Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Cướp Cuối Cùng
David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.
Kẻ Đoạt Hồn
Kẻ đoạt hồn của Sebastian Fitzek được Phan Ba dịch, do Nhà Xuất Bản Hồng Đức năm 2018. Cuốn sách nói về: Một ông giáo sư mời các sinh viên của ông tham gia một thí nghiệm khác thường. Những người tham gia thí nghiệm cần phải đọc một tập hồ sơ bệnh án mà người ta tìm thấy trong số đồ vật còn để lại của một bác sĩ tâm lý. Tập hồ sơ bệnh án này được viết giống như một quyển tiểu thuyết, thuật lại sự việc đã xảy ra tại một bệnh viện tâm thần trước đây, cũng là nơi mà các sinh viên phải ngồi đọc. Câu chuyện thuật về ba người phụ nữ – trẻ trung, xinh đẹp, hoạt bát – mất tích không để lại một dấu vết. Chỉ một tuần là đủ để hung thủ biến họ thành những cái xác không hồn. Khi cảnh sát phát hiện ra thì họ nằm bất động, không có phản ứng lại với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn không chết. Cũng vì vậy mà giới báo chí đã đặt cho hắn cái tên “Kẻ Đoạt Hồn”. Ngay trước lễ Giáng Sinh, Kẻ Đoạt Hồn này lại xuất hiện, lần này thì ở trong một bệnh viện tâm thần tư nhân sang trọng. Toàn bộ bệnh viện bị cắt đứt với thế giới bên ngoài vì một cơn bão tuyết, và ở giữa họ là “Kẻ Đoạt Hồn”. Đêm kinh hoàng trong bệnh viện đã bắt đầu như vậy, và Kẻ Đoạt Hồn không cho bất cứ ai trốn thoát. Đây là một quyển nhiều thành công của Sebastian Fitzek. Đọc hết sức hồi hộp. Đọc đến chừng một nửa thì thật không muốn bỏ xuống. Cái tài của ông là để cho hiện thực với quá khứ hòa vào nhau, để cho người đọc có cảm giác như mình giống như những người sinh viên đang đọc tập hồ sơ bệnh án kinh hoàng đó. *** 71 NGÀY TRƯỚC CƠN SỢ HÃI Trang 1 và tiếp theo sau đó của hồ sơ bệnh nhân số 131071/VL   Thật may, tất cả chỉ là một giấc mơ. Cô không trần truồng. Và chân cô cũng không bị cột chặt vào chiếc ghế khám bệnh phụ khoa cổ lỗ, trong khi tên điên đó đang sắp xếp những dụng cụ của hắn trên một cái bàn phụ đã rỉ sét. Khi hắn quay lại, lúc đầu cô không nhận ra được rằng hắn đang cầm cái gì trên bàn tay vấy máu khô. Thế rồi, khi nhìn thấy, cô muốn nhắm mắt lại, nhưng không làm được. Cô không thể rời mắt khỏi cái mỏ hàn nóng đỏ rực đang tiến tới gần chỗ mình. Kẻ xa lạ với gương mặt bị bỏng nước sôi đó đã kéo hai mi mắt của cô lên và dùng máy dập ghim khí nén kẹp chặt nó vào gờ ổ mắt. Cô nghĩ rằng cô sẽ không còn phải chịu đựng cơn đau nào khủng khiếp hơn thế nữa trong phần ngắn ngủi còn lại của cuộc đời mình. Nhưng khi cái mỏ hàn biến mất khỏi tầm nhìn của cô và ở giữa hai chân cô càng lúc càng nóng hơn, cô cảm nhận được rằng đau đớn của những giờ vừa qua chỉ là màn dạo đầu. Thế rồi, trong khoảnh khắc mà cô tin rằng mình đã ngửi được mùi thịt bị cháy sém, thì mọi thứ trở nên trong suốt. Căn hầm ẩm ướt lạnh lẽo nơi cô bị lôi đến, ngọn đèn halogen chớp tắt trên đầu cô, chiếc ghế của kẻ tra tấn và cái bàn bằng kim loại - tất cả đều bốc hơi biến mất, chỉ còn lại một khoảng không đen kịt. Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, chỉ là một giấc mơ thôi. Cô mở mắt ra, và hoàn toàn không hiểu gì cả. Cơn ác mộng mà cô vừa mới bị giam hãm bên trong không hề mất đi hình dạng của nó, mà chỉ biến đổi. Mình đang ở đâu đây? Xét theo nội thất thì đây là phòng của một khách sạn đã xuống cấp. Tấm phủ đầy vết bẩn trên chiếc giường đôi cũ rích cũng dơ dáy và đầy lỗ cháy do đầu mẩu thuốc lá giống như cái thảm trải sàn nhà màu nâu xanh. Cô có thể cảm nhận được những sợi thảm thô cứng dưới chân mình, nên cô co rút người lại nhiều hơn nữa trên chiếc ghế gỗ khó chịu. Mình đi chân đất. Tại sao mình không mang giày nhỉ? Và tại sao mình lại ở trong một cái khách sạn rẻ tiền bẩn thỉu và nhìn trừng trừng vào hình ảnh kiểm tra tín hiệu truyền hình đầy đốm trắng trên một cái ti vi đen trắng cơ chứ? Các câu hỏi bật nảy thật mạnh như những trái bi da trong đầu cô. Bất thình lình, cô giật bắn người, như thể có ai đó đã đánh cô một phát, rồi nhìn xem tiếng ồn phát ra từ đâu. Từ cửa phòng. Cánh cửa lung lay một lần, rồi thêm lần nữa, và cuối cùng bật tung ra. Hai viên cảnh sát lao vào. Cả hai đều mặc cảnh phục và mang súng - cô chỉ có thể nhận thấy được ngần ấy. Lúc đầu, họ chĩa súng vào thân trên của cô, nhưng rồi họ từ từ hạ súng xuống. Sự hồi hộp, căng thẳng trên gương mặt họ nhường chỗ cho sự kinh hoàng, sửng sốt. "Mẹ kiếp, có chuyện gì thế này?", cô nghe người nhỏ con hơn nói. Chính người này đã đạp cánh cửa và lao vào đầu tiên. "Cứu thương", người kia hét lên. "Gọi bác sĩ đi. Chúng tôi cần giúp đỡ ngay lập tức!" Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, đây là lần thứ hai cô cầu Chúa trong vòng vài giây. Cô sợ tới mức gần như không thở được nữa. Cô đau toàn thân, cả người đầy mùi phân với nước tiểu. Tất cả những điều đó, và việc cô không biết cô đến đây bằng cách nào, khiến cho cô gần như phát điên lên, nhưng giờ thì ít ra cũng có hai cảnh sát đứng trước cô và gọi trợ giúp cứu thương. Điều này không tốt lắm, nhưng vẫn tốt hơn một tên điên với cái mỏ hàn rất nhiều. Chỉ vài giây sau, một bác sĩ cấp cứu hói đầu đeo hoa tai lao vào phòng và quỳ xuống bên cạnh cô. Rõ ràng là dịch vụ cấp cứu đã đến đây cùng với một chiếc xe cứu thương. Đó cũng không phải là một dấu hiệu tốt. "Cô có nghe tôi nói không?" "Có…", cô trả lời ông bác sĩ. Những quầng thâm trên mắt trông như được xăm vĩnh viễn lên gương mặt ông. "Cô ấy có vẻ không hiểu tôi." "Có chứ, có chứ," cô muốn giơ cánh tay lên, nhưng cơ bắp của cô không tuân lệnh. "Cô tên gì?" Ông bác sĩ lấy ra từ túi áo một cái đèn pin trông giống như cây bút và chiếu vào mắt cô. "Vanessa", cô cất giọng khàn khàn, rồi nói thêm, "Vanessa Strassmann." "Cô ấy chết rồi à?" Cô nghe một người cảnh sát hỏi từ phía sau. "Chết tiệt, con ngươi hầu như không phản ứng lại với ánh sáng nữa. Và cô ấy dường như không nghe thấy và cũng không nhìn thấy chúng ta. Cô ấy bị căng trương lực*, có lẽ là hôn mê rồi." "Thật vô lí quá!" Vanessa hét lên và muốn đứng dậy, thế nhưng cô thậm chí còn không thể nhấc tay lên được. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Cô nhắc lại thật to ý nghĩ đó và cố gắng nói càng rõ ràng càng tốt. Dường như không ai muốn lắng nghe cô. Thay vào đó, tất cả mọi người đều quay lưng lại với cô và nói chuyện với một người nào đó cô chưa thấy bao giờ. "Chị nói là cô ấy đã không rời gian phòng này bao lâu rồi?" Đầu của vị bác sĩ che mất tầm nhìn của cô ra cửa. Giọng một phụ nữ trẻ tuổi vang lên, "Chắc chắn là ba ngày rồi. Có thể còn lâu hơn nữa. Lúc cô ấy làm thủ tục nhận phòng, tôi đã nghĩ có cái gì đó không ổn với cô ấy rồi. Nhưng cô ấy nói không muốn bị quấy rầy." Chị ta nói cái gì vớ vẩn thế nhỉ? Vanessa lắc đầu. Tôi sẽ không bao giờ tự ý vào đây đâu. Một đêm cũng không! "Lẽ ra tôi không định gọi cô ấy đâu, nhưng mà tiếng thở khò khè đáng sợ đó cứ mỗi lúc một to hơn, và…" "Nhìn kìa!" Giọng nói của viên cảnh sát nhỏ người hơn vang lên ngay bên tai cô. "Cái gì?" "Ở đây có cái gì đó. Đây này." Vanessa cảm thấy ông bác sĩ gỡ ngón tay cô ra và dùng nhíp cẩn thận gắp một cái gì đó ra khỏi bàn tay trái của cô. "Cái gì thế?" Viên cảnh sát hỏi. Vanessa cũng ngạc nhiên như tất cả những người khác trong phòng. Cô không hề nhận ra là mình có cầm một cái gì đó. "Một tờ giấy ghi chú." Ông bác sĩ mở tờ giấy được gập làm đôi ra. Vanessa cố liếc mắt để có thể đọc được, thế nhưng cô chỉ thấy những chữ viết tượng hình khó hiểu. Những chữ trên đó được viết bằng một thứ tiếng hoàn toàn lạ lẫm đối với cô. "Nó viết gì thế?" Viên cảnh sát đứng gần cửa lên tiếng hói. "Thật lạ," ông bác sĩ cau mày đọc, "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Lạy Chúa. Ông bác sĩ cấp cứu đọc những chữ đó mà không ngần ngừ. Việc này khiến cho cô thấy rõ toàn bộ nỗi kinh hoàng của cơn ác mộng đang giam giữ cô. Không hiểu vì lí do gì mà cô đã mất mọi khả năng trao đổi. Trong khoảnh khắc này, Vanessa không thể nói hay đọc, và cô đoán rằng thậm chí cô còn không thể viết được nữa. Ông bác sĩ lại chiếu đèn thẳng vào con ngươi của cô, và rồi bất thình lình, tất cả các giác quan còn lại của cô dường như cũng bị gây mê. Cô không còn ngửi được mùi hôi của cơ thể, không còn cảm nhận được chiếc thảm dưới đôi chân trần của mình nữa. Cô chỉ nhận thấy nỗi sợ hãi trong cô càng lúc càng lớn hơn và những tiếng nói lộn xộn quanh cô mỗi lúc một nhỏ đi. Bởi lẽ, khi ông bác sĩ vừa mới đọc xong dòng chữ ngắn ngủi đó, một sức mạnh vô hình đã chiếm lấy cô. "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Một sức mạnh đang vươn bàn tay lạnh giá của nó tới và kéo cô xuống dưới - trở lại nơi mà cô không bao giờ muốn nhìn thấy lần nữa trong đời, nơi cô vừa mới rời bỏ vài phút trước. Đây không phải là một giấc mơ. Hay đúng là mơ? Cô cố ra dấu cho ông bác sĩ, thế nhưng khi hình dáng của ông ấy tan biến dần thì cô bắt đầu hiểu được, và một nỗi kinh hoàng trần trụi chiếm lấy cô. Họ thực sự không nghe thấy những lời cô nói. Cả ông bác sĩ lẫn cô nhân viên tiếp tân và các viên cảnh sát đều không thể nói chuyện với cô. Bởi lẽ cô chưa từng tỉnh dậy trong cái khách sạn tồi tàn này, thậm chí là ngược lại. Khi ngọn đèn halogen ở phía trên cô lại bắt đầu lóe lên, cô nhận ra rằng cô đã bất tỉnh khi cuộc tra tấn bắt đầu. Không phải tên điên đó, mà căn phòng khách sạn mới là một phần của giấc mơ. Giấc mơ ấy giờ đây đã trốn chạy, nhường chỗ cho hiện thực tàn khốc. Hay là mình lại nhầm lẫn nữa rồi? Cứu. Cứu tôi với! Tôi không còn có thể phân biệt được gì nữa. Cái gì là thực? Cái gì là mơ? Và tất cả mọi thứ lại giống như trước đó - căn hầm ẩm thấp, cái bàn kim loại. Cô bị trói chặt trên chiếc ghế khám phụ khoa. Trần truồng. Trần truồng tới mức cô cảm nhận được hơi thở của tên điên đó giữa hai chân mình. Hắn hà hơi vào người cô, ở đúng chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể cô. Rồi gương mặt đầy thẹo của hắn xuất hiện trong giây lát trước mắt cô, và cái miệng không môi cất tiếng nói, "Chỉ đánh dấu thêm lần nữa thôi. Bây giờ có thể bắt đầu rồi." Hắn nắm lấy cái mỏ hàn. Mời bạn đón đọc Kẻ Đoạt Hồn của tác giả Sebastian Fitzek & Phan Ba (dịch).
