Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Nhát Đâm Bí Ẩn

Trong the Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa hoc đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thí nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh hoạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân an uổng của họ..... ... Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn.... *** Một trong những tác gia có sách bán chạy nhất ở Mỹ liên tục trong hai chục năm qua, là Jonathan Kellerman. Vậy J. Kellerman là ai? Sinh năm 1949 tại New York, nhưng Los Angeles là nơi ông gắn bó, nơi ông thành đạt trong nghề nghiệp bác sĩ và với tư cách một tác gia tiểu thuyết. Khởi đầu công việc viết văn từ năm 22 tuổi, song phần lớn những năm tuổi trẻ ông dành để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Năm 24 tuổi, ông nhận bằng tiến sĩ, chuyên ngành tâm lý trẻ em. Sau đó là những năm làm việc trong các bệnh viện, trung tâm bệnh trẻ em ở Los Angeles, điều trị tâm lý cho các trẻ em bị ngược đãi, lạm dụng... Năm 1980-1981, ông xuất bản những cuốn sách về y học liên quan đến trẻ em: Psychological aspects of childhood cancer và Helping the pearful child. Năm 1985, J. Kellerman xuất bản cuốn sách hư cấu đầu tiên When the bough breaks (Khi cành cây gãy - tên bản dịch tiếng Việt do Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007 là Ba bóng đen). Ngay lập tức cuốn sách trở thành hiện tượng bestseller được bầu chọn trên tờ New York times, và tác giả nhận được giải thưởng Edgar Poe và giải thưởng Anthony Boucher cho tiểu thuyết đầu tay hay nhất. Tiểu thuyết này năm 1986 được dựng thành phim truyền hình phát trên kênh NBC và đã thu hút 28 triệu người xem. Từ đó đến nay, mỗi năm một cuốn sách (có năm 2 cuốn), in ở nhiều nước trên thế giới và bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, tên tuổi Jonathan Kellerman liên tục có mặt trên bảng xếp hạng của New York times. The master of psychological suspense - bậc thầy của tiểu thuyết trinh thám tâm lý, báo chí nói về ông như thế khi lần đầu tiên ông xuất hiện trên văn đàn, và sự tôn vinh ấy đã không ngừng được nhắc lại hơn hai chục năm nay, trên các báo, trên các website, và quan trọng nhất, ông vẫn là một nhà văn không hề cũ đối với công chúng. Nhân vật chính trong các tiểu thuyết của ông, Alex Delaware, phần nào đó là hình bóng của chính nhà văn. Nhận bằng tiến sĩ năm 24 tuổi, là bác sĩ tâm lý trẻ em, Alex khám phá ra đằng sau những sự cố của trẻ nhỏ luôn ẩn chứa những vấn đề của người lớn, của xã hội. Trong cuốn sách đầu tiên When the bough breaks, Alex Delaware 30 tuổi, sống độc thân và bắt đầu hẹn hò với Robin. Vì có người bạn thân là thanh tra Milo Sturgis ở trong Sở cảnh sát, anh được mời chữa trị cho các em nhỏ nạn nhân của một vụ xâm hại, rồi làm tư vấn đặc biệt cho cảnh sát. Vụ đầu tiên anh tham gia là vụ một bác sĩ tâm lý bị giết cùng người bạn gái là cô giáo dạy ở trường dành cho các trẻ có khiếm khuyết. Nhân chứng duy nhất của vụ án là một bé gái 7 tuổi bị bác sĩ cho uống quá liều thuốc an thần đã trở nên gần như ngơ ngẩn. Những ám ảnh của bé gái có ý nghĩa gì? Liệu thực sự cô bé đã chứng kiến một tội ác? Lần theo mối dây của các nạn nhân, Alex tìm tới một trung tâm từ thiện nuôi dạy các trẻ mồ côi và khuyết tật lớn ở Los Angeles. Xới tung hàng chục mối quan hệ, lần lại những trang hồ sơ cũ, đào bới quá khứ của những gương mặt đang hiện diện ở tầng thượng lưu của xã hội, Alex Delaware đã tìm ra sự thật về những con quỷ đội lốt người, những kẻ có xu hướng tình dục bệnh hoạn, những kẻ say mê quyền lực, những kẻ bị khống chế bởi quá khứ tội lỗi, đã biến trung tâm từ thiện kia thành hang ổ truy lạc, lạm dụng tình dục của hàng trăm trẻ nhỏ. Trong Blood test (Thử máu - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2005), khi cố gắng giúp đỡ cậu bé Woody mắc bệnh ung thư, Delaware phải đối mặt với hàng bao rắc rối và dò trong mớ bòng bong các quan hệ, anh đã đi đến tận cùng sự thật khủng khiếp trong gia đình cậu bé: những tín ngưỡng rùng rợn và quan hệ loạn luân được che đậy trong rất nhiều năm, mà bất hạnh đổ lên số phận những đứa trẻ là chị em và cũng là mẹ con Nona và Woody. Trong Bad love (Tình yêu dối trá - Nhà xuất bản Công an nhân dân 2004), vụ án Delaware khám phá liên quan tới một hội nghị khoa học mà các nghi can đều là những nhà khoa học liên quan đến tâm lý - giáo dục trẻ em. Trong The Clinic (Bệnh viện tư - bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007 là Ba nhát đâm bí ẩn), khi điều tra về cái chết của nữ giáo sư tâm lý học Hope Devane, Delaware đã xé toang tấm màn bao phủ số phận của Hope và bác sĩ giải phẫu Cruvic, những nhà khoa học đã lạm dụng khoa học để thực hiện những cuộc thử nghiệm, giải phẫu tàn bạo đối với con người. Những đao phủ sạch sẽ này là sản phẩm bệnh loạn của gia đình họ, được nuôi dưỡng từ tuổi thơ ấu, nhưng cuối cùng chính họ sẽ lại trở thành mục tiêu trả thù cho cơn phẫn nộ từ một nạn nhân oan uổng của họ. Cộng tác với cảnh sát với tư cách là chuyên gia tâm lý, nhưng trong tất cả các vụ án, bác sĩ Delaware đã tham dự như một thám tử chuyên nghiệp, mà bên cạnh anh chàng thám tử to béo Milo Sturgin chỉ còn giữ vai trò bổ khuyết cho vai chính. Không giắt súng trong lưng, không có phương tiện hỗ trợ như một cảnh sát thực thụ, nhưng Delaware có sự mẫn cảm đặc biệt để dò ra những ngóc ngách tâm lý, những mối quan hệ của con người, dù quan hệ đó có được che giấu tinh vi thế nào đi nữa. Không có nhiều những pha bắn giết hay rượt đuổi, cách của J. Kellerman là bóc tách dần các chân dung, các quan hệ. Ông đẩy độ căng thẳng lên dần dần, ông lừa người đọc vào những cao trào khiến người ta lầm tưởng đó đã là cú cuối, song thực sự cú cuối chỉ nằm ở trang cuối, khi bạn đọc sắp sửa gấp sách lại. Kellerman thường bẫy người đọc trong những câu chuyện có vẻ rời rạc ban đầu, tung ra nhiều nhân vật, đưa nhiều lộ trình, tạo ra một mớ rối tung quan hệ, nhưng rồi những hướng rời rạc sẽ gắn kết ở một điểm, ở đó những gương mặt nhân vật, những lộ trình hành vi đột ngột sáng tỏ. Tuy nhiên, không như một tác phẩm trinh thám thông thường đích cuối của câu chuyện là vạch mặt thủ phạm, với J. Kellerman, thủ phạm không phải là sự thật ghê gớm nhất; sự thật shock nhất nằm ở cú vỡ bung cuối cùng soi sáng tận cùng nguyên do của tội ác. Blood test, Over the edge, Private eyes, Bad love, Devil’s Waltz - Vũ điệu quỷ, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2007, cho đến cuốn sách mới nhất Gone, mỗi một vụ án là một ca tâm lý, mỗi một nhân vật là một dạng tâm bệnh che đậy, bắt đầu từ thời thơ ấu. Có thể thấy quan điểm của Kellerman, không có tội ác nào trong hiện tại lại không có nguyên do từ một hoàn cảnh bất thường hay một xu hướng bệnh hoạn trong thời thơ ấu. Những câu chuyện của ông chứa đựng một lời cảnh báo: hãy quan tâm đến trẻ nhỏ, bạo hành, stress, lạm dụng... đối với trẻ nhỏ, tức là đang gieo mầm cho bạo hành, lạm dụng, giết người... cho tương lai. Trinh thám của Kellerman đậm tính phân tích. Mỗi một câu chuyện trinh thám, suy cho cùng là một quá trình truy nguyên căn gốc hành vi đầy phức tạp, gay cấn. Bối cảnh tiểu thuyết của ông là Los Angeles thời hiện đại, với đầy rẫy những bạo hành, stress, lạm dụng; một Los Angeles có vô vàn những vấn đề tâm bệnh, nơi mà xã hội thượng lưu khoác mặt nạ che đậy bên dưới hàng bao dối trá, dục vọng. Kellerman không mô tả tội ác ở những tầng lớp dân nghèo, ông nhằm vào phân tích sự mục ruỗng, méo mó nhân cách ở những tầng lớp trên, nơi những người có tiền, có quyền, có tri thức. Bằng vào sự nhạy cảm, khả năng phân tích, suy luận của nhân vật Alex Delaware, ông dò tìm những bí mật của tâm lý - hành vi ẩn dưới đời sống đĩnh đạc của những bác sĩ, giáo sư đại học, của những thẩm phán, luật sư, cha cố... Kinh nghiệm của một bác sĩ tâm lý đã giúp ông trở thành một nhà văn phân tích hành vi xuất sắc. Hành vi con người, đó là mối quan tâm của ông, là điều ông theo đuổi trong suốt cuộc đời và vì nó mà ông đã viết - trong một bài trả lời phỏng vấn, ông đã nói đại ý như thế. Có thể nói, tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là tiểu thuyết trinh thám - hành vi, một sự kết hợp tài tình giữa tiểu thuyết trinh thám điển hình và tiểu thuyết tâm lý. Nếu con đường của văn chương là khám phá bí mật về con người, thì J. Kellerman đang đi trên con đường đó, từng ngày, bằng những cuốn sách của mình, ông cuốn hút hàng triệu độc giả ở khắp hành tinh trong hành trình mê mỏi khám phá không ngừng nghỉ bí ẩn của hành vi con người. Trần Thanh Hà *** Chẳng mấy khi những đường phố xảy ra các vụ án mạng lại đẹp. Nhưng có một đường phố ngoại lệ. Đó là một con đường tản bộ cong cong êm ái rợp bóng cây đu cạnh trường Đại học California - Los Angeles, hai bên là những bãi cỏ rộng có các xưởng máy và các khu nhà, mượt như mặt bàn bi-a mới. Dưới một cây đu khổng lồ bên đường là nơi Hope Devane