Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hiếu Đễ Liêm Tiết (Kinh Khuyến Thiện) - Đinh Công Chánh (NXB An Hà 1931)

Vẫn là sáu trăm năm trước, ta là Huệ Quang Đẩu Chiếu Tinh. Nhơn vì hội Bàn-Bào làm chức Tiếp nghi khách thức nghi, nên lịnh Vương Mẫu Đại Thánh Nương, phạt ta 800 năm Nhập thế đầu thai. Đã trải phủ quới, bần tiện, quan hoạn, quân dân,... trong mấy kiếp đầu thai.Trong mấy kiếp cả thảy làm đều có ích, tu nhơn đức, chẳng dám quên kiếp trước công quả.Nay nhà họ Đinh chứa đức tu nhơn nhiều đời, nên ta là Đinh Công Chánh nhập thai nhà ấy, đặng mà báo bỗ ơn đức tổ tông. Khi ta mới đầu thai còn nhỏ, nhờ cha mẹ bồng ẵm, chị anh dìu dắt; chẳng điều chi lầm lỗi sai ngoa. Đến lớn khôn, vào cuộc Làng, từ chức nhỏ đến chức lớn, hằng giữ đạo công bình, ngay thẳng. Trên chẳng dua phe chức lớn, dưới không hiếp đáp dân nghèo. Ưa chơi cảnh vật phong thủy Thần Tiên, ưa nói điều nhơn nghĩa lễ nghi, ưa làm điều ngay thẳng, giúp kẻ khốn nàn. Ta hằng lo việc công đức, nhân quả đến sáu mươi dư, vô bịnh nhi chung, hồn phách chẳng đặng siêu thăng, không đầu địa ngục. Như vậy 3, 4 năm mới gặp tri âm của ta là Tam thất giảng thuyết Du thần, dắt ta lên động phủ tầm Tiên học Đạo.Thầy ta là: Lôi Thinh Cứu Khổ - Thái Ất Thiên Tôn, điểm đạo cho ta, cách vài năm ơn nhờ.Ngọc Đế phong làm Thần chưởng nhơn thiện ác, Phục tấu Tư Mạng đại đế ky lục minh tấu Thanh Hư Phủ.Thầy ta truyền phép phi vân tẩu vụ, cho thuốc cửu nhơn giang, đặng hiền lúc ta sanh tiền, đã mấy phep lập công quả, mà chưa đặng khỏi kiếp luân hồi, cho đủ 800 năm rồi mới cao chứng diệu quả.Đến nay, ta nhơn dịp nhà họ Nguyễn là cháu ta, cậy hương hỏa và sức người, giáng cơ năm Quý Sửu, ngày rằm tháng tám (1913).Thuở ta sanh trưởng trong làng nầy, cũng có công nghiệp với làng, đến thác ta cũng đặng làm Thần; không lấy chi làm rõ Đạo luân hồi mà khuyên trừng thiện ác, cho nên ta làm bổn sách này, đặt tên là HIẾU, ĐỄ, LIÊM TIẾT, để mà khuyên kẻ đời sau cầm lòng Hiếu đễ, giữ đạo Cang thường, noi lành chữa dữ; thì có ngày đặng cũng như ta. Rất thay lời khuyến, rất thay báo ứng. Xin người Quân tử đời sau, chớ biếm nhẽ lời hèn thô tục.Vậy có thơ rằng:Trời đất không riêng một lẽ thường,Lành khuyên ác phạt rất chiêu chương.Trái ăn nòi giống vì vung tưới,Nghiệp trả cho mình bởi họa ương.Mai tỉnh tấm lòng sanh lợi tựuHọc theo lời dạy cháu con tường,Chớ đem đen bạc mà khinh dễBáo ứng không sai khắp mọi đường.Bình Thủy ngày rằm tháng tám, Annam (1913)Đinh Công Chánh, tôn thần,Cẩn tự, đốn thủ.Hiếu Để Liêm Tiết-Khuyến Thiện KinhNXB An Hà 1931Đinh Công Chánh83 TrangFile PDF-SCAN

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Một Sức Khỏe Mới PDF (NXB Hàn Thuyên 1941) - Phạm Ngọc Khuê
Người các nước Âu-Mỹ, vì phải lo chu toàn một cuộc tranh sống rất gay-go, trong đó sức khoẻ là một lực-lượng quan hệ ngang với học-vấn và trí-khôn nên rất chăm-chú đến những phương-pháp khoa học – và ngoại khoa nữa – đề luyện-tập cho bắp thịt được cứng rắn, cơ-thể được kiện-toàn, và cho bộ thần kinh - nhất là bộ thần-kinh - được vững vàng đanh thép.Một Sức Khỏe MớiNXB Hàn Thuyên 1941Phạm Ngọc Khuê92 TrangFile PDF-SCAN
Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Ta PDF (NXB Long Quang 1929) - Ngô Văn Triện
Thời kỳ đầu mới giành được độc lập tự chủ, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng, các đồng bằng nhỏ ven biển Bắc Trung Bộ. Sông Gianh là cực nam của đất nước. Sau các cuộc chiến tranh với Chăm Pa, nước Đại Việt dần bắt đầu mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỷ 15, người Việt đã định cư đến khu vực Phú Yên hiện nay. Vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ của mình về phía Nam. Việc đặt dinh Trấn Biên vào năm 1689 là dấu mốc quan trọng trong việc định cư của người Việt tại Nam Bộ.Trúc Khuê Thư Cục Tùng ThưLịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc TaNXB Long Quang 1929Ngô Văn Triện40 TrangFile PDF-SCAN
Hán Học Danh Ngôn PDF (NXB Thọ Xuân 1962) - Trần Lê Nhân
Từ vốn chữ Hán khai tâm thuở nhỏ với sự uẩn súc phương Đông tự học lúc trưởng thành, ông tiếp nhận và hòa nhập với sự trong sáng trí tuệ văn minh phương Tây thông ... Thi sỹ Tản Đà đã cảm thu, tiễn thu như vậy khiến Trần Lê Văn ngay khi học vỡ lòng đã mơ hồ cảm nhận cái phù du của đời người!Hán Học Danh NgônNXB Thọ Xuân 1962Trần Lê Nhân131 TrangFile PDF-SCAN
Hán Văn Qui Tắc PDF (NXB Trương Phát 1941) - Nguyễn Di Luân
Chữ Nho (chữ Hán) là thứ chữ đã thông dụng ở nước ta từ mấy ngàn năm đến nay, nó đã giúp cho ta được nhiều ích lợi về mọi phương diện của xã hội Việt-nam ta. Từ khi ta chưa có chữ quốc ngữ thì chữ Nho là thứ chữ thông dụng của nước nhà mà người Việt-Nam ta không ai là không học chữ nho, Chữ Nho là thứ chữ của Á Đông, tuy lối viết và cách đọc có khác nhưng bản pháp và văn thể thì cũng giống như các thứ chữ của Âu tây. Thế mà từ xưa đến nay, cả người Tầu và người Nam ta ai cũng đồng thanh cho là học chữ các nước thì dễ mà học chữ Nho thì khó. Bất cứ là học chữ nước nào, chỉ học ba bốn năm thì đã khá, mà học đến sáu bẩy năm thì phải giỏi.Hán Văn Qui TắcNXB Trương Phát 1941Nguyễn Di Luân106 TrangFile PDF-SCAN