Bí Mật Đen Tối
Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lí học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. *** Tác giả: Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt. Dịch giả: Nguyễn Hữu Công. Thể loại: Trinh thám Thụy Điển, tâm lý xã hội . Mức độ ưa thích: 6/10. Cậu bé Roger Eriksson 16 được tìm thấy đã chết rất thảm ở vùng đầm lầy Listakarr. Quá trình điều tra diễn tiến chậm chạp với sự tắc trách của cảnh sát địa phương, do đó Riskmord – Đơn vị chống tội phạm giết người quốc gia được mời vào cuộc. Người phụ trách Riskmord là Torkel Hoglund vì cả nể tình bạn xưa cũ với Sebastian Bergman nên đã đồng ý để ông tham gia điều tra trong sự phản đối của các thành viên khác. Sebastian vốn là chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt, nhưng lần này ông ở Vasteras chỉ để lo thủ tục bán nhà sau khi mẹ ông qua đời. Càng điều tra, họ càng thấy mình như đang bước vào một mê cung vô cùng rối rắm chứa đầy những bí mật đen tối. Khi biết quyển sách này hơn 700 trang, mình bị thôi thúc bởi ý nghĩ “phải đọc”. Vốn đã quen với các thể loại trinh thám Mỹ thiên về loại hình siêu anh hùng, tốc chiến tốc thắng, không quá lắt léo đau lòng nên khi đọc “Bí mật đen tối”, nhịp văn chậm kiểu trinh thám Bắc Âu, quá nhấn mạnh vào cảm xúc + hành động sai trái của nhân vật, đọc hoài không có tiến triển gì mới – khiến mình hơi chán. Có một chi tiết trong truyện sau 500 trang cảnh sát vẫn chưa đoán được thì mình đoán đúng từ sớm. Cũng sau 500 trang thì mình mới thấy câu chuyện bắt đầu thú vị hơn, nhưng lúc kết thúc quyển sách thì mình không có được cảm giác hài lòng quen thuộc sau khi đọc một tuyệt phẩm. Trong cả truyện, mình chỉ tìm được vài đoạn hài hước hiếm hoi, thường là hài hước kiểu châm biếm sâu cay. “…chiếc túi chứa thứ gì đó, mà ông đoán chừng chắc trước kia là phó-mát, nhưng giờ nó chẳng khác nào dự án nghiên cứu trong phòng thì nghiệm chuyên về nấm mốc rất thành công”. Sau khi đọc “Tàn thế” và “Dị chủng”, mình có một tư duy lối mòn là cuốn nào do hai tác giả chấp bút thì cuốn đó đều rất dày và rất hay, nhưng cốt truyện trong “Bí mật đen tối” không gây ấn tượng sâu sắc với mình. Có lẽ các tác giả muốn nhấn mạnh tính thực tế tàn nhẫn của xã hội, nên các nhân vật trong truyện đều bị mô tả đầy khuyết điểm, từ chính diện đến phản diện. Chưa bao giờ mình đọc quyển sách nào mà mình ghét tất cả các nhân vật như quyển này, đặc biệt ghét nhân vật chính vì cách ông ta [dùng tình dục để lãng quên nỗi đau mất vợ con trong quá khứ]. Dù xã hội ông đang sống có nghĩ thoáng đến đâu, dù những người phụ nữ hoàn toàn tự nguyện trong những chuyện tình một đêm của ông thì mình vẫn cho rằng hành động đó […] vẫn gây ra rất nhiều tổn thương cho người khác. Ngay trong quyển này, độc giả sẽ thấy Sebastian phải trả giá cho những chuyện ông đã làm. Bìa sách bình thường, giấy màu ngà rất đẹp, chữ in to rõ, không có lỗi in ấn, trình bày đẹp, có kèm bookmark cùng thiết kế với bìa sách. Với một tác phẩm đồ sộ như “Bí mật đen tối” thì phần dịch thuật quả thật rất được chăm chút, nhưng dường như vẫn còn một chỗ viết nhầm “Bergman” thành “Berman”. Vì mình không thích cốt truyện nên không thích quyển này nhưng đối với một số độc giả khác, nhất là những ai thích “Bạch Dạ Hành” hoặc các quyển của Donato Carrisi thì có lẽ “Bí mật đen tối” sẽ là một tác phẩm rất đáng đọc và sở hữu. (Sea, 21-7-2019) Camellia Phoenix *** Suốt chiều dài hơn 700 trang, tác phẩm có nhiều chi tiết thừa, những nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ có tác dụng tung hỏa mù làm cho người đọc bối rối, hoang mang. Tuy nhiên, cách dẫn chuyện vẫn có nét hấp dẫn riêng, khiến cho người đọc cứ phải lật hết trang này đến trang khác để xem tác giả đưa mình đến đâu. Mỗi nhân vật sẽ tự kể câu chuyện cuộc đời họ trong một chừng mực. Họ có riêng "sàn diễn" để mặc sức vẫy vùng. Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. Một cách tiếp cận vấn đề khiến người đọc có phần… sốt ruột và thôi thúc việc đọc không thể ngừng nghỉ, chỉ với một mục đích: đọc đến trang cuối cùng để tìm thấy ánh sáng, để nhìn rõ sự thật. Bằng lối viết tinh tế, sắc sảo, Michael Hjorth và Hans Rosenfeldt dẫn dắt bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những chi tiết được khéo léo cài cắm, đầy những nút thắt, mở và cũng rất nhiều chi tiết tưởng như không cần thiết nhưng đến cuối, bạn sẽ hiểu tại sao chi tiết ấy lại xuất hiện. Trong các tiểu thuyết trinh thám không thiếu những cảnh tra tấn và giết người, nhưng ở “Bí mật đen tối” thì quá trình đó được miêu tả chân thực và rùng rợn đến mức chúng ta không tưởng tượng được làm thế nào tác giả lại có thể nghĩ ra những chi tiết đó một cách tài tình đến như vậy. Quả tim của nạn nhân đã biến mất, chi tiết mở đầu tiểu thuyết đã đủ lôi cuốn trí tò mò của người đọc.  