bị đâm chết. Nơi đó cách nhà bà một đoạn đường về phía Tây Nam. Tôi ngó lại một lần nữa, chỉ thấy được lờ mờ dưới ánh trăng lười nhác. Sự yên lặng về đêm ở đây chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng dế mèn và thỉnh thoảng là tiếng xe hơi đời mới tiếng nổ nhẹ như một làn khói. Dân địa phương đang trở về sau buổi làm việc. Vài tháng nay, đã có nhiều người tò mò tới đây để ngó qua cái sân khấu này. Milo châm điếu xì gà và phụt khói ra ngoài cửa kính xe. Xoay cái cửa kính xuống, tôi tiếp tục nhìn cây đu ấy. Một cái thân cây xoắn, to như cây cột điện cao thế bên Xa lộ. Tán lá của nó có bán kính rộng tới 18 mét, tối tăm. Những cành cây chắc chắn, tham lam hiện ra dưới ánh trăng băng giá, một số cành quá nặng, thỉnh thoảng lại quét xuống mặt đất. Có lẽ phải đến 5 năm nay thành phố không cử người tới tỉa cành cho cây cối hai bên đường. Chắc là do thất thu thuế. Người ta nhận định rằng tên giết người đã núp dưới vòm cây, mặc dù không ai tìm thấy dấu hiệu hiện diện của hắn ngoài những vết xe đạp cách đó vài mét. Ba tháng sau khi phát hiện ra xác chết, tất cả vẫn chỉ dừng lại ở nhận định, không có tiến triển gì. Chiếc xe Ford cũ của Milo nằm cùng đoạn đường với hai chiếc xe khác, cả hai đều là Mercedes, đều bị phết phiếu đậu xe sai quy định ở trên kính chắn gió. Sau khi xảy ra vụ giết người, thành phố đã hứa sẽ tỉa cành cho cây cối bên đường, nhưng lời hứa ấy đến nay vẫn chưa hề được thực hiện. Có lần Milo cay đắng thông báo cho tôi về điều này, miệng không ngớt chửi rủa những nhà chính trị, nhưng lời nguyền rủa thực sự của anh lại nhắm vào vụ giết người máu lạnh này. - Một vài bài viết về vụ án, rồi chấm hết. - Các sự kiện thời sự giống như các món ăn nhanh ấy mà - Tôi nói - nhanh, dễ nuốt và dễ quên… - Chúng ta là những người yếm thế quá chăng? - Nghề của tôi là phải biết sống với những người bệnh hoạn mà. Câu nói ấy đã làm Milo bật cười. Nhưng giờ thì anh đang nhăn trán, quệt tay vuốt những sợi tóc vương trên mặt, và thở ra những vòng tròn khói thuốc rung rung. Nhích chiếc xe thêm một đoạn đường nữa, Milo cho dừng lại. Anh chỉ tay vào một trong những ngôi nhà nho nhỏ nhưng trông gọn ghẽ: - Nhà bà ấy đấy. Ngôi nhà có mặt tiền màu trắng, có bốn cột, các cánh cửa chớp màu đen, các đồ trang trí lấp lánh trên cánh cửa bóng loáng. Cao hơn lề đường ba bậc là lối nhỏ có lát đá xuyên qua bãi cỏ. Một cánh cổng có các mũi sắt nhọn chặn trên đường lái ô tô vào nhà. Hai cánh cửa sổ tầng hai có màu hổ phách lấp phía sau các tấm rèm màu tai tái. - Hình như có người ở nhà - Tôi nói. - Xe của ông ấy đang đậu trên lối cho ô tô vào nhà đấy. Một chiếc xe vừa chở khách, vừa chở hàng màu sáng đậu trên lối xe hơi vào nhà. - Ông ta luôn ở nhà - Milo nói - Cứ về nhà rồi là ông ta không đi đâu nữa. - Ông ta vẫn còn để tang ư? Milo nhún vai: - Bà ấy đi xe Mustang nhỏ màu đỏ. Bà ta trẻ hơn ông ấy khá nhiều. - Nhiều là bao nhiêu? - 15 tuổi. - Điều gì ở ông ấy khiến anh quan tâm? - Là hành động của ông ta khi nói chuyện với tôi. - Ông ấy tỏ vẻ bối rối chăng? - Không hợp tác. Paz và Fellows cũng nghĩ như thế. Nghĩa là chẳng có điều gì ông ấy nói giúp ích được cho cuộc điều tra. Milo không đánh giá cao những điều tra viên đã tiến hành vụ này trước khi nó được trao cho anh. Với suy nghĩ rằng mình cũng sẽ rơi vào tình trạng bất lực như họ nên anh rất ưu tư. - Mà này - Tôi nói - Phải chăng người chồng luôn là nghi can đầu tiên trong các vụ án? Cho dù đâm bà ta ở ngoài đường phố nghe có vẻ không tiêu biểu lắm. Anh lấy tay dụi mắt: - Đúng vậy. Đập nát óc bà ta trong phòng ngủ có lẽ tiêu biểu cho một vụ án hôn nhân hơn. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi. - Milo xoay xoay điếu xì gà rồi tiếp - Cuộc sống dài lắm, mọi thứ đều có thể xảy ra. - Chính xác những vết xe đạp đã được phát hiện ở chỗ nào? - Ngay phía Bắc của cái xác nhưng tôi không coi trọng bằng chứng này nhiều. Mấy tay trong phòng thí nghiệm nói rằng những vết xe ấy có thể đã ở đó từ một cho đến mười ngày. Có thể đó là vết xe của một thằng nhóc hàng xóm, sinh viên hay một người luyện tập thể dục. Thêm vào đó, khi tiến hành xét hỏi từng gia đình ở khu vực này mọi người đều nói họ không nhìn thấy một người đi xe đạp lạ nào trong cả tuần đó. - Một người đi xe đạp lạ nghĩa là sao? - Nghĩa là một người nào đó không phù hợp. - Ý nói một ai đó da không trắng phải không? - Đại để là như vậy. - Một khu vực yên tĩnh như thế này mà không ai nghe thấy hay nhìn thấy