Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Với Châu Âu

Cuốn sách viết về hành trình trải nghiệm của tác giả qua nhiều vùng miền của lục địa Âu châu. Nhưng bạn đọc sẽ không tìm thấy những bốc đồng, ồn ào thưởng thấy ở những cuộc du ký. Dù ở những miền đất nồng nhiệt, sôi động nhất vẫn bao phủ một màu sắc trong sáng và cảm xúc mỏng manh. Bị cuốn hút cho đến trang cuối cùng của cuốn sách, lúc này bạn sẽ nhận ra: thì ra chỉ cần có tình, nơi đâu cũng là xứ sở thần tiên. Như một khúc nhạc của miền đồng quê châu Âu yên tĩnh, những bỡ ngỡ như đứa trẻ học vỡ lòng khi được đắm chìm giữa những cung đường văn hóa châu Âu, “Hẹn hò với Châu Âu” của Bùi Mai Hương tái hiện một hành trình tình yêu khôn nguôi, những thổn trước trước cái hay cái đẹp và thôi thúc người đọc được khao khát đi để trải nghiệm. “Hẹn hò với Châu Âu” là cuốn sách mà bất kỳ ai thích “xê dịch” không nên bỏ qua. Những trải nghiệm chân thành, trong sáng và đầy hân hoan của tác giả sống động đến mức khiến bạn có cảm giác như chính mình đang đi du lịch giữa châu Âu vậy. Đặc biệt, cuốn sách là khối kiến thức thú vị về cuộc sống, con người, phong tục, tập quán của những vùng miền tác giả đi qua giúp bạn mở mang tầm hiểu biết của mình. *** Về tác giả: Bùi Mai Hương sinh năm 1978 tại Hà Nội, năm 27 tuổi bắt đầu làm nghiên cứu sinh tại Đại học Innsbruck, Cồng hòa Áo. Phần lớn những hành trình trong cuốn sách được thực hiện trong thời gian này. Hiện tại chị đang là giảng viên bộ môn Kỹ thuật dệt may, Khoa Cơ Khí, Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh. *** LỜI TỰA CỦA TÁC GIẢ Trong khoảng 5 năm của tuổi trẻ, do đi du học nên tôi đã rong ruổi ở châu Âu và một số nước khác khá nhiều. Có nơi ở vài ngày, vài tuần, có nơi tới tận vài năm. Vì chưa bao giờ xác định sẽ định cư ở nước ngoài nên đi đâu tôi cũng cảm thấy quá thiếu hụt thời gian. Lúc nào trong đầu tôi cũng có tư tưởng phải đi cho bằng hết, khám phá cho bằng hết, sợ rằng sẽ không có dịp nào quay lại. Thời gian ấy , tôi thiếu ngủ trầm trọng bởi ngay cả trong mùa đông tuyết rơi mịt mù, khoảng sáu giờ sáng tôi đã dậy, chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để ra phố lang thang khi thành phố còn say ngủ. Tối muộn lại thì thầm cà phê hoặc đi dạo với bạn bè trên những con phố vắng. Khi về nước, sợ sẽ quên hết, tôi ghi chép lại tất cả rồi đăng lên blog của mình. Thật bất ngờ những người bạn quen và chưa quen đã đọc, chia sẻ với tôi bằng những cảm nhận sâu sắc, chân thành nhất. Điều đó càng thúc đẩy tôi cố gắng viết khi cảm xúc còn vẹn nguyên sau mỗi chuyến đi. Vài năm sau khi cuộc sống của tôi sang trang mới với những bận rộn gia đình, công việc, tôi đọc lại những trang viết của mình và ngỡ ngàng nhận ra điều mình lo sợ ngày xưa là đúng: tôi đã quên đi khá nhiều. Tôi thầm cảm ơn những người bạn ngày trước đã thúc giục tôi viết để giờ đây tôi có dịp hồi tưởng lại những trải nghiệm xưa trên những cung bậc cảm xúc mới. Tôi quyết định tập hợp những bản thảo rời rạc của mình