Tác giả đã rất biết cách xây dựng một vụ án vừa đáng sợ vừa hóc búa và gay cấn đến phút cuối cùng, khiến cho người đọc tuy sợ nhưng cũng phải mau chóng lia mắt đọc tới dòng tiếp theo vì họ hoàn toàn không muốn bỏ lỡ bất kỳ tình tiết nào trong chuyến hành trình tìm ra sự thật. Bên cạnh những chi tiết hấp dẫn, gây tò mò, độc giả cũng sẽ bắt gặp những dòng văn nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, giản dị. Con người gai góc của Sebastian cũng có lúc lắng sâu, thâm trầm khi ông nhận ra thứ đơn giản như nước mắt: "Những năm gần đây, đó là điều biến đổi. Nước mắt. Thật lạ lùng, ông nghĩ, từng tuổi này, mình lại phải phát hiện ra thứ đơn giản như nước mắt". Nếu bạn là một độc giả yêu thích thể loại truyện trinh thám, chắc chắn "Bí mật đen tối" sẽ không làm bạn thất vọng. *** Gàkhông phải là kẻ giết người. Gã lặp lại trong đầu khi kéo xác thằng bé xuống dốc: Mình không phải là sát nhân. Sát nhân là tội phạm. Sát nhân thật kinh tởm. Bóng tối đã nuốt chửng linh hồn họ, và vì nhiều lý do họ đã nương theo và chào đón nó, quay lưng lại với ánh sáng. Gã không kinh tởm. Ngược lại là đằng khác. Chẳng phải gần đây gã không chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại sao? Chẳng phải gã đã không gạt cảm xúc, ao ước của riêng mình sang một bên, mà tự kiềm chế, tất cả vì hạnh phúc của người khác? Làm ngơ – đó là những gì gã đã làm. Chẳng phải sự hiện diện của gã ở bãi lầy này, giữa một nơi xa xôi hẻo lánh với thi thể thằng bé càng chứng tỏ rằng gã muốn làm điều lương thiện sao? Phải làm điều lương thiện? Như thể gã chẳng bao giờ muốn làm việc tốt một lần nào nữa? Gã dùng chân và thở ra một hơi dài. Dù thằng bé chưa thật sự trưởng thành nhưng nó rất nặng. Rắn chắc. Nhiều giờ đã đổ ra ở phòng tập thể hình. Nhưng quãng đường không còn quá xa. Gã túm lấy hai ống quần, từng mang màu trắng nhưng giờ đây hầu như đã chuyển sang đen trong bóng đêm. Thằng bé máu me đầm đìa. Đúng, giết người là sai. Điều răn thứ năm nói rằng: Ngươi không được giết người. Nhưng có những ngoại lệ. Ở nhiều nơi, Kinh Thánh thực ra biện hộ cho giết chóc. Có người xứng đáng được như thế. Sai có thể thành đúng. Không có gì tuyệt đối cả. Rồi thế nào đây nếu lý do đằng sau việc giết người không phải vì ích kỷ? Nếu mất đi một nhân mạng mà cứu được những người khác? Thì hãy cho những người đó cơ hội. Cho họ được sống. Vào hoàn cảnh này, hành động ấy chắc chắn không thể liệt vào loại tàn ác. Nếu có động cơ tốt. Gã dừng chân bên làn nước đen của cái ao. Thường ngày, ao sâu chừng vài thước, nhưng cơn mưa gần đây đã làm mặt đất úng thủy, và giờ đây nó giống cái hồ giữa bãi lầy ứ đọng hơn. Gã cúi xuống và túm lấy hai vai chiếc áo phông của thằng bé. Cũng khá nhọc công, gã vần cho đến khi xác chết gập lại. Trong thoáng chốc, gã nhìn thẳng vào mắt thằng bé. Nó đã nghĩ gì trước khi chết? Liệu có đủ thời gian cho ý nghĩ cuối cùng? Nó có biết mình sắp chết không? Có tự hỏi tại sao không? Nó đã nghĩ về những thứ chưa làm được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, hay về những thứ đã thật sự làm được? Không còn quan trọng nữa. Tại sao gã lại tra tấn bản thân thế này – hơn cả cần thiết? Gã không còn cách nào khác. Gã không thể làm họ thất vọng. Không một lần nào nữa. Tuy nhiên, gã đã do dự. Nhưng không, họ chẳng cảm thông đâu. Sẽ không tha thứ. Sẽ không làm ngơ, như gã đã làm. Gã đẩy thằng bé và thi thể nó rớt xuống nước, nghe rõ tiếng nước bắn tóe. Gã giật bắn người bởi thứ âm thanh không mong đợi vang lên trong khoảng không thinh lặng, mù mịt. Thi thể thằng bé chìm xuống nước và dần biến mất. Gã đàn ông không phải là sát nhân cuốc bộ về chiếc xe hơi của mình, đang đậu ở con đường mòn dẫn vào rừng, rồi lái xe về nhà. “Cảnh sát thành phố Västerås, Klara Lidman nghe đây.” “Tôi muốn báo con trai mình đã mất tích.” Giọng người phụ nữ nghe có vẻ ái ngại, như thể cô không chắc là mình gọi đúng số, hay cô không nghĩ là người ta tin mình. Klara Lidman với tay lấy xấp giấy ghi chú dù cuộc nói chuyện đang được ghi âm. "Vui lòng cho biết