điều gì đó vào lúc 11 giờ đêm thì thật đáng ngạc nhiên. - Tôi nói. - Điều tra viên nói rằng có thể là bà ta không kêu được. Không có vết thương chứng tỏ có sự phản vệ, vì vậy có lẽ bà ấy đã không kháng cự nhiều. - Ra thế. Tôi đã đọc các kết quả pháp y, hồ sơ, từ báo cáo sơ bộ của Paz và Fellows đến kết luận của nhà nghiên cứu bệnh học và tập ảnh khám nghiệm tử thi. Không biết tôi đã phải nhìn bao nhiêu ảnh loại này trong những năm qua. Đây là lần tôi có cảm giác tởm lợm nhất. - Không kêu được chắc là do bị đâm đúng vào tim? - Tôi hỏi. - Điều tra viên nói rằng có thể cú đâm đó đã làm cho tim bị nát khiến bà ta rơi vào tình trạng đột sốc. Anh bật ngón tay thô kệch kêu một tiếng tách nhẹ rồi đưa cả bàn tay lên vuốt mặt. Nhìn nghiêng, khuôn mặt anh giống của một con hà mã, đầy hút trứng cá và mệt mỏi. Anh rít thêm một vài hơi thuốc nữa. Tôi lại nghĩ tới những tấm ảnh chụp trước khi khám nghiệm tử thi: Xác Hope Devane trắng như băng dưới ánh đèn của điều tra viên; ba vết đâm sâu, tím bầm được chụp cận cảnh - một vết ở ngực, một vết ở đáy xương chậu, một vết ngay phía trên thận trái. Kịch bản phía pháp y đưa ra là Hope đã bị đánh bất ngờ và ngất ngay lập tức bằng một cú đâm trúng tim, rồi tiếp đến là nhát đâm thứ hai ở âm đạo, cuối cùng bị đặt nằm sấp bên lề đường và đâm một nhát vào lưng. - Một người chồng đã làm như vậy à. - Tôi nói - Chắc anh tưởng tượng ra điều còn tồi tệ hơn thế nhưng như thế thì chắc phải có nhiều sự tính toán đấy. - Ông chồng này là một trí thức, phải vậy không? Một người biết nghĩ đấy chứ. Khói thuốc phụt ra khỏi xe thành những dải nhỏ, tan biến ngay khi gặp cơn gió ban đêm. - Anh Alex ạ, thực ra, tôi muốn kẻ giết người đó là Seacrest bởi những lý do cá nhân. Vì nếu không phải là ông ta thì vụ trời đánh này sẽ đúng là một cơn ác mộng. - Có quá nhiều nghi can à? - Chính vậy - Milo nói như hát - Có rất nhiều người có thể được xem là không ưa bà ấy.   Mời các bạn đón đọc Ba Nhát Đâm Bí Ẩn của tác giả Jonathan Kellerman.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giây Phút Lỡ Lầm - Agatha Christie
Giây Phút Lỡ Lầm là một cuốn tiểu thuyết trinh thám do Agatha Christie viết và xuất bản lần đầu tiên ở Hoa Kỳ vào năm 1951, Dodd Mead and Company.  Nó chứa các tác phẩm từ những ngày đầu tiên của sự nghiệp của Christie, tất cả đều viết về viên thanh tra người Bỉ, Hercule Poirot. Tất cả những câu chuyện được xuất bản trong các tạp chí Anh và Mỹ từ năm 1923 đến năm 1926.  *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sự có mặt thường xuyên của Poirot ở “Bến Nghỉ” có vẻ làm cho nhiều người lo ngại. Victor phản đối với chị dâu : - Tất cả những việc này thật đẹp! Chị không biết loại người như ông ta là thế nào đâu. Ông ta đã tìm thấy ở đây một chỗ ở dễ chịu, và ông ta sẽ vừa nghỉ thoải mái ở đây một tháng, vừa bắt chị phải trả nhiều đồng ghi-nê mỗi ngày. Phu nhân Reuben nhấn mạnh rằng bà đủ sức để tự mình chèo chống công việc. Lily cố gắng che giấu sự lo lắng của mình. Trước đó cô đã tin tưởng Poirot tin ở mình. Bây giờ thì cô không còn chắc chắn nữa. Thái độ của Poirot không thể làm cho mọi người yên tâm được. Năm ngày sau khi đến, ông bước xuống phòng khách để giải trí sau bữa ăn với một cuốn sổ dùng để in dấu tay. Ông ta lấy dấu tay của cả nhà một cách không tế nhị lắm. Không ai có thể từ chối việc in dấu tay của mình lên đó. Khi người đàn ông nhỏ bé ấy đã đi ngủ, Victor nói lên suy nghĩ của mình : - Chị có hiểu ý nghĩa của hành đỘng đó không, chị Reuben? Ông ta nghi ngờ một người trong chúng ta đấy. - Cậu thật ngốc, Victor ạ! - Thế thì ông ta có ý định gì với cuốn sách quỷ quái ấy? Phu nhân Reuben vừa nói vừa ném cho ông Owen một cái nhìn đấy ý nghĩa : - Ông Poirot biết rõ những gì mình làm. Một mặt khác, Poirot bày ra một trò chơi bằng cách lấy dấu giày trên một tờ giấy. Sáng hôm sau, theo như thói quen, ông rón rén bước vào phòng đọc sách làm cho Owen kinh hãi. Owen giật nẩy mình trong chiếc ghế bành cứ như phải lãnh một tràng đạn vào mông ấy. Anh ta nói với vẻ phật ý : - Xin lỗi, ông Poirot ạ, rốt cuộc thì ông sẽ làm cho tất cả chúng tôi bị đau tim mất thôi. - Sao vậy? - Ông ngây thơ hỏi. Viên thư ký nói : - Tôi phải thú nhận rằng tôi cứ ngỡ những chứng cớ buộc tỘi Leverson là rất vững chắc rồi. Nhưng hình như ông không nhất trí với ý kiến đó thì phải. Poirot đang nhìn qua cửa sổ vội quay lại ngay. - Ông Owen ạ, tôi sẽ tiết lộ với ông một điều. - Vâng. Poirot có vẻ như không định