Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội

Với giọng điệu duyên dáng và hóm hỉnh, “Lãng quên em sau mùa lễ hội” của nhà văn lãng mạn người Mỹ - Julia Quinn khiến độc giả cảm thấy mình yêu đời hơn và muốn được, dù chỉ một lần, nhấm nháp chút men nồng của tình yêu. 12 năm - đó là khoảng thời gian dành cho mối tình đơn phương của Penelope dành cho người đàn ông hấp dẫn nhất London - Colin Bridgerton. Tiểu thư nhà Featherington đã bị "sét đánh" trước tuổi mười sáu cho tới khi trở thành "gái già". Từng ấy thời gian cho một câu chuyện tình xuất phát từ một phía là quá dài, thậm chí tới mức nhàm chán nhưng với Penelope thì không hẳn như vậy. Và cô gái già này đã tỏa sáng theo cách riêng của mình. Kể về một mối tình lãng mạn đặt trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX, Lãng quên em sau mùa vũ hội mang tới một góc nhìn châm biếm về xã hội thượng lưu Anh. Đó là nơi mọi người giết thời gian bằng ti tỉ những câu chuyện phiếm mà gia vị tăng giảm phụ thuộc vào kỹ năng hóng hớt của các bà các cô. Và người đã mạnh dạn đứng ra châm ngòi cho cái nhìn hài hước là một nhân vật bí ẩn, ký bút danh là phu nhân Whistledown cùng sự xuất hiện của Thời báo Xã hội mỗi tuần ba số. Với những thông tin chính xác cùng cách điểm mặt đích danh các nhân vật có thật, các bài báo của phu nhân Whistledown nhanh chóng trở thành liều thuốc buôn chuyện cho giới thượng lưu ở London. Và cho dù Penelope xuất hiện lần nào cũng chua chát lần đó, nhưng hãy chờ xem một cái kết có hậu được dự đoán ở phần cuối của cuốn sách này. Chẳng có thần may mắn nào mang tình yêu tới cho Penelope ngoài chính cô. Không như vẻ ngoài khá mờ nhạt cùng tốc độ ngôn ngữ luôn phản ứng chậm hơn so với điều lẽ ra phải xảy ra, đó là một cô gái vô cùng đặc biệt mà chỉ có những người nào thật hiểu cô mới cảm nhận rõ điều đó. Và nếu như tình yêu duy nhất của cô – Colin là một người đàn ông nhạt nhẽo, chỉ thích rong chơi qua những chuyến du lịch thì có lẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Penelope không chỉ là một cô gái luôn đứng bên rìa các vũ hội, cô có khả năng làm nhiều chuyện to tát hơn là nhăm nhe tìm cho ra đức lang quân tại đó. Chính những hành động mà cô đã can đảm thực hiện vượt qua ngoài quy tắc thông thường đã đánh thức Colin biết cảm nhận và chiêm ngưỡng cô đến mê muội. Với tác phẩm Lãng quên em sau mùa vũ hội, nhà văn lãng mạn người Mỹ - Julia Quinn mang tới một giọng điệu duyên dáng và hóm hỉnh. Làm thế nào để một cô gái già chinh phục được người đàn ông quyến rũ nhất London? Đó là một giấc mơ thật ngọt ngào và thú vị. Đọc sách Lãng quên em sau mùa vũ hội, độc giả sẽ cảm thấy mình yêu đời hơn và muốn được, dù chỉ một lần, nhấm nháp chút men nồng của tình yêu. Và khi yêu, mọi điều kỳ diệu nhất đều có thể xảy ra. Tại sao lại không? *** Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra 24 thứ tiếng, 16 lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA và Chuyện xảy ra ở London đã mang lại cho Quinn giải RITA năm 2010. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác khi vừa rời trường trung học, và thành công ngay từ các tác phẩm đầu tay. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ.   Những tác phẩm của Julia Quinn đã được xuất bản: Như Chốn Thiên Đường - Julia Quinn Tử Tước và Em - Julia Quinn Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn Công Tước Và Em - Julia Quinn Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế - Julia Quinn Rồi Cũng Khép Những Tháng Ngày Đơn Độc - Julia Quinn Chuyện xảy ra ở London - Julia Quinn Rạng rõ hơn Ánh Mặt Trời - Julia Quinn Hẹn Ước dưới Vầng trăng - Julia Quinn Tiểu Thư Tinh Ranh Bí Mật Của Những Nụ Hôn Một Mình Yêu Anh Vì Cô Bridgerton Cô Gái Với Niềm Tin Vợ Chồng Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội ... *** Penelope Featherington, Colin Bridgerton: Năm ngoái mình đọc một cuốn gì đó của Julia Quinn hoặc đại loại của một tác giả lãng mạn phương Tây nào đó và tự nhiên không có một chút ấn tượng nào về thể loại này cho đến khi mình tìm đọc nhiều hơn từ các tác phẩm của Mary Balogh – viết về những người phụ nữ luôn mỉm cười lạc quan, Barbara Cartland – với những cô gái luôn phải vượt qua rất nhiều nghịch cảnh và đến Julia Quinn – mình đã yêu điên cuồng những người phụ nữ giản dị nhưng đầy cá tính. Còn đang ước ao sao