tên cô?" “Eriksson, là Lena Eriksson. Con trai tôi là Roger. Roger Eriksson.” “Con cô bao nhiêu tuổi?" “Mười sáu. Tôi vẫn chưa gặp lại nó kể từ chiều hôm qua." Klara chú ý đến độ tuổi thằng bé và nhận ra mình phải hành động ngay. Tất nhiên là nếu thằng bé đã mất tích. “Hồi mấy giờ chiều hôm qua?” “Nó dông mất lúc năm giờ.” Vậy là hai mươi hai giờ trước. Hai mươi hai giờ mấu chốt nếu đó là một vụ mất tích. “Cô có biết con mình đi đâu không?” “Có, đi gặp Lisa." “Lisa là ai?” “Bạn gái nó. Hôm nay tôi đã gọi cho con bé, nhưng nó bảo con tôi rời khỏi chỗ nó lúc mười giờ tối qua." Klara gạt bỏ con số “hai mươi hai” và thay bằng “mười bảy”. “Sau đó thằng bé đi đâu?" “Con nhỏ không biết. Nó nghĩ là về nhà. Nhưng con trai tôi vẫn chưa về nhà. Nó không hề về nhà cả đêm hôm qua. Và bây giờ sắp hết một ngày nữa rồi.” Và cô đã không gọi điện báo cho đến tận bây giờ, Klara nghĩ. Trong cô bỗng bật ra ý nghĩ rằng người phụ nữ ở đầu dây bên kia đã không cuống lên. Mà thờ ơ. Cam chịu. “Họ của Lisa là gì?” “Hansson." Klara ghi lại họ của con bé. “Roger có dùng điện thoại di động không? Cô thử gọi cho thằng bé chưa?” “Rồi, nhưng không ai trả lời.” "Và cô không biết nó có thể đi đâu? Liệu thằng bé có qua đêm ở chỗ bạn bè hay nơi nào đại loại như thế không?” “Không, như thế thì nó đã gọi cho tôi rồi.” Lena Eriksson ngưng lại một chút và Klara đoán chừng là người kia đang nghẹn ngào, nhưng khi nghe làn hơi rít vào ở đầu dây bên kia, cô nhận ra là cô ta đang kéo một hơi thuốc dài. Cô nghe thấy Lena thổi khói thuốc ra. “Nó đã biến mất.” Mời bạn đón đọc Bí Mật Đen Tối của tác giả Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt & Nguyễn Hữu Công (dịch).
Vụ Án Phim Trường
Một ngày nọ, nữ minh tinh Stella Lamar đã đột ngột tử vong giữa lúc đang quay một bộ phim trinh thám tại ngôi biệt thự ở Tarrytown.  Bác sĩ khám nghiệm cô không phát hiện ra bất cứ triệu chứng khác thường nào cả, nhưng thám tử - nhà khoa học Kennedy nhanh chóng phát hiện ra dấu hiệu cho thấy cô đã bị đầu độc. Kennedy và cộng sự Walter theo quá trình điều tra khám phá những mối quan hệ phức tạp trong làng điện ảnh. Rồi vụ những án mạng và mưu sát tiếp tục xảy ra. Danh sách kẻ tình nghi lên đến 9 người, thậm chí, hung thủ chưa chắc đã hành động một mình… *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học - thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra... Tác giả Arthur B. Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những người đi tiên phong trong dòng trinh thám "thực chứng". Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy "giảng giải" những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện không còn xa lạ với bạn đọc hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì rất nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình đã kì vọng sẽ có thêm twist xoắn hơn ở kết cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. *** Điểm: 8/10 ‘Vụ Án Phim Trường’ là một trong những cuốn trinh thám mà mình mê vì bối cảnh hơn là vụ án. Truyện được sáng tác vào thời kỳ đầu của điện ảnh, tức là thời kỳ phim câm và đen trắng. Tác giả đã bỏ công nghiên cứu quy trình quay phim, cách xưởng phim hoạt động, các mẹo lên hình sao cho ăn ảnh và các mối quan hệ yêu ghét lẫn lộn trong giới điện ảnh, tất cả những chi tiết ngoài lề này hết sức thú vị. Mỗi lần đến với tác phẩm trinh thám cổ điển, ngoài việc truy cầu một vụ án hay, mình còn mong muốn tìm được thứ văn chương giàu sức truyền cảm hay những câu chuyện bên lề của một thời đại đã qua.   Vụ án trong truyện ở mức ổn. Hung thủ thực sự có đầu óc, biết lên kế hoạch hiệu quả, biết đánh lạc hướng qua lại. Mình thích vụ phóng hỏa nhất vì nó rất kỳ công, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về hóa học và sự sáng tạo. Phía cảnh sát đối trọng thì có mấy pha xử lý hơi cồng kềnh. Tác giả để hung thủ gây án thêm nhiều lần nhằm đẩy mạch truyện lên cao trào, ok mình đồng ý, nhưng cái lý do ông để cảnh sát không ngăn chặn được thì thật ba chấm. Đúng là hung thủ được tạo điều kiện gây án hết mức. Điểm đột phá của truyện – việc phá án bằng khoa học – hẳn là gây ấn tượng mạnh với độc giả thời ấy hơn độc giả hiện đại, song nhà khoa học hình sự Craig Kennedy vẫn có vài mánh lới khác nên công tác điều tra không đến nỗi lỗi thời tẻ nhạt. Nếu phía cảnh sát hành động hợp lý hơn thì vụ án có thể lên được mức tốt. Về phần nhân vật chính, có lẽ vì đây là cuốn thứ 