên, lịch sự không có nghĩa là cô không thể thỉnh thoảng trốn đi. Đó chính xác là những gì cô đang làm lúc này. Thật không may, trốn nghĩa là phải kiếm một nơi Archie sẽ không bao giờ nghĩ rằng cô sẽ ở đó. Sâu trong lâu đài thời Trung Cổ nhà Henry. Cô tự hỏi, liệu báo động có kêu không nếu cô làm đứt mấy sợi dây chão chắn đường. Cô nhìn sang bên trái và nghĩ sẽ có khá nhiều người nghe thấy tiếng chuông báo động nếu nó kêu lên. Và có lẽ trong cơn hoảng loạn, sẽ không có ai chú ý đến cô. Rõ ràng Lãnh chúa Henry kiếm tiền để sửa chữa nhà mình bằng cách thực hiện các chuyến tham quan lâu đài này. Những chuyến tham quan này có vẻ như rất thu hút. Đoàn người hiện tại cho thấy điều đó. Jessica nhìn những khách tham quan. Họ đi thành hàng như một đàn gia súc và có thể họ sẽ chạy loạn lên nếu cô làm họ giật mình. Họ khó chịu đứng sát lại với nhau, trầm trồ nhìn những món đồ gia truyền, cũng đang chen chúc nhau. Marcham là một điểm đến thu hút hàng đầu và Jessica dường như đã hòa mình vào đám đông nhộn nhịp ngay lúc mà cô cần sự bình lặng và yên tĩnh nhất. Cô đã tham quan lâu đài và biết được nhiều thứ hơn cả những gì cô kỳ vọng về lâu đài Burwyck-trên-biển và lịch sử kèm theo nó. Và một bài học nữa về những sự kiện phức tạp thời Trung Cổ là điều cuối cùng cô cần đến lúc này. “Đương nhiên, lâu đài tại Marcham, hay còn gọi là Merceham, tên gọi của nó vào những năm 1300, là một trong những tài sản nhỏ mà gia đình này sở hữu. Mặc dù đã được mở rộng trong nhiều năm và đại tu trong thời kỳ Victoria nhưng nó cũng chưa phải là của cải quý giá nhất của gia đình. Tài sản quý giá nhất của gia đình de Galtres nằm cách đây 150 cây số trên bờ biển phía đông. Nếu đi thêm đoạn nữa, các vị sẽ thấy một bức tranh vẽ tòa tháp.” Đám đông khán giả ngoan ngoãn đi sang bên trái trong khi hướng dẫn viên tiếp tục nói. “Như các vị có thể thấy trên bức tranh vẽ Burwyck-trên-biển, theo ý kiến của tôi, thì điểm đáng chú ý nhất trong cơ ngơi của gia đình này là việc tháp vòm không xây tại trung tâm của sân trong như ở lâu đài Pembroke mà xây phía tường ngoài hướng ra biển. Tôi cá là chủ nhân đời thứ ba của gia đình de Galtres không muốn tầm nhìn ra biển bị cản trở...” Jessica hoàn toàn đồng ý với anh ta nhưng bây giờ, cô không quan tâm đến việc ngắm biển. Nếu tầng hầm được chăng dây thừng để ngăn cách thì có nghĩa là nó không có khách du lịch và hướng dẫn viên. Dưới đó có thể đầy nhện và những bóng ma, nhưng cô phải liều thôi. Archie sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm cô ở đó. Cô có thể làm ngơ những bóng ma. Lũ nhện cũng có thể bị giẫm bẹp. Cô hơi co vai lại, tháo móc sợi dây chão rồi đi xuống. Cô dừng lại dưới chân cầu thang và tìm kiếm một nơi nào đó phù hợp. Những bộ giáp đứng nghiêm im lặng dọc theo bên bức tường. Ánh sáng lờ mờ cùng đầy rẫy những sinh vật không tưởng cũng chẳng thể ngăn cản cô. Cô bước qua từng phiến đá lót nền cho đến khi thấy một chỗ có vẻ phù hợp, rồi ngồi vào giữa một hiệp sĩ dữ tợn đang vung một thanh kiếm và một vị khác cầm giáo vẻ đáng sợ. Phủi qua chút mạng nhện, cô khẽ tựa lưng vào bức tường đá. Đây là lần đầu tiên trong ngày cô