không đọc về những tác phẩn của Julia sớm hơn. Bàn về cách hành văn, ngôn ngữ rất tinh tế, những câu thoại hóm hỉnh, thông minh, các tình tiết không thừa không thiếu, nhân vật được đặt vào trung tâm của câu chuyện. Một điều đặc biệt, từ khi đọc sách cho đến tận lúc này, chưa bao giờ mình khen tác giả viết về chuyện làm tình của nhân vật mà đẹp đến như vậy. Hoàn toàn không có chỗ cho sự dung tục trong giây phút riêng tư ấy, mình gần như cảm nhận được sự tôn trọng, dịu dàng lẫn trong sự cuồng nhiệt cháy bỏng của Colin bị nàng Penelope hút lấy cả tâm hồn lẫn thể xác. Thật vậy, những nụ hôn không chỉ khiến con tim của bạn đọc ngất ngây, Julia đã thổi những tình cảm đầy mê hoặc vào từng cái vuốt ve, từng điệu cuốn lưỡi, từng sự đụng chạm rụt rè đầy quyến rũ. Quả thật không hổ danh cho người đã từng học Havard! Penelope là một cô gái nhà Featherington, có một khởi đầu không mấy tốt đẹp trong mùa lễ hội ra mắt. Cô tự ti vì thân hình thừa cân, lại bị gói trong những bộ váy sặc sỡ hoàn toàn không phù hợp với nước da và vóc dáng của mình. Hai năm liên tiếp sau đó, cô luôn thiếu sự tin tưởng vào hình thể và không được quyền lựa chọn càng làm cho cô gái chán nản, dần dần đẩy cô sang bên lề của sàn khiêu vũ. Cô càng ngày càng có thể điêu luyện trong việc trở nên vô hình trong mắt mọi người xung quanh. Colin – ngược lại, là một chàng trai phong tình đầy quyến rũ, chưa có cô gái nào có thể làm khó chàng hay giữ được con tim của chàng trong chốc lát. Lần đầu tiên Penelope gặp Colin, cô đã hạ “đo ván” chàng bằng một cú ngã ngựa giữa công viên đông đúc. Vậy mà Colin dường như không xấu hổ, anh còn trêu ghẹo cô bé Penelope mười sáu tuổi khiến cô ngẩn ngơ, trái tim đập dồn dập và cô dường như đã yêu anh từ cái nhìn đầu tiên trong ngày nắng rực rỡ ấy. Và rồi mỗi năm vào mùa vũ hội, cô gái Penelope lại trông chờ lời mời khiêu vũ từ Colin – mà cô luôn tin chắc rằng anh mời cô vì mẹ anh bắt buộc, vì anh thấy thương hại cho sự “ra rìa” của cô trong giới quý tộc. Bảy năm sau, tình hình vẫn vậy, cô vẫn lặng lẽ trở thành một “gái già” bên cạnh cô bạn thân Eloise nhà Bridgerton. Mặc dù không quyết tâm làm bà cô, nhưng hai cô gái dường như đồng cảm và mặc nhiên chấp nhận cái sự ế ẩm của mình và không còn bị các bà mẹ lo sốt vó trong việc cưới gả nữa. Đang yên tâm với cuộc sống làm người tháp tùng và bám váy mẹ đến già, Penelope bị Colin “bắt bài”, anh dần dần phát hiện ra một Penelope mà chưa ai từng khám phá ra. Cô gái tưởng như vô hình đó lại chính là bản sao của phu nhân Danbury – một góa phụ rất cá tính, luôn đối đầu với tất cả mọi quý tộc, nhận xét thẳng thắn, bộc trực, hay châm biếm các thói quen rởm đời cũng như sự giả dối trong tình cảm nhưng cũng là người có lý có tình. Và phu nhân Whitledown chính là một phiên bản bí ẩn của phu nhân Danbury trên thời báo Xã hội. Người phụ nữ bí ẩn đó bắt đầu viết các bài báo châm biến giới quý tộc London từ năm Penelope bắt đầu bước chân vào các bữa tiệc. Với các bài báo châm biếm sắc sảo và công khai danh tính của từng người cụ thể, phu nhân Whitledown – hay còn gọi là phu nhân Tuýt còi gọi thẳng tên những bí mật xấu xa hoặc những thói khoe khoang của đám người rỗi hơi ấy. Và chính phu nhân Danbury cũng dần dần phát hiện ra Penelope rất có tài trong việc tự giấu mình cũng như thỉnh thoảng đưa ra những nhận xét rất đúng bản chất sự việc. Hai con người – một già một trẻ, một tự tin một nhút nhát ấy đặc biệt có cảm tình với nhau. Bà đã gây không ít ảnh hưởng thúc đẩy Penelope dần dần quay về với con người cô luôn che dấu. Và đúng lúc đó, Colin đã để mắt đến cô. Họ đã quen biết nhau nhiều năm, cô từng yêu, hâm mộ, hy vọng anh để mắt và ôm mối thất vọng mỗi năm một lớn dù tình yêu trong cô chưa bao giờ nguội lạnh. Rồi tình cờ, Penelope đọc được một trang nhật ký của Colin viết về những nơi anh đã đi qua, những trang viết làm cô ngạc nhiên vì khơi gợi biết bao cảm xúc trong lòng người đọc và những đồng cảm với người viết. Colin ngược lại khi phát hiện ra cô đọc lén nhật ký của anh đã rất tức giận, vì một phần anh xem đó là sự riêng tư của anh, nhưng phần lớn anh tự ti với những viết lách ấy mà anh nghĩ nó không làm cho anh mạnh mẽ hay giúp anh có một sự nghiệp để đời. Anh cảm thấy mình lông bông, không thành tựu trong tay, trong khi đó anh trai Anthony là một tử tước rất có trách