13 trong series, Craig Kennedy không được miêu tả nhiều lắm, dù mình tưởng tượng trong đầu rằng anh này là một phiên bản ít cực đoan hơn của Sherlock Holmes. Anh cộng sự Walter Jameson thì đóng vai trò người kể chuyện và làm tất cả những việc mà mấy ông cộng sự thám tử khác vẫn hay làm: quan sát việc điều tra, trầm trồ thán phục, chạy loăng quăng để tỏ ra mình có ích, đưa ra vài giả thuyết nào đó rồi khăng khăng cho là mình đúng,… Lâu lâu mình muốn được đọc một người cộng sự có ích hơn hay bớt phiền phức hơn chút đỉnh. Phải nói là mình hết sức hài lòng với trải nghiệm đọc này và sẵn sàng tìm đọc thêm vài cuốn trong series Craig Kennedy. Nhân tiện, thi thoảng mình mới thấy Cổ Nguyệt làm được cái bìa đẹp và đúng chủ đề như cuốn này. Phan Quỳnh Lê *** Ngôi sao nổi tiếng với sự nghiệp diễn xuất đang lên như diều gặp gió Stella Lamar gục xuống rồi lăn ra chết một cách quằn quại trong khi đang đóng những thước phim tiếp theo của bộ phim “Nỗi kinh hoàng màu đen”, không một dấu hiệu khác thường nào được bác sĩ tìm thấy trong quá trình khám nghiệm cho cô. Cái chết của cô được coi là kì quái cho tới khi giáo sư Kennedy, một thám tử tư kiêm nhà nghiên cứu khoa học, cùng cộng sự của anh, phóng viên Walter Jameson của Thời báo Star được mời đến, và vết xước nhỏ xíu tới mức khó có thể nhận ra được Kennedy tìm thấy, nó được cho là nguyên nhân gây ra cái chết của nữ diễn viên lộng lẫy với vẻ đẹp ngọt ngào những năm 20. Số nghi phạm lên tới 9 và tất cả họ đều thuộc hoặc liên quan tới giới diễn xuất bao gồm đủ mọi công việc từ diễn viên, biên kịch, nhà quảng bá cho tới nhà đầu tư, những kẻ có thể khoác lên mặt mình những tấm mặt nạ hoàn hảo nếu họ thích. Bên cạnh đó, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn với những chứng cớ ít ỏi, mong manh, những lời khai mập mờ và đầy sự nghi kị của người trong cuộc cùng những mánh khóe kín đáo, thủ pháp gọn gàng và thái độ bình tĩnh tới đáng sợ của hung thủ khi gây án. Liệu việc ứng dụng khoa học vào điều tra vụ án có thể giúp Kennedy và Walter vạch trần hung thủ? Vụ Án Phim Trường không có nhiều twist, hung thủ khá dễ đoán. Nhưng cách tác giả xây dựng bối cảnh, lồng ghép những chi tiết về phim ảnh và khoa học lại khéo léo một cách đáng ngạc nhiên và không có sự liệt kê, phô bày như thể đang chứng minh học thức. Qua những trang sách của Vụ Án Phim Trường, vẻ lộng lẫy của những phim trường đen trắng với những bộ phim năm cuộn thời Chaplin, sự mĩ miều hoa lệ tới mức hào nhoáng của màn bạc với những chàng và nàng diễn viên, những cuộc viếng thăm, những mánh khóe con buôn của các nhà làm phim khi tranh thủ sự tài trợ, thậm chí là những ghen tuông, nghi kị lừa lọc và cạnh tranh phía sau màn ảnh, tất cả làm nên một bức tranh đầy đủ về thế giới điện ảnh những năm 20. Chúng không hề thừa thãi mà ngược lại còn làm cho câu chuyện có nét quyến rũ xa hoa, tôn lên một màu sắc, một không khí nhẹ nhàng tản mát rất phù hợp với tấm thảm kịch – nơi mà những con người tắm mình trong ánh sáng vàng son ấy của sự nổi tiếng, tưởng như nắm tất cả danh vọng trong tay, vậy mà giây phút ra đi không một ai thương tiếc họ, tất cả chỉ chạy theo lợi nhuận, theo khát khao nổi tiếng, dù có là máu lạnh, là vô tình. Bên cạnh đó, không thể kể tới thủ pháp phá án riêng biệt của Kennedy. Khi đọc Vụ Án Phim Trưởng, người ta dễ nhận thấy của Sherlock Holmes nơi Kennedy Craig, và trong dáng vẻ vội vã hấp tấp của Walter, ta nhìn thấy một bác sĩ Watson cũng bộp chộp không kém. Thế nhưng Arthur B. Reeve đã thành công tách Kennedy thành một hình tượng riêng biệt, không chỉ dựa vào những phán đoán đơn thuần, Kennedy bắt đầu đi sâu vào sử dụng biện pháp khoa học để chứng minh một chứng cứ, hay giúp đỡ quá trình phá án. Và như đã nói ở trên, những kiến thức khoa học tuy khá dày nhưng không gây ngán, khá đồng đều và dễ hiểu. Đây có thể coi là một bước tiến lớn trong xu hướng trinh thám thời kì đó. Nói chung, Vụ Án Phim Trường có tình tiết câu chuyện được xử lí gọn gàng không dàn trải, câu văn đơn giản, chậm rãi, dễ thấm, văn phong ổn định, mượt mà. Tuy vẫn chưa hài lòng với cái kết bỏ ngỏ, xong từng ấy điều cũng đủ khiến độc giả mong chờ tác phẩm tiếp theo về thám tử Kennedy. Ngoài ra, nói về chất lượng sách thì bìa Cổ Nguyệt làm khá đẹp, in ấn cũng rất rõ ràng, chỉ tiếc mực in bị thấm, có thể nhìn thấy cả mặt sau, dàn trang chưa ổn, cỡ chữ hơi to. Điểm: 7/10. *** Vụ án phim trường mở đầu bằng