nói. Khi ông vừa lên tiếng thì có tiếng cửa ra vào mở rồi đóng mạnh. Ông nói to và rõ, mặc dù là đang tiết lộ bí mật. - Tôi muốn tiết lộ với ông điều này, ông Owen ạ, chúng tôi có một tình tiết mới cho thấy rằng khi Leverson bước vào phòng bên tháp lúc nửa đêm thì ngài Reuben đã chết rồi. Viên thư ký nhìn ông đăm đăm. - Nhưng... sự kiện nào chứ? Sao chúng tôi không được nghe nói đến? - Quý vị sắp được nghe nói đến rồi - Người đàn ông Bỉ bé nhỏ đáp với vẻ bí ẩn - Trong lúc chờ đợi chỉ có tôi và ông biết thôi nhé. Rồi ông vội vã bước ra khỏi phòng đọc sách suýt nữa thì va phải Victor : - Ông vừa về đến sao, ông Victor? - Vâng, thời tiết thật xấu, lạnh và gió nhiều. - Thế thì hôm nay tôi không đi dạo đâu. Tôi giống như một con mèo vậy, thích ngồi gần lò sưởi để sưởi ấm. Buổi tối, Poirot nói với người đầy tớ trung thành : - Mọi việc đều tốt đẹp, George ạ, họ đang ngồi trên than hồng cả đấy. Thật là khổ, anh George tốt bụng ạ, khi phải chờ đợi, nhưng các đó lại cho kết quả tuyệt vời. Ngày mai chúng ta thử nghiệm một lần nữa xem sao. Sáng hôm sau, Owen có việc buộc phải đi London. Anh ta đi cùng chuyến tàu với Victor. Họ vừa rời khỏi nhà là Poirot đã sôi nổi hẳn lên. - George ạ, hãy đến đây. Ta bắt tay vào việc đi. Nếu có cô hầu phòng nào đến gần thì hãy chặn cô ta lại. Hãy tán tỉnh cô ta bằng cách nào đó và thu xếp làm sao để cô ta đứng yên trong hành lang ấy. Thoạt tiên, ông vào phòng viên thư ký lục soát kỹ lương. Mọi ngăn kéo, mọi cái kệ đều không thoát khỏi tay ông. Rồi ông vội vàng sắp đặt mọi thứ lại chỗ cũ và tuyên bó rằng cuộc tìm kiếm của mình đã kết thúc. George, đang đứng ở cửa phòng, kính cẩn đằng hắng : - Xin lỗi, thưa ông. - Gì thế, anh George tốt bụng? - Những đôi giày, thưa ông. Hai đôi màu nâu trên kệ thứ hai còn những đôi giày da đen ở kệ dưới. Ông đã lầm, đổi vị trí của chúng khi sắp xếp lại. - Anh thật là tuyệt - Poirot nói - Nhưng đừng lo, điều đó không quan trọng, tôi cam đoan như vậy. Ông Owen sẽ không bao giờ nhận thấy những chi tiết như thế đâu. - Tùy ông, thưa ông. - Anh nhận thấy điều đó là do thói quen nghề nghiệp đấy thôi. Điều này thật đáng khen. Poirot nói với vẻ động viên. Người đầy tớ không trả lời. Vài phút sau, sự kiến đó lại tái diễn trong phòng Victor, George không nói gì nữa. Thế nhưng trong trường hợp thứ hai này, những sự việc xảy ra tiếp theo đã chứng tỏ sự sáng suốt của người đầy tớ. Thật vậy Victor lao vào phòng khách như một cơn lốc, ông ta hét lên : - Này, đồ nỡm! Đồ dân Bỉ dơ bẩn! Ai cho phép ông sục xạo vào đồ đạc của tôi? Thế là nghĩa lý gì chứ Tôi không thích vậy, ông có nghe thấy không? Chuyện xảy ra như thế đấy khi người ta chứa trong nhà mình một thứ gián điệp dơ bẩn cứ vọc mũi vào mọi chỗ! ... Mời các bạn đón đọc Giây Phút Lỡ Lầm của tác giả Agatha Christie.
Chết Trong Đêm Noel - Agatha Christie
Chết trong đêm Noel (tiếng Anh: Hercule Poirot's Christmas, dịch nghĩa: Giáng sinh của Hercule Poirot) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà sách Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh ngày 19 tháng 12 năm 1938 và được đăng ký bản quyền năm 1939. Thuộc dạng vụ án phòng kín, tiểu thuyết nói về vụ giết hại đẫm máu nhà triệu phú Simeon Lee vào đúng đêm Giáng Sinh. Nhân vật chính của tiểu thuyết là thám tử Hercule Poirot. Tiểu thuyết được chia làm 7 phần ứng với 7 ngày cuối năm từ 22 cho tới 28 tháng 12. Simeon Lee là một triệu phú làm giàu nhờ kim cương ở Nam Phi giờ sống tuổi già tàn tật tại dinh thự riêng Gorston Hall ở Longdale, Addlesfield cùng con trai cả Alfred cùng vợ của ông là Lydia. Nhân lễ Giáng Sinh, ông quyết định mời tất cả các con trai của mình cùng gia đình về đoàn tụ tại Gorston Hall. Đó là George Lee, một nghị sĩ keo kiệt sống dựa vào bố có cô vợ Magdalene kém tới 20 tuổi và David Lee, một nghệ sĩ vốn từ mặt ông Simeon đã lâu do thù ghét cách đối xử của bố với mẹ mình, David chỉ quyết định về đoàn tụ ở Gorston Hall sau khi được vợ anh là Hilda thuyết phục. Bữa tiệc Giáng Sinh nhà Lee còn có ba người khách đặc biệt là Pilar Estravados, cô bé có nửa dòng máu Tây Ban Nha, con của Jennifer, con gái duy nhất của ông Simeon, Harry Lee, đứa con hoang đàng của ông Simeon đã bỏ nhà đi từ lâu và Stephen Farr, con người bạn làm ăn của ông Simeon ở Nam Phi là Ebenezer Farr. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Ngày 28 , Tháng Chạp Lydia Lee bảo Pilar: - Cháu có thể ở lại đây cho đến khi chúng ta thu xếp mọi việc cho cháu . Cô gái thân mật trả lời: - Lydia, bác rất đáng mến . Bác đã nhanh chóng tha thứ cho cháu, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếng cả . Lydia cười: - Ta vẫn gọi cháu là Pilar tuy đó không phải là tên thật của cháu . - Thật vậy, cháu là Conchita Lopez . - Cái tên rất đẹp , Conchita . - Bác rất tốt, bác Lydia . Nhưng không nên băn khoăn về cháu . Cháu sẽ lấy anh Stephen và chúng cháu sẽ về Nam Phi . - Ta mừng cho cháu, Conchita . Cháu thu xếp mọi việc rất tốt . Ngập ngừng, cô nói với Lydia: - Vì bác có lòng tốt, bác Lydia . Sau này chúng cháu có tới thăm bác, dự lễ Noel với gia đình được không ? Lúc ấy chúng ta sẽ đốt pháo, có nến sáng và những chú lùn trên bàn ăn! - Chắc chắn là như vậy, cháu và chồng cháu sẽ trở về và chúng ta sẽ có một lễ Noel linh đình . - Thật là tốt, bác Lyida . Lễ Noel năm nay không thành công rồi . - Đối với chúng ta, đây không phải là lễ Noel thực sự - Lydia thở dài . - Tạm biệt anh Alfred - Harry nói - Không nên cho rằng em về chuyến này để quấy phá anh . Em sẽ đi Hawaii . Em vẫn tự nhủ là mình sẽ trở về sống ở đất nước tươi đẹp của chúng ta khi em có ít tiền . - Tạm biệt chú Harry . Anh cầu chúc cho chú sống hạnh phúc ụ Có vẻ khó chịu, Harry lẩm bẩm: - Em lấy làm tiếc nhiều khi em đã làm anh tức giận, anh thân mến . Tinh thần em không vững và thường trêu chọc mọi người . Alfred cố gắng để nói: - Anh cũng cần làm quen với sự bông đùa . Yên tâm, Harry ra đi . - Tạm biệt anh ... hẹn gặp lại! ... Mời các bạn đón Chết Trong Đêm Noel của tác giả Agatha Christie.
Cây Bách Buồn - Agatha Christie
Agatha Christie được mệnh danh là "Nữ hoàng truyện trinh thám" với số lượng tác phẩm được xuất bản nhiều nhất mọi thời đại, chỉ xếp sau Kinh Thánh và Shakespeare. Tại Việt Nam, nhiều thế hệ độc giả đã đọc và say mê sách của bà. Sách của Agatha có mặt trong nhiều tủ sách gia đình, được thế hệ này truyền sang thế hệ khác. Điều đó cũng đủ để chứng minh các tác phẩm của bà có sức sống và sức hấp dẫn đến mức nào. Cô Elinor Carlisle đứng một cách bình thản ở vị trí bị cáo trước tòa với tội danh mưu sát tình địch của mình - cô Mary Gerrard. Bằng chứng đã mười mươi - chỉ có cô mới có động cơ, cơ hội và phương tiện giết người. Tuy nhiên, trong phòng xử án, chỉ có duy nhất một người tin rằng cô gái trẻ đẹp ấy vô tội: Thám tử Hercule Poirot là tất cả những gì đứng giữa Elinor và giá treo cổ. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Đi đi, thần chết kia ơi! Để tôi nằm dưới gốc cây bách buồn. Bay đi, hơi thở chập chờn! Cô nàng độc ác phủ phàng giết tôi. Chao ôi, chuẩn bị đi thôi, Trắng tinh vải liệm dính đầy kim thông. Hỡi ôi, cái chết não nùng. Đúng là tôi góp phần chung đây rồi. SHAKESPEARE - Elinor Katharine Carlisle. Cô bị khởi tố về vụ giết cô Mary Gerrard vào ngày 27 tháng Bảy trước. Cô có phạm tội hay không phạm tội? Elinor đứng rất thẳng, đầu ngước cao. Một mái đầu duyên dáng, khuôn xương rõ nét gọn gàng. Đôi mắt sâu thẳm, linh động, làn tóc đen nhánh. Lông mày tỉa thành một đường thon mờ nhạt. Hoàn toàn yên lặng, một sự im lặng hầu như thấy rõ được. Ngài Edwin Bulmer, luật sư biện hộ, cảm thấy rùng mình hồi hộp. Ông nghĩ "Lạy Chúa, cô ta sẽ kháng biện là có phạm tội mất thôi! Cô ta mất tinh thần rồi." Môi Elinor Carlisle mở ra. Cô nói: - Tôi không phạm tội. Luật sư rùng mình lại. Ông đưa khăn tay phớt lên lông mày, nhận thấy mình vừa thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Ngài Samuel Attenbury đứng lên, thay mặt cho Vương quyền trình bày những nét chính của vụ án. - Kính thưa quý vị trong bồi thẩm đoàn, vào ngày 27 tháng Bảy, lúc ba giờ rưỡi chiều, cô Mary Gerrard chết tại Hunterbury, Maidensford... Giọng ông lướt nhẹ, ngân vang êm đềm, hầu như ru Elinor vào cõi vô tri. Từ lời tường thuật đơn sơ ngắn gọn đó, thỉnh thoảng chỉ có một câu nói xuyên thấu vào tâm trí còn hiểu biết của nàng. -... Đây là một vụ án đơn giản lạ thường, chẳng có chi phức tạp cả... Trách nhiệm của vương quyền là... chứng tỏ động cơ nào đã thúc đẩy, cơ hội nào đã bày ra... Ta có thể thấy rằng, chẳng ai có động cơ nào để giết cô gái bất hạnh Mary Gerrard kia cả, ngoài bị cáo này ra. Mary là một thiếu nữ trẻ trung, tính tình tốt đẹp, được mọi người yêu mến - có thể nói rằng, cô không có đến một kẻ thù nào ở trên cõi đời này... Mary, Mary Gerrard! Bây giờ tất cả mọi sự dường như xa xôi cả rồi... Chẳng còn thật nữa... -... Xin quí vị đặc biệt lưu ý đến những nhận định sau đây: 1. Bị cáo