cảm thấy may mắn vì đã mặc một bộ váy dày. Một bộ trang phục thời Trung Cổ phù hợp với môi trường xung quanh, nhưng dường như rất ngớ ngẩn cho một buổi trà chiều - buổi trà chiều mà cô xuống tầng hầm này để trốn. Cả buổi trà chiều và Archie. Cô đưa tay vào túi và lôi ra vài thứ để thư giãn. Cô đặt một bịch kẹo bơ lạc ướp lạnh trên sàn đá một cách cẩn thận. Những thứ này cô sẽ để dành ăn sau. Một lon nước ngọt nữa. Sàn nhà đủ lạnh để bảo quản nó. Sau đó, cô lôi máy nghe đĩa CD cầm tay ra, đeo tai nghe, thả lỏng và cuối cùng, thở dài nhắm mắt lại rồi nhấn nút Play. Cảm giác lạnh lẽo lan ra khắp sống lưng nhưng không phải là do bức tường đá. Bản giao hưởng số 7 của Bruckner vào đúng thời điểm có sức ảnh hưởng như thế đối với cô. Jessica hít một hơi thật sâu và chuẩn bị cho những điều sắp đến. Bản giao hưởng bắt đầu một cách nhẹ nhàng. Cô biết rồi nó sẽ dần mạnh mẽ vàlớn hơn cho tới khi bao bọc lấy cô, làm cô không thở được. Cô cảm thấy hơi thở của mình bắt đầu gấp gáp và phải lau lòng bàn tay lên bộ váy. Bản nhạc vẫn hay như 139 lần trước cô nghe nó. Đây là thứ âm nhạc đến từ thiên đ... Chít chít. Jessica gần như hóa đá. Cô định mở mắt ra, nhưng cô biết chắc cô sẽ chỉ nhìn thấy một con chuột to bự bên cạnh mình. Lúc đó, cô sẽ ra sao? Đồ ăn vặt của cô vẫn còn trong bọc và vì nó cũng chẳng được tính là đồ ăn nên một con chuột muốn gì cơ chứ? Cô hướng sự chú ý của mình vào bản giao hưởng. Đó là London Philharmonic, một trong những ban nhạc yêu thích của cô. Kẹt, kẹt, kẹeeeeeeeeet. Một cái cửa chớp han gỉ chăng? Có cửa chớp trong tầng hầm? Không biết nữa. Cô không định mở mắt ra nhìn. Có lẽ có cái cửa nào đó gần đây và nó bị gió rít do những vị khách du lịch đi loanh quanh. Hoặc có thể đó là một cánh cửa sập vào ngục tối. Cô ngay lập tức phủ định cái ý nghĩ ấy, vì đó không phải là chỗ cô muốn tới. Cô nhắm mắt chặt hơn. Thật may là cô đã quen với việc tách mình ra khỏi những phiền nhiễu. Nếu không thì tiếng ồn này đã làm hỏng buổi chiều của cô. Mời các bạn đón đọc Mỗi Lần Gặp Em của tác giả Lynn Kurland.
N.P
Nữ tác giả Banana Yoshimoto tên thật là Mahoko Yoshimoto sinh ngày 24.7.1964, là con gái của triết gia Nhật nổi tiếng Takaaki Yoshimoto. Banana Yoshimoto tốt nghiệp ngành Văn tại trường Nihon University, tại đây cô đã lấy bút danh là "Banana", cái tên mà theo cô là rất "chúa" và "lưỡng tính". Trong khi làm bồi bàn tại một hàng ăn vào năm 1987, Banana Yoshimoto bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình. Kitchen, cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô ngay lập tức trở thành một hiện tượng với hơn 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ, và đã tái bản trên sáu mươi lần tại Nhật Bản. Báo chí gọi đó là "Bananamania" (Hội chứng Banana). Sau Kitchen, Banana đã bán trên sáu triệu bản sách tại Nhật Bản và đã trở thành một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới với hàng loạt các tác phẩm như N•P, Lisard, Asleep, Goodbye Tsugumi, Amrita, Sly, Argentina Hag, Hardboiled and Hard luck… trong đó Goodbye Tsugumi (tạm dịch: Vĩnh biệt Tsugumi) đã được dựng phim và đoạt Yamamoto Shugoro Literary Prize năm 