cái chết của nữ diễn viên nổi tiếng Stella Lamar – một cái chết bất ngờ và kì lạ , và rồi từ đó mở ra 1 vụ án bí ẩn , mưu mô , ẩn giấu sau những rối răm của ánh hào quang Hollywood . Ngay từ đầu tác giả B.Reeve đã lôi kéo thành công người đọc chìm vào trong câu chuyện với cái chết của Stella Lamar . Cái chết diễn ra ngay trước mặt của đoàn làm phim – nơi gần như kẻ thủ ác không có khả năng gây án . Nữ diễn viên gục xuống mà không có bất cứ thương tổn nào ngoài 1 vết xuốc nhỏ nơi cánh tay . Điều kì lạ từ thời gian , địa điểm , cách thức cho đến hung khí gây án , đã giúp vụ án trở nên thú vị và cuốn hút người đọc theo chân thám tử Kennedy và người cộng sự Walter lần theo từng manh mối để phá án . Mở đầu bằng 1 án mạng , nhưng tiếp theo tiết tấu của truyện lại ko đc B.Reeve đẩy lên cao ngay lập tức – mà lại đc kìm lại , với 1 tiết tấu chậm , vừa phải của công việc điều tra , thẩm vấn , tưởng như sẽ khô khan và buồn ngủ . Thế nhưng không , công cuộc điều tra chậm rãi này , đã đc tác giả khéo léo sử dụng để xây dựng nên một mối quan hệ chồng chéo và rắc rối giữa các nghi phạm . Ẩn sau những mối quan hệ tưởng chừng như thân quen , lại là những mảng tối của ngành nghệ thuật thứ 7 . Nơi những kẻ thủ ác có thể khoác lên mình bất cứ khuôn mặt nào , từ một nhà quảng bá phim thành đạt nhưng đầy mưu mô , một nhà tư vấn tài chính tưởng chừng giàu có nhưng lại đang sắp phá sản , một nam diễn viên đẹp trai nhưng lại là kẻ ăn chơi ..v..v.. 9 kẻ tình nghi hiện lên với 9 khuôn mặt và các mối quan hệ chồng chéo , đan xen và xoay quanh nạn nhân Stella Lamar . Cặp đôi thám tử Kennedy- Walter có lẽ đc xây dựng trên hình tượng cặp đôi nổi tiếng Holmes- Watson nên có rất nhiều nét tương đồng . Một thám tử tài năng xen chút lập dị , kết hợp vs người cộng sự nhiệt tình năng nổ nhưng đôi chút ngờ nghệch dễ dang gợi cho độc giả hình ảnh cặp đôi nổi tiếng người Anh . Thế nhưng Craig Kennedy cũng sự độc đáo của riêng mình . Vị thám tử tài hoa này đem lại cảm giác đó là sự kết hợp giữa Holmes và Lincol Rhymer . Kennedy áp dụng thành thạo các cơ sở lý luận đầy logic của Holmes , cũng như tin tưởng đầy chắc chắn vào phương pháp nghiên cứu khoa học từ những manh mối thu đc như Rhymer – sự kết hợp tốt cho hình ảnh 1 thám tử tài năng . B.Reeve cũng đã thể hiện được kiến thức cho tác phẩm của mình. Các hung khí trong truyện đều được tìm hiểu tốt và độc đáo , không xuất hiện nhiều trong các tác phẩm trinh thám khác , cho thấy sự đầu tư và tránh lối mòn của tác giả . Ngoiaf ra , truyện cũng thể hiện khá rõ nét quy trình dựng phim vào đầu thế kỉ 20 , cung cấp thêm cho độc giả hình ảnh của Hollywood những năm 20 của thế kỉ trước . Có thể khẳng định đây là 1 tác phẩm hay . Tuy nhiên , đáng tiếc rằng đoạn kết của truyện lại hơi cụt , khi tác giả để vụ án kết thúc hơi nhanh . Cũng như sự lí giải của thám tử về vụ án cho mọi người có chút ngắn , khiến cho 1 vài tình tiết trong truyện chưa được giải thích rõ ràng cho độc giả – tuy không ảnh hưởng đến nội dung nhưng lại đem tới chút tò mò và hụt hẫng . Hy vọng ở những tác phẩm sau của Arthur B.Reeve được xuất bản có thể khắc phục được điểm yếu này . Trần Mạnh Hiệp   *** Stella Lamar, ngôi sao đang lên của ngành điện ảnh những năm 1920, đang trong cảnh quay thước phim trinh thám “Nỗi Kinh Hoàng Màu Đen” thì lăn ra chết đau đớn. Cảnh này không hề có trong kịch bản. Bác sĩ khám nghiệm xác không phát hiện ra bất kỳ điều gì khác thường. Giáo sư Kennedy, một thám tử tư, cùng cộng sự Walter Jameson được mời đến, và chính Kennedy là người phát hiện ra vết xước nhỏ tí trên cánh tay Stella và cho rằng nguyên nhân chết là bị đầu độc. Trong một đoàn làm phim đông đảo của hãng phim Manton Pictures, Kennedy cùng Walter phải tự lần mò qua những khúc quanh, những âm mưu, những lời dối trá của tận 9 nghi phạm vừa là diễn viên, đạo diễn, ông bầu, biên kịch v.v… Những kẻ luôn có khả năng diễn xuất siêu việt. Thêm vào đó họ còn phải hiểu biết cả nghệ thuật làm phim, dựng phim thời kỳ đó, vốn lạc hậu và khác xa so với bây giờ. Khi những cái chết ngày càng nhiều lên liệu Kennedy cùng Walter sẽ phải làm sao để vạch mặt chân tướng hung thủ? Arthur B. Reeve đã dựng lên một bối cảnh tuyệt vời cho vụ án mạng. Bối cảnh điện ảnh những năm 1920 tuy vẫn còn lạc hậu so với bây giờ nhưng vẫn hào nhoáng, đẹp đẽ, lộng lẫy với danh vọng, với vinh quang và những dối trá, âm mưu, ghen tuông, thù hận. Những đoạn