đã có những cơ hội nào và những phương thế gì để đầu độc? 2. Động cơ nào đã khiến cô ta làm như vậy? -... Tôi có phận sự đòi đến trước quí vị những nhân chứng có thể giúp quí vị đi đến một kết luận chân thực về những vấn đề... -... Về vụ đầu độc cô Mary Gerrard, tôi xin cố gắng chứng minh để quí vị thấy rằng không một ai có cơ hội phạm tội ác này ngoại trừ bị cáo kia ra... Elinor cảm thấy như bị giam hãm trong một lớp sương mù dày đặc. Những tiếng rời rạc giạt trôi qua lớp sương đó. -... Báng Xăng-uých... Bột cá nhồi... Tòa nhà trống trải... Những tiếng ấy đâm thủng tấm mền dày cộm bao phủ ý nghĩ của Elinor - giống như những lỗ kim trên chiếc mạng choàng... Đây là phiên tòa. Những khuôn mặt. Hàng dãy, hàng dãy những khuôn mặt! Một khuôn mặt đặc biệt với hàng ria rậm đen và cặp mắt tinh anh, minh mẫn, Hercule Poirot, đầu hơi nghiêng, mặt trầm tư, đang chăm chú nhìn nàng. Nàng nghĩ, ông ta đang cố gắng xem xét vì cớ gì mình lại làm như vậy. Đang cố gắng đi sâu vào đầu óc mình để thấy rõ mình đã nghĩ gì - đã cảm thấy gì... Mình đã cảm thấy gì ư? Chỉ thấy một cảm tưởng sững sờ hơi nhạt nhòa - hơi tởm lợm... Kia là khuôn mặt của Roddy (tên gọi thân mật của Roderick) - vẫn khuôn mặt thân yêu ấy với sống mũi dài dài, cái miệng nhạy cảm... Roddy! Vẫn Roddy ấy - từ cái thuở mà nàng còn nhớ nổi - từ những ngày trước kia ở Hunterburry giữa rặng cây phúc bồn tử, trong bãi nuôi thỏ phía trên, trong lạch ngòi bên dưới. Roddy - Roddy - Roddy... Còn những khuôn mặt khác nữa! Cô điều dưỡng ở Brien, miệng he hé mở, mặt tàn nhang tươi tắn chẩu ra phía trước. Bà điều dưỡng Hopkins xem chừng đắc ý lắm, chẳng chi có thể mủi lòng. Rồi khuôn mặt của Peter Lord - Peter Lord - mới tử tế làm sao, đa cảm biết bao, ân cần an ủi biết bao! Nhưng bây giờ thì xem ra có vẻ như, có vẻ như bị mê mẩn rồi. Đúng thế - bị mê mẩn rồi! Chàng ta đối với tất cả vụ này, bận tâm lo lắng biết bao nhiêu. Trong khi nàng là vai biểu diễn chính, thì lại chẳng hề quan tâm chút nào cả. Giờ đây nàng, hoàn toàn điềm tĩnh lạnh lùng, đang đứng trước vành móng ngựa, bị kết tội sát nhân. Nàng đang phải hầu tòa. Có một vật gì lay động; những nếp chăn bao quanh trí não nàng bừng sáng lên - trở thành rặt những hồn ma bóng quế. Nàng đang hầu tòa, còn người ta thì... Còn người ta thì đang ngả người về phía trước, môi hơi hé, mắt thích thú đăm đăm nhìn nàng, Elinor, với một niềm khoái lạc tàn nhẫn khủng khiếp; họ đang nghe với một hứng vị độc ác, khoan thai, cái con người cao lớn kia đang nói về nàng. - Những sự kiện trong vụ này có thể theo dõi rất dễ dàng và chẳng có chi cần tranh luận. Tôi xin trình bày trước quý vị, rất là đơn giản. Thoạt tiên là... Elinor nghĩ. "Thoạt tiên... Thoạt tiên ra sao nhỉ? Đó là cái ngày mình nhận được bức thư nặc danh khủng khiếp ấy. Vụ này bắt đầu là như vậy..." Mời các bạn đón đón đọc Cây Bách Buồn của tác giả Agatha Christie.
Cái Chết Được Báo Trước - Agatha Christie
Trong làng Chipping Cleghorn, một án mạng đã được báo trước trong mục quảng cáo nhỏ của tờ báo địa phương. Khi các bạn cô Blacklock tụ tập để chơi trò chơi, một kế hoạch giết người âm thầm lên dây cót. Đây là truyện thứ 50 của Christie và giữ danh hiệu thành quả đẹp nhất của Bà Marple. Bối cảnh nước Anh sau chiến tranh cũng rất đáng chú ý (một điểm quan trọng của cốt truyện), đây có thể được coi là tác phẩm cuối cùng trong những truyện Christie gợi ý giỏi nhất và nhịp truyện vừa vặn nhất. *** Nữ nhà văn Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.  Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920).  Trong cuốn sách này, độc giả lần đầu tiên được làm quen với một thám tử lập dị người Bỉ tên là Hercle Poirot với bộ ria ngộ nghĩnh, mái tóc điểm bạc và một tính cách tỉ mỉ, sạch sẽ. Nhưng phải tới năm 1926, những cuốn sách của Agatha mới thu hút được sự chú ý của công chúng khi bà xuất bản cuốn Vụ ám sát Roger Ackroyd. Truyện này được đăng trên một tờ báo tiếng Ireland năm 1938 và được tái bản ba lần.  Nhân vật thám tử Poirot có khả năng phá những vụ án phức tạp và được coi là nhân vật xứng đáng kế vị thám tử lừng danh Sherlock Holmes của nhà văn Arthur Conan Doyle. Christie đã viết hơn 30 tiểu thuyết trinh thám về viên cảnh sát Poirot với những truyện nổi tiếng như The Murder of Roger Ackrovd (1926), Murder on the Orient ExPress (1934) và Death on the Nile (1937). Trong đó có nhiều truyện đã được chuyển thể thành phim.    