lại thành cuốn sách này để lưu giữ cho tôi, cho người thân, bạn bè, cho cả những ai mang trong mình giấc mơ được trải nghiệm trên nhiều vùng đất và nhiều nền văn hóa khác nhau. Trang viết của tôi có thể không có những cảm xúc tươi mới, cuồng nhiệt như tuổi đôi mươi nhưng chắc chắn là có rất nhiều chiêm nghiệm, rất nhiều bâng khuâng hoài niệm và những tình cảm mà khi ở một sự trưởng thành nhất định, người ta mới có thể hiểu. Khi ngồi sắp xếp lại du ký của mình, tôi chợt nhận ra tất cả những chuyến đi thực hiện khi tôi đang… không yêu ai cả. Đó có thể là cái rủi của tôi khi không được chia sẻ những trải nghiệm tuyệt vời của cuộc sống bên người mình yêu thương, nhưng đó cũng có thể là cái may bởi khi cất tình riêng sang một bên, cảm nhận của tôi đã dành trọn vẹn cho mảnh đất dưới chân mình. Tôi có thời gian ngó nghiêng xem xét từng ngóc ngách mà không cần lên một kế hoạch cụ thể nào, tôi có những phút cô đơn để tư lự bên những góc nhỏ của nơi mà tôi đến, tôi có thể phiêu với những người bạn mới quen và tôi cũng có tâm trạng để nhìn ngắm người ta tay trong tay, để mỉm cười khi gặp biết bao mối tình hạnh phúc trên những nẻo đường tôi qua. Vì chưa dành tình riêng cho ai mà trái tim tôi còn chỗ để phải lòng những miền đất mới. Những miền đất ấy cũng trả lại cho tôi đầy đủ những cung bậc mà tình yêu có thể: có niềm hạnh phúc vô bờ khi được chạm đến những huyền thoại văn hóa, lịch sử, có nỗi chua xót trước những số phận cơ cực và đổi thay của nhân thế, có những phút giây dường như chỉ còn ta với ta bên những dòng sông trong xanh thơ mộng đang lững lờ trôi. Chính vì những lý do đó mà tôi muốn kể lại câu chuyện của mình như ghi lại cho tôi và cho bạn một thứ tình cảm luôn in sâu trong trái tim những kẻ lữ hành trên những cung đường đầy cảm xúc thứ tình mà khi cho đi, ta nhận lại về kỷ niệm, để mỗi khi nhìn lại, ta thầm cảm ơn số phận đã trao cho ta những phút giây quý báu ấy. Cảm ơn bố mẹ đã cho tôi ước mơ, cảm ơn các con đã cho tôi động lực để viết và cảm ơn các bạn, những người sẽ cùng tôi đi lại những nẻo đường tình yêu trong cuốn sách này. Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị biên tập viên báo Sành Điệu, đặc biệt là chị Thu Ngần, những người đầu tiên đã hết lòng động viên tôi dấn thân vào con đường trải lòng với những con chữ. Hà Nội và Sài Gòn, mùa mưa năm 2013 Bùi Mai Hương *** CAIRO - NỖI THƯƠNG NHỚ KHÔN NGUÔI Sóng biển Alexandria Cairo là nơi luôn để lại ấn tượng mạnh mẽ, sâu đậm nhất trong tôi, vừa thương nhớ vô vàn vừa hờn giận trách cứ. Cũng chính Cairo thôi thúc tôi viết ký sự đầu tiên, bởi tôi biết rằng nếu không viết lại, tôi sẽ nợ tôi, nợ Cairo, nợ gia đình bạn bè mình. Cairo không phải là nơi đầu tiên tôi đến, tôi cũng chỉ ở Cairo vỏn vẹn tám ngày nhưng tôi chọn Cairo để mở đầu cho hành trình tình yêu của mình, bởi đây là mảnh đất đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc hỗn độn và thăng hoa nhất, mảnh đất khiến tôi phải thức mấy đêm trong cái lạnh mùa tuyết tan