nhiệm, và Benedict là một họa sĩ vẽ tranh phong cảnh được công nhận. Và cũng nhờ việc xem lén nhật ký mà hai người dần dần sít lại gần nhau hơn, cô thuyết phục anh xuất bản những ghi chép thú vị của mình, anh cũng nhờ cô cho ý kiến về chúng khi anh phát hiện ra cô có thể đưa ra những nhận xét tinh tế và đầy thấu hiểu. Rồi một ngày anh tình cờ phát hiện ra hành tung cực kỳ lạ lùng của cô khi cô lên một chiếc xe ngựa và đi đến khu đông London – một nơi đầy nguy hiểm cho một cô gái quý tộc nhỏ bé không có người đi kèm. Một bí mật tày trời mà anh đột ngột phát hiện ra cô chính là phu nhân Whistedown đầy bí ẩn mà cả giới quý tộc săn lùng bấy lâu nay. Anh đánh giá rất cao sự xuất sắc của cô trong sự nghiệp viết báo và khả năng che dấu suốt mười năm trời nhưng đồng thời cũng cảm thấy ghen tỵ vì cô gái nhỏ đã có một sự nghiệp lớn trong khi anh cứ trôi dạt suốt chừng ấy năm. Và anh cũng đột ngột ý thức được những hoàn cảnh khó khăn mà cô phải đối mặt khi thân phận đặc biệt này bị phát hiện. Vì không muốn cô bất lợi, bị gạt ra khỏi giới thượng lưu vĩnh viễn, anh đã cấm cô không được viết báo nữa. Hành động này làm cô hiểu lầm rằng anh cảm thấy xấu hổ vì những gì cô làm. Cho đến khi, nhân vật luôn tranh cãi và hạ thấp cô – cô bạn Cressida vạch trần thân phận thật sự của phu nhân Whitledown phía sau Penelope. Cô những tưởng không còn cách nào để đối mặt với khó khăn này thì Colin đã không chần chừ quyết định thay cô công bố với toàn xã hội rằng cô chính là người phụ nữ đầy quyền lực trong bóng tối, người đã duy trì vị thế thổi còi mọi điều bí ẩn của London trong suốt mười năm trời, người đã đưa ra những nhận xét vô cùng xác đáng và chưa bao giờ châm chích những con người tự trọng khác. Anh vui sướng thông báo cho toàn thể thế giới rằng cô gái Penelope không nổi bật ấy chính là một báu vật trong lòng anh và cô không hề tầm thường chút nào. Cô cuối cùng cũng buông bỏ được trách nhiệm làm người thổi còi, chấp nhận tình yêu của anh và còn động viên anh xuất bản cuốn sách du lịch mà anh đã chắp bút trong suốt những năm di chuyển không ngừng. Chàng trai quyến rũ và mải mê phiêu dạt đã tìm được vùng đất hạnh phúc của mình có tên Penelope. Chàng và nàng sẽ hạnh phúc mãi mãi về sau. Cô gái Penelope có chút đặc biệt trong lòng mình khi cô đã dũng cảm thực hiện một việc rất mạo hiểm nhưng cũng đầy thú vị trong các xã hội đầy sự nhàm chán và không ít giải dối. Tuy là một cô gái không nổi bật về ngoại hình, nhưng vẻ đẹp bên trong tâm hồn và sức mạnh từ những nhận xét sắc sảo đã làm nên một Penelope cá tính khác thường trong lòng Colin. Cô sẽ là phu nhân anbury trong tương lai, người luôn đối mặt với tất cả những điều phải quấy, đặt mọi vấn đề về đúng vị trí của chúng và trân trọng những con người tự trọng quanh mình. Mình luôn phải lòng những cô gái mạnh mẽ, có chút lạ lùng và rất bình thường ấy, họ chính là chúng ta trong một khóa cạnh nào đấy, trong một lúc nào đó và trong mắt một ai kia Review Zoe Tran   Mời các bạn đón đọc Lãng Quên Em Sau Mùa Vũ Hội của tác giả Julia Quinn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xơ Carrie - Theodore Dreiser
Xơ Carrie là câu chuyện về số phận của một cô gái quê chuyển đến thành phố lớn, nơi cô bắt đầu nhận thức được giấc mơ Mỹ của mình. Ban đầu, cô trở thành tình nhân của những người đàn ông mà cô ngỡ là thượng đẳng, rồi sau đó cô trở thành một nữ diễn viên nổi tiếng. Tồn tại hơn một thế kỷ, cho đến nay Xơ Carrie được coi là một trong những tiểu thuyết hay nhất về thị thành nước Mỹ, khai thác được những chi tiết táo bạo trong bản chất con người, cũng như ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa đến toàn bộ dân Mỹ vào cuối thế kỷ 19. *** Xơ Carrie được xếp hạng cao trong 100 tiểu thuyết hay nhất viết bắng tiếng Anh của thế kỷ 20. - MODERN LIBRARY Xơ Carrie là câu chuyện hiện thực, tàn nhẫn, sắc sảo, để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ bạn đọc trong nhiều ngày liền. - LONDON EXPRESS Theodore Dreiser là nhà văn rất độc đáo, có cảm xúc sâu sắc và lòng can đảm không thể lay chuyển. Bức chân dung chân thật, sống động về cuộc đời Carrie được coi là sự cố gắng dũng cảm, giúp bạn đọc có cái nhìn hiện thực về cuộc sống của phụ nữ Mỹ cuối thế kỷ 19. - H.L.MENCKEN Xơ Carrie đã được đạo diễn William Wyler đưa lên màn ảnh do các nghệ sĩ danh tiếng