Năm 1926, hai vợ chồng Agatha ly dị bởi ông chồng ngoại tình. Đã sẵn đau buồn vì mẹ mới mất, Agatha đột nhiên biến mất. Cả nước Anh trở nên sôi sục vì một nữ nhà văn nổi tiếng bị mất tích. Ba ngày sau người ta phát hiện bà tại một khách sạn nhỏ với lời giải thích rằng bà bị mất trí nhớ. Năm 1930, bà tái hôn với một nhà khảo cổ học trẻ tuổi tên là Max Mallowan.    Ngoài nhân vật thám tử Poirot, cô Jane Marple - một nhân vật nổi tiếng và được nhiều độc giả yêu thích - được nữ nhà văn sáng tạo và giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn Murder at the Vicarage vào năm 1930. Đây là một phụ nữ trung niên độc thân sống trong một ngôi làng tại St. Mary Mead. Cô không phải là một thám tử nhưng chỉ bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ, cô đã phá được tất cả các vụ án mà cảnh sát chịu bó tay. Nhân vật Jane Marple được Agatha sử dụng trong 12 tiểu thuyết và trở nên nổi tiếng trong Thời đại vàng của tiểu thuyết tại Anh thời kỳ những năm 1920 và 1930.    Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Vào khoảng thời gian giữa bảy giờ ba mươi và tám giờ ba mươi tất cả các buổi sáng, trừ chủ nhật, Johnnie Butt đi xe đạp vòng quanh làng Chipping Cleghorn. Huýt sáo to tướng giữa hai hàm răng, anh ta chống một chân xuống đất, trước cửa mỗi ngôi nhà, để tuồn vào thùng thư những tờ báo hàng ngày đã được đặt trước ở bưu điện trên phố High Street. Vậy là anh ta thả tờ Times và tờ Daily Worker vào nhà bà Swettenham, nhà cô Hinchliffe và cô Murgatroyd tờ Daily Telegraph và tờ News Chronicle, vào nhà cô Blacklock tờ Telegraph, tờ Times và tờ Daily Mail. Ở tất cả các nhà, hay gần như tất cả các nhà ở Chipping Cleghorn, anh ta để vào một tờ North Benham và Chipping Cleghorn Gazette, mà mọi người dân địa phương quen gọi đơn giản là Gazette, vào tất cả các ngày thứ sáu. Vì vậy, buổi sáng thứ Sáu, sau khi lướt mắt trên những tít lớn của tờ báo hàng ngày, phần lớn dân cư ở Chipping Cleghorn vội vã mở tờ Gazette ra để chăm chú đọc những tin tức của địa phương. Sau khi đọc qua mục “Trao đổi thư từ”, chín trên mười độc giả tấn công ngay vào mục “những thông báo cá nhân”, nơi đăng những vật để bán hoặc cho thuê, những nhu cầu vô vọng tìm người hầu, rất nhiều thông báo về chó, mèo, vật dụng làm vườn và tất cả các vụ việc thuộc loại rất thú vị đối với những người tạo nên cái cộng đồng nhỏ bé ở Chipping Cleghorn. 2 Cái ngày thứ sáu 29 tháng mười cũng không khác những thứ sáu khác. Bà Swettenham vén những lọn tóc màu tro xinh xắn rủ trên trán, mở tờ báo Times ra, liếc rnột cái nhìn thò ơ trên trang báo cầm ở tay trái, đọc qua cột viết về dân sự rồi sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đặt tờ Times sang một bên, bà vội vã cầm lấy tờ Chipping Cleghorn Gazette. Khi con trai bà, Edmund, đi vào phòng sau đó một lát, bà đang chăm chú đọc mục “những thông báo cá nhân”. - Chào con thân yêu - Bà nói - Nhà Smedley bán con chó Daimler của họ... nó sinh năm 1935... Đã già rồi! Edmund ậm ừ trả lời, rồi rót một tách cà phê, đặt hai khoanh cá trích vào đĩa, ngồi vào bàn và mở tờ Daily Worker ra để đọc mục “xây dựng”. Bà Swettenham đọc to : - Chó ngao, con chó đẹp... Mẹ cũng chẳng hiểu tại sao mọi người lại thích nuôi chó to đến thế, nhất là lúc này... Selina Laurence lại đăng thông báo tìm một cô đầu bếp. Mẹ có thể nói rằng, thời buổi này, đăng thông báo chỉ phí thời gian. Cô ấy cũng không đăng địa chỉ, mà chỉ có số hòm thư lưu thôi. Chó berger Đức. Mẹ chẳng bao giờ thích chó berger cả, không phải vì chúng là giống Đức, chúng ta chẳng còn câu nệ nữa, mà chỉ đơn giản bởi vì mẹ không thích chúng. Bà cần gì, bà Finch? Cánh cửa mở để cho nửa người và cái đầu phụ nữ dễ sợ thò vào với một cái mũ nồi nhung. - Chào bà! Tôi có thể dọn bàn được chưa? - Chưa được! Chúng tôi chưa ăn xong. Bà Finch liếc nhìn Edmund với tờ báo trong tay, hít hà rồi lui ra. - Con chỉ mới bắt đầu! - Edmund phản đối. - Mẹ mong con đừng đọc những tờ báo khủng khiếp ấy nữa! Bà Finch chẳng thích điều đó một tí nào! - Con không hiểu tại sao những ý kiến chính trị của con lại liên quan đến bà Finch! - Nếu con là công nhân đã đành! Nhưng con có làm việc đâu! Edmund bực bội phản đối. - Hoàn toàn không đúng. Con viết một quyển sách.! - Mẹ nói về một công việc thật sự cơ... Còn về bà Finch, chúng ta không thể chế nhạo điều bà ấy suy nghĩ! Nếu bà ấy bị ốm hoặc không đến nữa thì ai thay bà ấy phục vụ chúng ta? ... Mời các bạn đón đọc Cái Chết Được Báo Trước của tác giả Agatha Christie.