châu Âu để ghi chép lại cẩn thận từng chữ một về nó. Khi viết xong, tôi tưởng mình đã kiệt sức bởi ăm ắp những sự kiện, những cung bậc cảm xúc khiến tâm trí tôi xáo động vô cùng. Trước khi khởi hành đến Cairo, Mohammad –người bạn thân gốc Palestine và Anne – người gắn bó với tôi trong rất nhiều chuyến đi đã khẳng định chắc chắn rằng: “Em sẽ yêu Cairo lắm cho mà xem”. Tôi đã bướng bỉnh không tin. Thậm chí, nhiều lúc quá căng thẳng mệt mỏi, tôi đã nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ quay lại Cairo nữa. Tôi đã lầm. Với tôi, tám ngày ở Cairo là tám ngày đáng nhớ với rất nhiều sự kiện, rất nhiều cảm xúc, lúc yêu lúc ghét, lúc thư giãn, xúc động tột cùng, lúc căng thẳng, lo lắng đến hoảng sợ, lúc cười giòn tan bên sa mạc hoang cát, lúc ngậm ngùi trước nỗi khổ cực của con người. Và cuối cùng, thì ra có cả những lúc rơi lệ vì giờ phút chia xa. Cảm nhận của tôi về Cairo sẽ không giống như người anh mới quen đã sống sáu năm nơi đất này, không giống như Anne - người quay trở lại Cairo lần thứ hai với tất cả sự háo hức và tình yêu có được từ lần đến đầu tiên. Cairo của tôi hiện lên như một giấc mơ đủ để khi tỉnh lại, người ta cười vì hạnh phúc và khóc vì tiếc nuối. Những giấc mơ ở Cairo Giấc mơ đầu tiên của tôi là về Kim Tự Tháp. Tôi đến Giza huyền thoại lần đầu vào một đêm sa mạc lung linh trong buổi trình diễn có hiệu ứng âm thanh ánh sáng mang tên Light And Sound. Tôi không nhìn rõ Giza lắm từ khoảng cách khá xa, nhưng bầu trời sa mạc trong veo đầy sao cùng những âm thanh hiệu ứng khiến tôi chợt tan vào giấc mơ có tiếng ngựa hí từ ngàn xưa vọng về, tiếng những đoàn người rầm rập, tiếng trở mình mùa lũ của sông Nile để đưa những tảng đá lên đúng vị trí đã định xây thành Kim Tự Tháp. Ánh sáng chiếu lên Kim Tự Tháp mô tả lại công việc xây dựng hàng nghìn năm về trước, hơn hai triệu khối đá nặng cỡ một tấn rưỡi được ghép thành những hình khối chính xác đến chuẩn mực. Tôi vừa xem vừa nhớ bài học của thầy Sắn, thầy giáo dạy hình học nổi tiếng trường Bách Khoa khi xưa, người gợi cho tôi giấc mơ Ai Cập từ gần mười năm trước. Thầy nói với lũ học trò chúng tôi rằng: “Các đỉnh của Kim Tự Tháp nối thẳng với những chòm sao”. Qua nghìn năm vận đổi nhưng sao chẳng dời, vị trí những vì sao lấp lánh trên cao kia chắc không hề thay đổi, cuộc sống thì đã có bao biến động. Đêm ấy, quanh tôi khá đông người nhưng bầu trời đêm sa mạc cao rộng và gió cát bao la khiến tôi cảm thấy mình quá nhỏ bé trước thiên nhiên và lịch sử. Tấm áo khoác mỏng manh không đủ để che chở tôi khỏi run lên trước cảm xúc của chính mình. Tối hôm đó, tôi thực sự đắm chìm trong không gian nguyên sơ ấy một cách ngây thơ và mộng cảm nhất. Mấy ngày sau, tôi trở lại Kim Tự Tháp vào buổi chiều. Tôi còn nhớ rõ khi ấy tôi đã sững sờ thế nào. Trong ánh tà dương, nắng thong thả rót xuống đỉnh hình khối sừng sững và uy nghi ấy như đang múa vũ điệu lộng lẫy mà tĩnh lặng. Tượng nhân sư huyền thoại, những khối đá to lớn với đầy bề dày lịch sử khiến tôi