Laurence Olivier và Jennifer Jones đóng vai chính. Trong Xơ Carrie, Theodore Dreiser miêu tả sinh động sức mạnh tàn bạo của những quyết định sai lầm - hoặc thiếu kiên quyết - hủy hoại cuộc đời con người. - REBECCA GLEASON   *** Theodore Dreiser (1871 - 1945). Là ngôi sao sáng giá trong nền văn chương nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Hơn bốn mươi năm sáng tác, Dreiser đã cho ra đời nhiều bộ tiểu thuyết, truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, kịch... Ba cuốn tiểu thuyết: Một bi kịch nước Mỹ, Xơ Carrie và Jenny Ghechac đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. *** Khi Caroline Meeber đáp chuyến tàu chiều đến Chicago, “toàn bộ hành trang của cô chỉ gồm một vali nhỏ, một cái cặp rẻ tiền giả da cá sấu, một bữa trưa đạm bạc đựng trong hộp giấy và cái ví bấm bằng da màu vàng đựng vé, mảnh giấy ghi địa chỉ của chị cô ở phố Van Buren và vẻn vẹn bốn đôla. Đang là tháng Tám năm 1889. Cô mười tám tuổi, rạng rỡ, bẽn lẽn và đầy ảo tưởng vì dốt nát và tuổi trẻ. Mọi nỗi ân hận lúc chia tay chắc chắn lúc này chẳng có lợi gì cho một người đã từ bỏ. Những giọt nước mắt tuôn trào trong cái hôn từ biệt của mẹ, cổ họng cô nghẹn ngào khi xe chạy lóc cóc qua xưởng xay bột, nơi bố cô làm việc ban ngày, một tiếng thở dài cảm động lúc phong cảnh xanh tươi quen thuộc của miền quê lướt qua trong hồi tưởng, những sợi dây ràng buộc nhẹ nhàng thời thiếu nữ và gia đình cô đã đứt tan, không sao cứu vãn nổi. Chắc chắn rằng lúc nào cũng có một ga sau, người ta có thể xuống tàu và trở lại. Có một thành phố lớn, kết nối chặt chẽ hơn bằng chính những đoàn tàu đi, đến hàng ngày. Thành phố Columbia cách không xa lắm, ngay cả khi cô đã ở Chicago. Lạy Trời, còn vài giờ hay vài trăm dặm nữa? Cô nhìn vào mảnh giấy nhỏ ghi địa chỉ của người chị và lo lắng. Cô chăm chú nhìn quang cảnh xanh tươi lúc này đang lướt nhanh, cho đến khi những ý nghĩ mau lẹ hơn thay thế ấn tượng bằng những phỏng đoán mơ hồ, liệu Chicago sẽ như thế nào. Khi một cô gái mới mười tám tuổi xa nhà, cô ta sẽ làm một trong hai việc. Hoặc rơi vào những bàn tay cứu giúp và trở nên tốt hơn, hoặc nhanh chóng công nhận tiêu chuẩn đạo đức của kẻ giang hồ và trở thành xấu hơn. Dù ở hoàn cảnh nào cũng không thể ở lưng chừng. Thành phố có những mưu chước xảo trá của nó, không kém phần ti tiện và đầy mưu chước cám dỗ con người. Những người có học nhất đã thể hiện sức lôi cuốn to lớn với đủ thứ tầm thường. Ánh lấp lánh của hàng ngàn ngọn đèn gây ấn tượng sâu sắc chẳng kém gì ánh mắt thuyết phục trong cái nhìn ve vãn và quyến rũ. Một nửa sự đồi trụy của trí tuệ mộc mạc và tự nhiên là do những sức mạnh hoàn toàn siêu phàm gây nên. Một âm thanh ầm ĩ, một tiếng thét của con người, một đám nhân quân đông đúc khiến các giác quan ngạc nhiên bằng nhiều cách nói lập lờ. Không có một cố vấn gần ngay đó thì thầm những lời giải thích thận trọng, rằng sự lừa dối có thể là những lời thì thào vào một cái tai thiếu cảnh giác! Không nhận ra chúng, vẻ đẹp của chúng giống như âm nhạc, thường làm ta thanh thản, trở nên yếu đuối, rồi làm nhận thức của những người hồn nhiên hơn dễ lầm đường lạc lối. Caroline, hay xơ Carrie như cả nhà gọi cô khá trìu mến, có khả năng quan sát và phân tích của một trí tuệ còn thô sơ. Tính vị kỷ của cô cao nhưng không mạnh. Dẫu sao, nó cũng là đặc điểm chủ yếu của cô. Sôi nổi với những tưởng tượng của tuổi trẻ, đẹp theo kiểu xinh xắn trong giai đoạn đang trưởng thành, sở hữu một thân hình có những đường cong đầy hứa hẹn và cặp mắt ngời sáng với vẻ thông minh bẩm sinh, cô là mẫu người đẹp của tầng lớp trung lưu nước Mỹ, khác biệt với người di cư hai thế hệ. Sách vở ở ngoài tầm chú ý của cô, kiến thức là một cuốn sách niêm kín. Trong vẻ duyên dáng bẩm sinh của cô vẫn còn chút gì đó thô thiển. Chắc chắn là cô không biết cách hất đầu cho duyên dáng. Đôi bàn tay cô gần như vô dụng. Bàn chân cô tuy nhỏ nhắn nhưng bẹt. Tuy nhiên, cô được chú ý vì vẻ quyến rũ, nhanh hiểu những khoái lạc mãnh liệt của cuộc đời, thèm muốn giành được những thứ vật chất, cô là một hiệp sĩ trang bị nửa vời, liều thăm dò thành phố bí ẩn và mơ những giấc mộng ngông cuồng của một uy quyền tối cao xa vời, mơ hồ, biến nó thành con mồi và thần dân - người ăn năn hợp thức, bò sát bên giày đàn bà. ... Mời các bạn đón đọc Xơ Carrie của tác giả Theodore Dreiser.