tả cảnh diễn xuất, bối cảnh trường quay và nghệ thuật làm phim rất sinh động. Có thể tác giả đã quá tham lam diễn tả những nghệ thuật này nhưng nếu so sánh nó với bối cảnh khám nghiệm bằng khoa học của Kennedy thì sẽ thấy rất thú vị. Hai bối cảnh hỗ trợ nhau, bằng cách nào đó như thể đang đối đầu với nhau. Bối cảnh phòng thí nghiệm của Kennedy thì đơn sơ, mộc mạc và xấu xí hơn nhưng giúp anh tìm ra chân tướng thực sự của hung thủ. Đọc truyện chúng ta dễ dàng thấy sự tương đồng giữa Arthur B. Reeve với Conan Doyle. Trong việc khám nghiệm hiện trường rất tỉ mỉ của Kennedy, trong cái vụng về, bộp chộp của Walter, trong cảnh suy luận vạch mặt hung thủ được đưa về cuối truyện. Truyện có rất nhiều đoạn suy luận sắc bén của Kennedy khi phân tích chất độc, khi bác bỏ những giả thuyết của Walter hay khi khám nghiệm hiện trường. Thêm vào đó nét tính cách của toàn bộ 9 con người kia hiện lên rõ nét. Phần nào vẽ lên môi trường điện ảnh ngày xưa vẫn tồn tại những hỉ nộ ái ố, những cạnh tranh trong nghề nghiệp và cả trong tình yêu của giới làm phim. Tuy là tác phẩm trinh thám cổ điển nhưng văn phong của truyện lại rất mượt mà. Những đoạn Walter phải lòng Enid Faye, diễn viên thay thế Stella Lamar đọc rất vui. Bản dịch rất chuẩn khi dịch các kỹ thuật, công nghệ làm phim và kỹ thuật khoa học. Không biết khi dịch nó dịch giả có phải tra cứu nhiều không. Nói chung truyện đáng đọc! Điểm: 8/10 Nguyen Quang Huy *** Nói về cuốn trinh thám này, cuốn Vụ án phim trường của nhà văn Arthur Benjamin Reeve… Nhà văn lấy bối cảnh những năm 20s của thế kỷ trước. Đề tài nói về những thảm án tại phim trường, cái thời vẫn còn quay bằng từng thước phim ngắn âm bản, rồi rửa, rồi phơi, rồi in,… cái thời theo mình nghĩ là còn sơ khai của ngành điện ảnh. Cái thời mà mình nhớ không nhầm, nó cùng thời với Charlie Chaplin, cái thời phim còn đen trắng, diễn câm, lời thoại được lồng vào phim, các diễn viên cử động thì giật giật như công nông lên dốc vì lý do thời đó chỉ quay được khoảng 24 hình/giây, và trước đây cũng có một chương trình nói về phim ảnh trên kênh VTV3 cũng có tên là 24 hình/giây… Có vẻ mình nói hơi miên man về phim ảnh, cái lĩnh vực mà ông tác giả cũng đánh vào hơi sâu, giải thích có thể nói là hơi quá mức trong cuốn sách này… nhưng cũng cho thấy sự tìm hiểu sâu xa để tác giả có thể đưa người đọc như đứng ngay tại phim trường ấy. Tiếp đó là lời thoại cũng hơi nhiều, hay có vẻ do mình thích đọc kiểu suy luận hơn là thoại nhiều quá! Cách thức giết người cũng tinh vi, xảo quyệt. Cách suy luận, thu thập chứng cứ, cách làm lộ mặt hung thủ cũng khá khoa học, hợp lý trong bối cảnh thời điểm đó. Cái kết không quá khó đoán, nhưng cho người đọc thấy được sự tài tình của tác giả trong việc dẫn dắt câu chuyện và đưa ra sự hợp lý để vạch mặt hung thủ. Nói chung, đây cũng là một cuốn trinh thám đáng đọc của nhà Cổ Nguyệt. Bìa sách đẹp, giấy tốt, nội dung ổn, lại nói về lĩnh vực phim ảnh thời kỳ những năm 20s của thế kỷ trước nên chắc chắn sẽ có nhiều người muốn tìm hiểu. ••••••••• Đánh giá: 8/10 Dương Linh *** Bối cảnh vào cuối những năm 1910 kỷ nguyên phim câm. Cô diễn viên Stellar Lamar đột ngột tử vong khi đang quay một bộ phim trinh thám. Nghi phạm đều trong giới làm phim và có mối quan hệ ân oán phức tạp với nạn nhân. Cảnh sát mời nhà khoa học – thám tử Craig Kennedy hỗ trợ điều tra… Arthur B.Reeve cũng là một nhà khoa học, cùng với Richard Austin Freeman là những tác giả đi tiên phong trong dòng trinh thám “thực chứng”. Dòng trinh thám này kết hợp suy luận logic với kiến thức khoa học để giải quyết vụ án. Nhịp truyện diễn ra từ tốn, nhưng không ù lì vì người đọc thường được thám tư Kennedy “giảng giải” những kiến thức khoa học và độc học thú vị. Và những xét nghiệm khoa học trong truyện tuy không còn xa lạ với độc giả hiện đại nhưng viết cách đây 100 năm thì phải nể kiến thức của tác giả và chúng đã góp phần quan trọng vạch mặt thủ phạm. Ngoài ra truyện còn cung cấp nhiều kiến thức thú vị về công nghệ làm phim thời đó cho những ai quan tâm. Chỉ tiếc một chút khi mình kì vọng sẽ có twist xoắn hơn ở cuối cũng như động cơ được nói kĩ hơn. Nhưng tổng thể truyện cũng khá đáng đọc, hợp với với ai thích khoa học-suy luận. Chấm 7,75/10. Hy vọng sẽ còn được tái ngộ thám tử Kennedy ở cuốn sau với lĩnh vực phân tâm học. Nam Do Mời các bạn mượn đọc sách Vụ Án Phim Trường của tác giả Arthur B. Reeve & Nguyễn Thành Long (dịch).