choáng ngợp. Khả năng và sức sáng tạo của một nền văn minh cổ đại huy hoàng thật đáng ngưỡng mộ. Giấc mơ thứ hai của tôi là cưỡi lạc đà trên sa mạc. Dân ở đây thường cưỡi ngựa nhưng du khách thì đa phần cưỡi lạc đà để hiện thực hóa những gì họ từng tưởng tượng. Và tôi cũng không là ngoại lệ. Trước đó tôi đã được dặn dò rất cẩn thận nên cũng hơi lo lắng, nhưng cảm giác đó tan biến ngay lập tức khi tôi ngồi lên lưng một con lạc đà cao cỡ hai mét có điệu đi đu đưa giật nhịp rất đặc trưng. Nhận ra là tôi không sợ nên chỉ một lúc sau, ông chủ con lạc đà đã đưa cho tôi cầm cương nó. Do không biết đường đến Kim Tự Tháp nên cả quãng đường chinh phục sa mạc của tôi gắn liền với tiếng nhắc nhở: “Dear Mai, right, left, right, left” (Mai, đi trái, phải, trái, phải) của ông chủ lạc đà, tôi thì luống cuống giật dây miệng hét liên tục: “left, right...” (tên tôi ở Ai Cập là Mai vì không một người Ả Rập nào gọi được cái tên Hương trúc trắc của tôi cả). Suốt quãng đường chỉ có một “tai nạn” nho nhỏ, con gái muôn đời vẫn là con gái. Nửa chừng thấy tóc tai rối bời vì gió cát, tôi buông dây cương để buộc tóc, nhân cơ hội chú lạc đà bướng bỉnh tận hưởng tự do, quay tít mấy vòng và còn định lấy đà phi nhanh. May mà ngọn roi của ông chủ đã ghìm nó lại. Hú vía! Một giấc mơ nữa của tôi trên đất nước này cũng đã được thực hiện, đó là chạm tay vào làn nước biển của thủ phủ nơi có huyền thoại bất tử về Alexander Đại Đế. Chuyến đi Alexandria ngắn ngủi sau nhiều lần lỗi hẹn, nhưng bù lại, tôi được chiêm ngưỡng một buổi bình minh không thể quên với những ngôi nhà, những con thuyền soi bóng trên mặt nước. Chúng tĩnh lặng đến nỗi dù lướt đi mà dường như không chuyển động. Pháo đài cổ đại thấp thoáng phía xa khiến khung cảnh càng đẫm chất sử thi. Tôi cũng đặt chân đến thư viện Alexandria nổi tiếng nhất thế giới. Dù dấu tích của thư viện cổ không còn gì nhưng kiến trúc thư viện mới rất đẹp và quy củ. Bên trong thư viện, những cô gái đạo Hồi trùm khăn kín mít ngồi đọc sách và lướt internet. Bên ngoài, em nhỏ ngây ngô chưa biết ngại ngùng tránh ống kính máy ảnh mang lại cho tôi những nụ cười hồn nhiên nhất. Kỉ niệm đáng nhớ nhất của tôi ở đây là khi chuẩn bị chụp ảnh với bức tượng Alexander Đại Đế (Alexander the Great) thì cô bạn Anne của tôi dí dỏm trêu chọc: “Alexander the Great… and Huong the small” (Alexander vĩ đại và Hương nhỏ bé). Ở Cairo, những giấc mơ có từ thời thơ ấu của tôi dường như được kéo dài vô tận. Chúng tiếp nối nhau như thể một ngày nào đó sẽ đưa tôi tới các vì sao từ đỉnh của Kim Tự Tháp. Tình cảm tôi dành cho mảnh đất này không chỉ bắt nguồn từ những huyền thoại được truyền tụng mà còn từ những căn nhà lụp xụp, xác xơ ngay gần Kim Tự Tháp, những góc phố bụi bặm, những con số kỳ quặc mà mất mấy ngày tôi mới học thuộc được, những ngọn đèn đường xiêu vẹo đổ nát trong đêm, đẹp như một khoảnh khắc thời gian, những ánh mắt châu Phi ám ảnh nét cổ xưa và cả những đêm mất ngủ triền miên. Đằng sau những giấc mơ Tám ngày ở Cairo