Pierre Và Jean - Guy de Maupassant
Trong thời gian sáng tạo ngắn ngủi – quãng mười năm của cuộc đời không dài (1850-1893), Guy de Maupassant dành nhiều quan tâm cho truyện ngắn, và cũng nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Có lẽ vì thế, sáu cuốn tiểu thuyết của ông ít được người đọc cũng như giới phê bình chú ý (tất nhiên vẫn có ngoại lệ, Lev Tolstoi, đại văn hào Nga cùng thời, coi cuốn "Một cuộc đời", cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Maupassant là "cuốn tiểu thuyết Pháp hay nhất, từ sau Những người khốn khổ của Hugo"). Khoảng vài chục năm cuối thế kỷ XX tình hình có khác và trong sự tiếp cận "đổi mới" tiểu thuyết Maupassant, các nhà nghiên cứu dành một vị trí khá đặc biệt cho Pierre và Jean, cuốn tiểu thuyết thứ tư, xuất bản năm 1888. Với dung lượng không lớn, chỉ như một truyện ngắn, Pierre và Jean có cấu trúc giản dị, văn chương trong sáng. Song, khảo sát sâu hơn, sẽ thấy bên dưới vẻ tự nhiên, đơn sơ, là công phu, là sự lão luyện về phương diện ngôn ngữ và thủ pháp thuật truyện. Về mặt sự kiện, chất liệu của cuốn tiểu thuyết khá ít ỏi: trong một gia đình có hai con trai, người em bất ngờ được thừa kế một tài sản lớn. Biến cố không ở bản thân sự kiện, không do sự kiện tạo nên, mà ở những gì chúng tiết lộ. Và câu chuyện là diễn tiến của một phát hiện – người con lớn phát hiện quá khứ của mẹ mình, phát hiện quan hệ thực sự giữa các thành viên trong gia đình mình. Dần dắt truyện vẫn là một người kể biết hết mọi điều, nhưng ở đây sự "biết hết" rằng có chừng mực, bởi người này hay lẩn mình đi tại những khoảnh khắc chủ chốt, hoặc cứ để lửng lơ một số điều không được nói ra (như ý nghĩ của bà mẹ, của nàng thiếu phụ Rosémilly), hoặc cho sự vật được soi rọi từ điểm nhìn của Pierre, người con cả. Phương thức kể chuyện như thế khiến Pierre và Jean chuỷên thành cuốn tiểu thuyết viết về quá trình của một tư duy, thế giới chính của truyện là thế giới tinh thần, tâm trạng. Đó cũng là chất liệu ưa thích của tiểu thuyết thế kỷ XX, khi các tác giả ngày càng có xu hướng đưa người đọc vào thế giới riêng của một tâm tư, một trí óc, với những dằn vặt, ám ảnh, độc thoại nội tâm. Điều này lý giải vì sao hiện nay nhiều nhà nghiên cứu lại đánh giá Pierre và Jean là một bước chuyển từ truyền thống tiểu thuyết thế kỷ XiX sang tính hiện đại đang manh nha. Một yếu tố khác cũng khiến Pierre và Jean được coi như có tinh bán lề giữa tiểu thuyết hai thế kỷ, giữa truyền thống và cái mới, đó là bài Tựa quan trọng, một tiểu luận được Maupassant đặt cho tiêu đề "Tiểu thuyết". Như một tuyên ngôn, bài Tựa phát biểu những suy nghĩ của Maupassant về phê bình, về thể loại tiểu thuyết, về công việc sáng tác, và về chủ nghĩa hiện thực. Maupassant chống lại thiên kiến hẹp hòi trong phê bình và nhận xét rất chính xác về tính chất mở của tiểu thuyết, một thể loại động, tự do, cho đến bấy giờ vẫn theo quy phạm hoá chặt chẽ. Ông cũng nêu lên ý kiến của mình về chủ nghĩa hiện thực, những ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay tán thưởng, bởi theo họ, chúng lý giải nghịch lý cũng như tính biện chứng nội tại của khái niệm: sự thật và tính văn chương, phản ánh và hư cấu. Theo Maupassant, bằng việc lựa chọn sự kiện, bằng cách kết hợp, cấu tạo lại các sự kiện, nhà tiểu thuyết truyền đạt cho người đọc cái nhìn riêng của cá nhân anh ta đối với thế giới "tả thực là tạo ra ảo tưởng trọn vẹn về cái thực" do đó "các nhà hiện thực tài ba lẽ ra phải gọi là các nhà gây ảo tưởng thì đúng hơn". Suy nghĩ về công việc của nghệ sĩ, về những gì nghệ sĩ cần và có thể làm, Maupassant đã đặt chân vào con đường trên đó văn học thế kỷ XX sẽ quyết liệt dấn bước, đặt câu hỏi về bản thân, đặt câu hỏi về hành vi viết, hành vi đọc. Có thể đọc Pierre và Jean một cách thoải mái, như một câu chuyện nhẹ nhàng, pha chút ý vị trinh thám. Cũng có thể thưởng thức tác phẩm như một cuốn tiểu thuyết đậm sắc thái hội hoạ ấn tượng chủ nghĩa với hình ảnh trở đi trở lại và vai trò của nước, mô típ ưa thích trong hội hoạ ấn tượng, với tầm quan trọng dành cho sự cải tạo của cái nhìn, với thủ pháp cho nhân vật tự hình thành dần trong mắt độc giả, tương tự cách sử dụng những quệt màu liên tiếp để gợi bức tranh toàn cảnh. Lại cũng có thể, như một vài nhà phê bình phân tâm học Pháp, tìm thấy ở tác phẩm mặc cảm Oedips ngầm ẩn bên dưới cấu trúc gia đình, và sự thấp thoáng của cái vô thức. Đó là cách tiếp cận riêng, là sở thích, là hứng thú cá nhân, tùy thuộc, nói như Maupassant, vào cái tạng của mỗi người NGƯỜI DỊCH *** Henri René Albert Guy de Maupassant (1850–1893) là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp. Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp, trong một gia đình giàu có. Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường Phổ thông cao đẳng tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (1870–1871). Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20. Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống. Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris. Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn.   Tiểu thuyết Một cuộc đời (Une vie, 1883) Anh bạn đẹp (Bel-Ami, 1885) Mont-Oriol (1887) Pierre et Jean (1888) Fort comme la Mort (1889) Notre Coeur (1890) Truyện ngắn Viên mỡ bò (Boule de Suif, 1880) La Maison Tellier (1881) Une partie de campagne (1881) Cô Fifi (Mademoiselle Fifi, 1882) Contes de la Bécasse (1883) Au soleil (1884) Clair de Lune (1883) Les sœurs Rondoli (1884) Yvette (1884) Miss Harriet (1884) Adieu (1884) Monsieur Parent (1885) Contes du jour et de la nuit (1885) La Petite Roque (1886) Toine (1886) Le Horla (1887) Sur l'eau (1888) Le Rosier de madame Husson (1888) L'héritage (1888) La Main gauche (1889) Histoire d'une fille de ferme (1889) La vie errante (1890) L'Inutile beauté Le père Millon (1899, sau khi chết) Le colporteur (1900) Les dimanches d'un bourgeois de Paris (1900) Bố của Simon (Le Papa de Simon) La Ficelle (1883) La Légende du Mont St Michel (1882) Kịch Histoire du vieux temps (1879) Musotte (1890) La paix du ménage (1893) Une répétition (1910) Phê bình Émile Zola (1883) Étude sur Flaubert (1884) Mời các bạn đón đọc Pierre Và Jean của tác giả Guy de Maupassant.