1989, tiểu thuyết Amrita cũng được trao Murasakishikibu Prize năm 1994. Đến nay tác phẩm của Banana Yoshimoto bao gồm mười hai tiểu thuyết và bảy tập truyện ngắn. Hiện tại, Banana Yoshimoto đã lập gia đình và sống ở Tokyo. Khá khiêu khích, nữ tác giả còn phát biểu rằng tham vọng lớn nhất của mình là đoạt giải thưởng Nobel Văn học. *** Đã không còn là Banana Yoshimoto tự nhiên và bột phát với văn chương như trong Kitchen, N•P đưa người đọc đối diện với những đề tài nhạy cảm và gai góc. Như một khúc biến tấu của tác phẩm N•P bí ẩn trong truyện, N•P của Banana Yoshimoto nói đến tình yêu đồng tính và đồng huyết, xen lẫn vào đó là những suy tưởng về ý nghĩa và tác động của văn chương lên cuộc đời thực. Những mối tình trong N•P thêm một lần nữa, dẫn dụ chúng ta vào một không gian đầy màu sắc Banana Yoshimoto, với một lối văn nhẹ nhhưng không thoáng qua gọn ghẽ nhưng không thiếu cá tính. Thế giới tiểu thuyết của nhà văn nữ Nhật Bản nổi tiếng nhất hiện nay chưa bao giờ ngừng gây bất ngờ bởi sự mới lạ và độc đáo qua từng cuốn sách. Banana Yoshimoto, một trong những gương mặt nổi bật nhất của văn học Nhật Bản đương đại, thường được so sánh cùng Haruki Murakami và Ryu Murakami. Năm 1987, Kitchen ra đời, bắt đầu đưa cái tên Banana lên thành một cao trào trong giới thanh niên Nhật và độc giả quốc tế, được gọi là Hội chứng Banana (Bananamania). N•P là một trong những tác phẩm thành công nhất sau đó của nhà văn, cùng với các tiểu thuyết Vĩnh biệt Tugumi và Amrita.             “Một cuốn sách phi thường, với sức mạnh có được từ không khí trang nghiêm, từ sự chân thành đã không bị cái nhìn hoài nghi làm hỏng.” - Toronto Globe “Banana Yoshimoto là một bậc thầy kể chuyện… Những nỗi đam mê đã được mô tả một cách tinh tế, kín đáo, đầy sức mạnh qua một ngôn ngữ tưởng chừng giản dị.” - Chicago Tribune “Một lần nữa, Yoshimoto đã  khẳng định nghệ thuật chính vị sứ giả tốt nhất giữa các dân tộc.” - Library Journal *** Ngay cả bây giờ, đôi lúc tôi vẫn thường nghĩ tới Shoji. Tôi, một đứa học sinh cấp ba, đã yêu anh, mê say, chỉ biết yêu như hút tất cả mọi thứ vào mình. Gần như ngày nào tôi cũng ở cùng anh, tới nhà anh, giúp anh một tay dịch nháp. Quả thực, anh đã rất vui khi có tôi ở cùng. Điều đó là sự thật. Nhưng dẫu sao, sự đời còn có bao nhiêu là rối rắm, và tôi, đã không thể nào ngăn chặn được sự mệt mỏi đang ngày một tiến triển trong con người anh, từ trước khi chúng tôi gặp nhau. Tôi đã không thể thật sự thấu hiểu những gì chiếm một phần rất lờn trong nhân cách của anh, những thứ u buồn đã có ảnh hưởng đầy ma lực đối với tôi. Khi gặp anh, tôi là cánh bướm bổ nhào vào căn phòng nơi chiếc bóng đèm đang bắt đầu nứt vỡ mất rồi, trong trái tim anh. Cứ cho rằng tôi đã là niềm an ủi của anh đi chăng nữa, thì rốt cục cũng chỉ là việc mang tới một chút lưu ảnh lấp lòa của ban ngày vào trong bóng tối, rồi làm cho mọi thứ hỗn loạn thêm mà thôi. Phải chăng chính vì vậy mà trong những giấc mơ có anh xuất hiện, tôi luôn sắp sẵn tình huống, rằng tôi của bây giờ đã gặp anh của ngày xưa. Có lẽ bởi tôi thường nghĩ, nếu là tôi của bây giờ, thì ít ra tôi cũng có thể cùng anh trải qua