là tám ngày tôi sống với ngập tràn cảm xúc. Thành phố này hấp dẫn như một tình yêu thời thơ bé, không để tôi tĩnh tại với một cảm xúc nào quá lâu. Tôi chưa kịp hết kinh ngạc với dấu tích của một nền văn minh cổ đại phát triển rực rỡ thì đã ngơ ngác khi so sánh với sự hỗn độn, nghèo nàn của Ai Cập hiện tại. Tôi chưa hết choáng ngợp vì sự giàu sang tột cùng của khu trung tâm thành phố thì đã phải nghẹn lòng trước những mảnh đời cơ cực quá sức tưởng tượng. Tôi chưa kịp sung sướng với một món đồ lưu niệm đẹp đẽ mới mua được thì đã phải bực bội vì biết mình bị hớ với cái giá gấp đôi, gấp ba. Và khi tôi chưa kịp hân hoan với bức ảnh chụp cảng biển Alexandria thì đã hoảng hốt vì đợt tắc đường kéo dài hàng tiếng đồng hồ làm lỡ chuyến tàu quay lại Cairo. Nếu chỉ ở khách sạn sang trọng và khám phá sông Nile bằng thuyền du lịch năm sao, tôi chắc đã thấy một Cairo rực rỡ sắc màu mà không biết rằng, ngoài kia, em bé đánh giày bên bờ sông Nile đang lần mò trong đêm trên những vỉa hè đầy khách du lịch, những khu nhà ổ chuột thiếu điện, thiếu nước, những niềm tự hào đang chìm vào quá khứ dưới bóng của những chứng tích bị xói mòn bởi thời gian... Sau ba ngày, tôi đã không uống suất nước cam buổi sáng của tôi nữa mà cố tình để lại trên bàn. Hôm trước, tôi vô tình nhìn thấy người phục vụ nam lặng lẽ cúi đầu uống chỗ nước cam còn thừa lại của tôi. Anne tóc vàng cao lớn và tôi - cô gái châu Á bé nhỏ với lỉnh kỉnh đồ đạc trong đó có cả máy ảnh đã vô tình được xếp vào hàng khách du lịch giàu có. Và thế là chúng tôi được các chàng trai tán tỉnh mọi chỗ để mời chào mua hàng và vòi tiền. Không ít lần tôi muốn than trời vì bị quấy rầy. Tôi quá mệt mỏi khi mỗi lần ra đường là mỗi lần chiến đấu với các cuộc mặc cả taxi mà tôi luôn luôn là người thua cuộc. Nhưng rồi, tôi lại động lòng. Tôi thấy mình có phần “nhẫn tâm” khi biết rằng “cuộc chiến” của tôi với ông lái taxi già chỉ đáng giá mười euro cent - số tiền không đủ để tôi mua bất cứ thứ gì ở Áo, nơi tôi sống lúc đó. Cairo cứ thế len lỏi vào trong trái tim rối bời cảm xúc của tôi. Những đôi mắt phụ nữ ám ảnh luôn theo tôi trên mọi ngõ ngách, theo tôi cả vào những giấc mơ. Lần đầu đến đây, tôi cứ thắc mắc: ở đâu cũng thấy bán váy ngắn mà không hiểu bán cho ai khi các cô gái ra đường đều kín bưng trong những tấm khăn choàng Hồi giáo rộng thùng thình. Để ý kỹ tôi mới biết họ mặc váy ngắn với quần jean hoặc quần dài bên trong. Trên cơ thể họ, thứ duy nhất họ có thể khoe ra là đôi mắt nên chúng thường được trang điểm rất kỹ và ấn tượng. Lúc ấy tôi mới hiểu tại sao trước đó và mãi về sau nữa, tôi luôn nhớ đến Cairo trước tiên là hình ảnh những đôi mắt ấn tượng ấy. Chúng vừa hoang dại, vừa bí ẩn lại đầy khát vọng. Tôi tôn trọng mọi tôn giáo, phong tục nhưng trong lòng luôn cảm thấy gợn buồn khi nhìn những người phụ nữ trong bộ đồ đen bịt bùng ấy. Với tôi, vẻ đẹp cơ thể của phụ nữ luôn là tài sản của tạo hóa, không phải là của riêng ai. Tuy nhiên ở một đất nước mà cứ đến giờ cầu nguyện