Những Đứa Con Phố Arbat - Anatoli Rybakov
Anatoly Naumovich Rybakov (Anatoli Rybakov) sinh ngày 14.1.1911 trong một gia đình gốc Do Thái ở Chernygov, từ năm 1919 chuyển về Moskva sống tại phố cổ Arbat. Tốt nghiệp phổ thông, nhà văn tương lai phải làm nhiều nghề kiếm sống: công nhân xưởng hóa chất, bốc vác, lái xe… nên hai mươi chín tuổi mới bước chân vào trường đại học Giao thông vận tải. Thế nhưng, học được ba năm, ngày 5 -11.1933, A. Rybakov bị bắt và lĩnh án tù giam ba năm vì tội “tuyên truyền phản cách mạng”. Mãn hạn tù, không được phép cư trú trong thành phố, anh lang thang hầu khắp nước Nga, nhận làm tất cả các công việc kiếm sống miễn là không phải khai báo, cho đến năm 1938 mới được vào biên chế chính thức, làm kỹ sư trưởng phòng quản lý vận tải đường bộ khu vực Riazan. Năm 1941, chiến tranh bùng nổ, A. Rybakov vào phục vụ trong các đơn vị vận tải quân đội, tham gia chiến đấu ở hầu khắp các mặt trận từ Moskva đến Berlin, năm 1946 làm đến chức trưởng ban cơ giới của quân đoàn, mang hàm kỹ sư thiếu tá. Do những thành tích xuất sắc trong chiến đấu chống quân phát xít, Rybakov được sửa lý lịch, thành “không có tiền sự, tiền án” và đến năm 1960 thì được khôi phục danh dự hoàn toàn. Một trường đời như thế mà để ngoài văn chương thì thậm vô lý - và năm 1947, Rybakov bắt đầu hướng vào hoạt động văn học, mở đầu là thiên truyện phiêu lưu li kỳ dành cho tuổi thiếu niên Thanh đoản kiếm (1948, được đưa lên màn ảnh hai lần, vào năm 1954, 1973) rồi hai phần tiếp theo: Con chim đồng (1956, thành phim năm 1974) và Tiếng súng (1975, trước đó, năm 1974 đã được dựng thành phim Mùa hè cuối cùng của tuổi thơ). Thành công của hai cuốn sách đầu tay giúp nhà văn tự tin đi tiếp mạch truyện viết cho thiếu niên: từ Những cuộc phiêu lưu của Krosh (1960, thành phim năm 1961) ông viết hai cuốn tiếp theo Những kỳ nghỉ của Krosh (1966, thành phim năm 1979), Người lính vô danh (1970, hai lần lên màn ảnh - Phút mặc niệm, 1971 và Người lính vô danh, 1984).  Ở thể loại tiểu thuyết dành cho người lớn, Rybakov thử sức bằng cuốn Những người cầm lái (1950, về những chiến sĩ lái xe vận tải, cựu đồng nghiệp của mình), và năm sau được giải thưởng Stalin hạng nhì. Khi Stalin thấy trong danh sách những nhà văn được đề nghị tặng giải thưởng mang tên mình có Rybakov, ông bèn bảo A. Fadeev, người đứng đầu Hội Nhà văn Liên Xô hồi ấy: “Thế đồng chí có biết người này đã bị khai trừ đảng và ba lần bị tòa xử về tội phản cách mạng?” Và Rybakov đã giải trình được: ông chưa hề được kết nạp nên không có chuyện khai trừ, còn án tù thì đã được hủy từ khi ông đang ở chiến trường. Tiếp đó, Rybakov thành công lớn với Ekaterina Voronina (1955, về đường đời một cô gái mồ côi trở thành nhà quản lý giao thông đường sông với những thăng trầm theo thời cuộc, được dựng thành phim năm 1957) rồi cho ra đời Mùa hè ở Sosnyaky (1964, về nhân tình thế thái tại công trường xây dựng một khu liên hợp hóa chất bên bờ hồ Baikal). Năm 1978, cuốn Cát nặng ra đời. Tiểu