những khoảng thời gian lặng lẽ nhưng vui vẻ, với những thứ không ồn ã. Hoặc giả, trên thực tế, có thể điều đó là vô phương đi nữa, thì tôi vẫn không chịu cam lòng. Giá như tôi được gặp anh bằng cái tôi của bây giờ. Tôi thường nghĩ vậy, ở đâu đó trong tim mình. Có thể tôi đã nâng giá trị của mình lên quá cao chăng. Thế nhưng, vào một lúc nào đó, khi nghe thấy những câu chuyện đầy rẫy kiểu như “linh hồn của người tự sát sẽ không được lên thiên đàng. Khoảnh khắc của sự đau khổ sẽ dừng lại mãi mãi”, tôi lại muốn phát cuồng. Tự trong trái tim mình, nhanh hơn từ bất kỳ nơi nào khác, nơi tôi muốn tin rằng đó chỉ là lời nói dối, khuôn mặt yếu ớt đang cười của anh lại hiện lên. Nụ cười mà không ai có thể vào được trong nó. Buổi sáng ngày Shoji chết, tôi đã ở trong phòng của anh. Một giấc mơ được đem đến bởi thứ ánh nắng mùa hạ lấp loáng xuyên qua lớp rèm cửa. Một buổi sáng đầy nắng ngay trước mùa hạ giống hệt lúc này đây. Buổi sáng, bao giờ Shoji cũng dậy sớm hơn tôi. Khoảng tám giờ sáng, tôi miễn cưỡng mở mắt ra để còn đi đến trường thì Shoji đã ngồi trước chiếc máy chữ tự bao giờ. Thứ âm thanh đơn điệu ấy, tấm lưng đang tập trung vào công việc thật điềm tĩnh ấy, làm tôi nhớ tới tấm lưng của mẹ thời thơ ấu. Tôi yêu chúng biết bao. Sự trầm lặng ở anh, một người lớn hơn tôi những mười bảy tuổi, đã trung hòa khối năng lượng thừ thải đang lúc xuân thì của tôi thành một thứ gì đó ôn hòa. Khi có anh thật tĩnh lặng. Cười đấy, đùa đấy, nhưng vẫn tĩnh lặng. Cho dù tôi có muộn giờ học, anh cũng chẳng bao giờ phá vỡ giấc ngủ của tôi. Và dù tôi nghỉ học hôm ấy, anh cũng chẳng đuổi tôi ra khỏi nhà. Một con người như thế đấy. Thế nhưng, buổi sáng đó thì khác. Tôi tắt chiếc đồng hồ báo thức và nhìn sang bên cạnh, Shoji đang ngủ với khuôn mặt xanh lét, không có sinh khí. Bên dưới mắt là vết thâm quầng, hơi thở cũng rất nhỏ. Tôi, đứa học sinh mười tám tuổi, khi nhìn thấy quang cảnh đó, chỉ thấy đau lòng chút ít, một thứ tâm trạng thật giản đơn, hời hợt. Tôi khẽ khàng đắp lại chiếc chăn chiên cho anh rồi tụt xuống giường. Tôi mặc bộ đồng phục vào, uống một cốc sữa. Buổi sáng yên tĩnh. Tôi cảm thấy trong căn phòng như có một thứ không khí khác lạ đang lẩn vào. Tôi tìm mãi chiếc đồng hồ đã vứt lung tung hay để quên đâu đó mà không thấy nên quyết định mượn chiếc đồng hồ của Shoji đang đặt trên bàn. Tôi đeo nó vào tay. Một cảm giác nặng như chì. Miếng kính phủ trên mặt chữ đen phát ra thứ ánh sáng sắc lạnh. Có cái gì đó vô cùng chán chường. Việc ở trong phòng của người khác khiến tôi thấy bồn chồn tựa như mắc phải chứng bệnh nhớ nhà. Phải rồi, buổi sáng ấy, căn phòng và mọi vật bên ngoài đều lặng như tờ, khiến tôi có cảm giác nghe thấy được cả tiếng thở khi ngủ của Shoji trên chiếc giường bên bậy cửa sổ. Từng cử động của tôi tự nhiên cứng đờ ra mà tôi không biết. Tôi khó thở. Trên chiếc bàn có đặt máy chữ, bản dịch câu chuyện số 98 đang đánh dở dang. Tôi cầm lên xem. Công việc vẫn chưa tiến triển được một nửa. Không thể có chuyện đó. Hôm trước anh vừa bảo sắp xong rồi cơ mà. A, nhưng một lần anh có nói, dịch mãi, dịch mãi mà vẫn thấy cái gì đó chưa ổn. Thế là anh dịch lại từ đầu rồi. Tôi nghĩ vậy. Vào lúc đó, tôi đã biết chuyện về hai dịch giả tự sát trước đó. Tôi lạnh người. Tôi viết một bức thư vào trang vở.   “Anh sớm hoàn tất công việc rồi chúng mình cùng ra biển chơi nhé. Giống như lần trước ấy, buổi sáng chúng mình tới sớm nhất, thay bộ đồ bơi và nằm dài trên bãi cát rồi nói thật nhiều chuyện. Em chờ anh. Em mượn tạm chiếc đồng hồ của anh. Rồi em sẽ quay lại trả anh ngay.”   Tôi thầm nghĩ, ước gì khi đọc thư, mùi hương và tiếng sóng biển nơi hai người đã tới sẽ vụt sống lại trong anh. Tận đáy lòng, tôi mong sao anh sẽ vì thế mà chợt muốn đi ra biển và hoàn thành công việc. Trên cả lòng ghen tị là nỗi sợ. Tôi thấy mình đang viết thư như để chống lại một thứ gì đó đen tối không thể nhìn thấy, mà tôi đã coi là kẻ thù. Tôi muốn làm anh nhớ lại biết bao kỉ niệm trong tình yêu của hai đứa, cảm xúc trong một đêm ấm áp; vẻ đẹp của dãy phố nhuộm màu vàng cam nhìn từ trong taxi với cái đầu còn ngái ngủ trên con đường anh đưa tôi về vào rạng sáng; và nước mắt, bàn tay anh nóng hổi. Tôi muốn anh nhớ lại mùi hương nồng nàn của tất cả những kỉ niệm ấy. Tôi mải miết suy tưởng như người con gái sắp bị bỏ rơi trong đoạn kết của một cuộc tình.   Vì sốt ruột nên ban ngày tôi đã gọi điện từ một bốt điện thoại bên sân trường. - Alô. - Shoji nghe máy với sắc giọng rất vui vẻ. Tôi thấy yên tâm. - Em gọi từ trường học. - Tôi nói. Sau lưng tôi, tiếng ồn ào nghe như những tiếng hoảng loạn trong trường giờ nghỉ trưa vọng đến. Thêm vào đó, bây giờ là thời gian vệ sinh bể bơi, tiếng lũ học sinh trực nhật cùng với tiếng nước dội ào ào thật náo động. Tôi cười và nói: - Ồn ào không? - Đến chói cả tai. - Shoji nói. - Em ăn cơm hộp à? - Em không ngủ ở nhà thì ai làm cơm hộp cho em chứ. Em ăn cơm căng-tin. - Tôi cười. - Em đúng là một cô bé cấp ba. - Giọng anh nghe đầy vẻ ghen tị. - Cảm ơn bức thư của em nhé. - Hai ba hôm nữa em lại tới. - Ừ. Tiếng huyên náo chạy khắp ngôi trường như lấp kín cả không gian. Lũ học trò thả sức vui đùa cứ như sự tự do của cả một ngày đều dồn vào ba mươi phút nghỉ trưa đó vậy. Những tiếng cười giòn tan, năng lượng được giải thoát. Tôi ngẩng mặt nhìn lên, bầu trời mùa hạ xanh biếc. Ánh nắng và bóng râm cứ lần lượt lướt qua con phố. Một buổi chiều chói chang. - Thế thôi em nhé. - Vâng, thế nhé. - Tôi dập máy. Đó là lần cuối cùng. Vào lúc đó, khoảng cách giữa đầu dây bên kia với bên này, giữa Shoji và tôi, xa và phức tạp hơn nhiều lần từ địa ngục tới thiên đàng. Cho dù tôi yêu anh nhiều lắm, nhưng sao tôi không thể làm cho anh hiểu được. Một thứ gì đó như không muốn truyền đi, không thể không truyền đi, hay không có khả năng nhận tín hiệu, và chẳng thể nào hiểu nổi. Tôi vẫn nghe người ta đồn đại rằng, những kẻ yêu nhau thường hay như vậy. Vào lúc ấy, tôi đâu biết rằng sự hư hoặc ấy là có thật trong hiện thực này. Tôi cứ nghĩ rằng nó chỉ xảy ra ở một thế giới sầu muộn xửa xưa, như trong những chuyện cổ tích của xứ sa mạc thẳm xa nào đó, nó tuyệt chỉ là một câu chuyện đau khổ không có thật. Chỉ riêng tôi ngỡ mình đang sống giữa khu vườn địa đàng ấy mà thôi.   Mời các bạn đón đọc N.P của tác giả Banana Yoshimoto.