là tiếng loa lại vang khắp nơi giục giã hàng ngàn người cúi rạp đầu, bất kể lúc nào bật TV cũng thấy các giáo chủ cầu nguyện thì tôn giáo mới chính là thước đo của cái đẹp. Thế mới biết cuộc sống thật bao la. Khách sạn cũng là một vấn đề đáng phải lưu tâm ở Cairo. Trước khi đến đây, tôi không thể đặt được khách sạn trực tuyến vì không tìm đâu ra hostel hay khách sạn ba sao. Không hiểu vì lý do gì mà ở Cairo chỉ toàn các resort bốn đến năm sao. Suy đi tính lại, tôi đành phải nhờ một người bạn sống ở Cairo đặt giúp phòng trong một nhà nghỉ ọp ẹp. Cái thang máy cơ trong nhà nghỉ này long ra như xương cốt người già, nhìn rõ cả xích và ròng rọc. Phòng tắm có bình nước nóng dùng gas to đùng như quả bom và vô vàn muỗi đêm vo ve. Khách sạn ở Alexandria cũng chẳng khá hơn ở Cairo bao nhiêu với cánh cửa chỉ có thể chốt từ bên ngoài khiến tôi cả đêm thấp thỏm, dù cuối cùng mọi thứ khá ổn. Tôi vô cùng hoang mang về “quyền làm việc hay xuất hiện ở nơi công cộng” của phụ nữ nơi đây khi tiếp tân, phục vụ phòng, đầu bếp đều là nam giới. Đến bán hàng ở chợ cũng hầu như toàn là đàn ông. Tìm đỏ mắt, cuối cùng tôi cũng gặp được một người phụ nữ hiếm hoi mặc đồ Âu, làm việc ở trung tâm nghiên cứu quốc gia Cairo, nơi tôi đến tham dự hội thảo. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được rằng xã hội Cairo cũng chia làm nhiều tầng lớp, có tầng lớp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa châu Âu và đa phần còn lại giữ nguyên nề nếp của một quốc gia Hồi giáo khắt khe. Một vấn đề khác làm tôi bối rối là hệ thống giao thông chằng chịt và hỗn độn ở đây. Là người Việt Nam, quen với hệ thống giao thông nhiều bất cập vậy mà tôi cũng phải tái mặt mỗi khi sang đường ở Cairo. Mỗi lần xuống đường ở Cairo là một thử thách. Tôi thậm chí không biết phải theo chỉ dẫn của ai vì không thể phân biệt nổi công an, cảnh sát giao thông hay trật tự. Sau này tôi mới biết ở đây có đến hơn hai mươi lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ điều khiển giao thông trong nội thành. Tuy khá mệt mỏi nhưng hơn ai hết tôi biết rằng, đó là một đặc điểm rất riêng của Cairo, sự quyến rũ khác biệt của thành phố nghìn năm này. Phải chăng vì Cairo không dành cho bạn quyền được buồn tẻ? Vậy nên khi ở Cairo, hãy xác định bạn lúc nào cũng ở trong tình trạng mọi việc đều có thể xảy ra nhé. Tuy nhiên, vấn đề an ninh ở Cairo làm tôi khá thích thú và ấn tượng. Dù tôi mang theo nhiều đồ đạc cầm tay nhưng chưa bao giờ cảm thấy lo lắng. Chuyện ăn cắp, cướp giật dường như quá hiếm ở quốc gia đạo Hồi này. Nghe nói đó là một tội nặng đến mức có thể bị bêu riếu công khai hoặc chặt tay. Cuộc sống đời thường ở Cairo Người ta vẫn nói muốn hiểu cuộc sống ở một thành phố thì hãy đến chợ. Ở Cairo, chợ nổi tiếng nhất là Khan Khalili. Chợ này bán nhiều đồ trang sức lóng lánh, lương thực, vải vóc, quần áo và nhiều thứ khác nữa. Bông Ai Cập bày bán khắp nơi. Các cửa hàng gia vị có đủ thứ gia vị, thậm chí có cả những thứ tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Khác