thuyết này kể về chặng đời 1910 - 1950 của một gia đình người Do Thái tại một địa phương có nhiều dân tộc chung sống ở miền bắc Ukraina, về mối tình sâu nặng bất chấp mọi rào cản qua hàng chục năm, về thảm kịch lò thiêu người của bọn phát xít làm thiệt mạng hàng triệu người dân tộc thiểu số thuộc những quốc gia khác và xóa sổ gần 1/3 tổng số người Do Thái trên toàn cầu, đồng thời kể lại gương chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ du kích chống phát xít. Tác phẩm đỉnh cao này kết hợp được cả vẻ đẹp văn chương, cả chiều sâu triết học, vừa có sự phân tích lý giải những sự kiện lịch sử, vừa có tính biểu tượng cao: hình tượng nữ nhân vật chính trong mối tình kể trên, và sau đó, ở phần cuối tiểu thuyết, là người mẹ, người vợ của Rakhile đầy tính ẩn dụ về lòng căm thù của dân Do Thái đối với phát xít Đức. Tác phẩm được chuyển thể thành phim truyền hình nhiều tập năm 2008. Chịu số phận lận đận hơn cả là tiểu thuyết Những đứa con của phố Arbat: được tác giả viết xong từ những năm 1960, thời Khrutshov, nhưng đến năm 1987 thời Gorbachov phát động cuộc cải tổ mới có thể đến với độc giả và năm 2005 thành phim truyền hình nhiều tập. Trong lứa thiếu niên ở phố Arbat đầu thế kỷ XX khá nhiều người tài, trong đó có nhà thơ - nhạc sĩ Bulat Okudjava và nhà văn Anatoli Rybakov cùng sống ở dãy nhà đánh số lẻ. Cả hai nhà văn bậc thầy này đều đã ra mặt trận chiến đấu: Okudjava - con trai của một tù nhân - tình nguyện nhập ngũ khi mới mười bảy tuổi, còn Rybakov – cựu tù nhân về tội “tuyên truyền phản cách mạng” – sung vào đơn vị vận tải quân sự và được phục hồi danh dự khi Okudjava đã có năm năm tuổi Đảng. Những đứa con của phố Arbat là tác phẩm sớm nhất viết về số phận lứa thanh niên mới lớn vào những năm 1930 và được dịch giả Lê Khánh Trường nhanh chóng chuyển sang tiếng Việt. Cốt truyện tự nhiên dựa trên những biến cố có thật trong đời tác giả, với nhãn quan đúng đắn của nhà văn, nhìn nhận chuyện quá khứ tuy vương nỗi buồn thương, nhưng bao trùm là một thái độ khoan dung, không oán thán, Những đứa con của phố Arbat được coi như một “quả bom tấn trong văn học”, mang lại vinh quang thực thụ cho nhà văn. Được đà, tác giả sau đó viết tiếp cả một chùm ba tiểu thuyết nữa: 1935 và những năm khác (1989), Kinh hoàng (1990), Bụi và tro (1994).  Cũng như đối với nhiều tác phẩm trước đó, Rybakov thường đi tiếp mạch của cuốn truyện thành công để làm thành những cuốn sách trọn bộ. Đặc biệt, giữa bộ truyện này với bộ truyện kia vẫn có mối liên quan gắn bó: nhân vật chính trong Những đứa con của phố Arbat là Sasha Pankratov từng xuất hiện thấp thoáng trong cuốn Tiếng súng. Người đọc có thể thấy nét đặc sắc này khi có trong tay bộ Tuyển tập tác phẩm Anatoli Rybakov gồm bảy cuốn, xuất bản năm 1995.  Anatoli Rybakov mất ngày 23.12.1998 tại New York, được đưa về an táng tại Moskva. Những đứa con phố Arbat NXB văn học 198x Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Phố Arbat của tác giả Anatoli Rybakov.
Người Thầy Thuốc - Noah Gordon
“Người thầy thuốc” (Noah Gordon) là câu chuyện về một cậu bé người Anh vượt qua địa giới châu Âu để đến Ba Tư với ước mơ trở thành thầy thuốc. Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh London (Anh) thế kỷ 11. Lên chín tuổi, Rob Cole và đàn em thơ mất mẹ. Không lâu sau người cha qua đời. Phường hội thợ mộc chia lũ trẻ bơ vơ về các gia đình nuôi nấng. Rob được một phó cạo kiêm thầy lang hay say xỉn bảo hộ. Từ đó, với hành trang đặc biệt là năng khiếu dự cảm cái chết (với những nỗi kinh hãi, bi thương), Rob rong ruổi khắp nước Anh trên một chiếc xe ngựa… Định mệnh đã sắp đặt cho cậu gặp gỡ với một thầy thuốc, người khiến Rob muốn đến được Ba Tư, chạm vào gấu áo vị thầy thuốc nổi danh trong lịch sử y học - Abu Ali at-Husain ibn Abdullah ibn Sina. Trên con đường chông gai đó, dù có lúc phải từ bỏ tình yêu, đối mặt với cái chết, hay đội lốt một người khác, Rob Cole vẫn dần bước. Anh muốn trở thành thầy thuốc. Với “Người thầy thuốc,” Noah Gordon đã kể một câu chuyện ấn tượng về thời kỳ Trung cổ với những chất liệu sinh động liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: lịch sử, tôn giáo, y học… Những trang sách cũng là những câu chuyện đẹp về tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình và nghị lực vượt qua nghịch cảnh, theo đuổi ước mơ. “Người thầy thuốc” được bình chọn là một trong mười cuốn sách được yêu thích nhất mọi thời đại tại Madrid Book Fair năm 1999. Nhà văn Noah Gordon sinh năm 1926 tại Mỹ. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của ông là lịch sử y học và vấn đề y đức. Bên cạnh đó, lịch sử, văn hóa Do Thái cũng là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của ông. Noah Gordon từng được trao nhiều giải thưởng văn học của Tây Ban Nha, Italy và Mỹ... *** "Cuốn tiểu thuyết lôi cuốn của Gordon tái tạo thế kỷ 11 mạnh mẽ đến mức độc giả bị cuốn theo hàng trăm trang sách bởi đợt thủy triều của trí tưởng tượng và những chi tiết lịch sử xác thực." - Publishers Weekly. "Người thầy thuốc mang màu sắc The Pillars of the Earth của Ken Follett, nhưng với sự phát triển sâu hơn ở cả cốt truyện lẫn nhân vật... Quả là một cuốn sách mở mang đầu óc và khó quên." - Zoltaire's Blog. "Câu chuyện phiêu lưu tràn ngập cảm hứng về cuộc tìm kiếm tri thức y học diễn ra trong một thế giới đầy bạo lực, mê tín và thành kiến." - Library Journal. *** Noah Gordon sinh năm 1926 ở Worcester, Massachusetts, Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành báo chí và Anh ngữ ông theo nghề làm báo. Trong thời gian làm biên tập viên khoa học cho một tờ báo ở Boston ông đã có một số truyện ngắn ra mắt bạn đọc đăng trên các báo hàng đầu ở Mỹ. Ông đã nổi tiếng ngay với tiểu thuyết đầu tay The Rabbi (Giáo sĩ Do Thái). Các tác phẩm tiếp theo The Death Commitee, The Jerusalem Diamond, Shaman... cũng đều trở thành sách bán chạy. Chủ đề chính trong các tiểu thuyết của Gordon là lịch sử y học và y đức. Phần sau sự nghiệp, ông tập trung nhiều hơn vào chủ đề Tòa án dị giáo và lịch sử văn hóa Do Thái. Ông từng nhận các giải thưởng Que Leer Prize (Tây Ban Nha) và Boccaccio Literary Prize (Ý), James Fenimore Cooper Prize for Best Historical Fiction (Mỹ)...   Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Noah Gordon.