với nơi khác, tất cả gia vị ở đây đều đựng trong những thùng gỗ nho nhỏ. Cũng ở khu chợ này, lần đầu tiên tôi mua được vanilla khô, mùi thơm đậm đà, mặc dù từ bé đã ăn biết bao món có mùi vani. Ở đây, tôi lại bắt gặp nhiều ánh mắt ám ảnh của những người phụ nữ bán bánh, một bóng lưng còng của cụ già chở hàng, một cái nhìn tựa cửa của hai người đàn bà sống nơi ngõ nhỏ. Tất cả họ đều có gương mặt buồn bã, khắc khổ, hiếm khi thấy những nụ cười. Chúng tôi hẹn nhau ở quán cà phê El Fishawy – cái quán trứ danh đã hơn hai trăm năm tuổi của Cairo. Nghe tiểu sử vẻ vang là thế mà El Fishawy chỉ nằm lọt trong ngoằn ngoèo ngõ phố chằng chịt của khu chợ này. Đây cũng là lần đầu tiên tôi uống trà đen có thả vài lá bạc hà tươi và thử shisha. Cảm giác ngồi ở El Fishawy thật thú vị. Một chút tĩnh lặng giữa sôi động, một chút cũ kỹ, một chút nhếch nhác. Tất cả đều tỏa ra thứ cảm giác gần gũi khó tả. Sự thích thú lạ lẫm này khiến tôi “cả gan” để một người phụ nữ xa lạ vẽ hoa văn henna lên tay mình dù tôi chưa bao giờ thích xăm hình hay những thứ đại loại thế. Hình vẽ này như để tôi lưu lại một dấu ấn nhỏ của Cairo đa sắc màu trên cơ thể mình. Cairo làm tôi tò mò đến mức, dù có chút e ngại, tôi vẫn cùng mấy người bạn lang thang Cairo về đêm. Trong đêm, nhiều cảm giác được dung hòa khiến tôi thấy mình như cô gái nhỏ lang thang giữa sa mạc để hưởng thụ tự do một cách tuyệt đối nhất. Cairo với tôi là thành phố không ngủ. Suốt thời gian ở Cairo, mỗi ngày tôi chỉ ngủ khoảng bốn tiếng. Những đêm đầu là do tôi không quen với tiếng động ồn ã và muỗi, đêm sau nữa là do Anne và Yahya, một anh bạn của Mohammed, thuyết phục tôi đi chơi để thấy một Cairo khác, và đêm cuối thì tôi chính là người đòi được đi lang thang vòng quanh Cairo bằng được. Tôi và Anne đã được chứng kiến “Cairo by night” (Cairo về đêm) khi theo Yahya đến một quán vỉa hè trong một ngõ nhỏ ngoắt ngoéo. Ở đây mỗi khách đến phải tự kéo ghế nhựa ra ngồi như giống như ở Việt Nam. Cái quán nhìn đơn giản vô cùng nhưng trà pha rất đậm vị và âm nhạc thì dù không hiểu tiếng, tôi vẫn tin lời Mohammad nói: “Anh đã được sinh ra từ bài hát ấy”. Rồi Yahya đưa chúng tôi đi tiếp tới một quán bia xập xệ khác nằm ở cuối phố để thưởng thức vị bia Stella đặc trưng. Vị Stella này chỉ duy nhất Ai Cập mới có. Rời khỏi quán bia, chúng tôi tiếp tục ghé vào một quán bar đêm dưới tầng hầm một căn nhà cổ. Ngay khi Yahya bước vào, từ chủ quán đến nhân viên phục vụ và các cô gái múa bụng đều đồng thanh hô tên anh. Là bạn anh, chúng tôi được đón tiếp như khách ruột. Ngay đến bây giờ khi đã rời xa Cairo một thời gian rất dài, mỗi khi một điệu nhạc Ả Rập nổi lên, tôi lại nhớ cái dáng cao gầy lòng khòng của Yahya dậm chân xoay theo tiếng nhạc với ánh mắt say mê ngút lửa đắm đuối nhìn các cô gái múa bụng đang hòa nhịp cùng anh. Họ thật gần mà thật xa. Tôi nghe nói có một quy tắc là dù có gần đến mấy, hai vũ công cũng không được chạm vào nhau. Có lẽ giới hạn mong manh mà thiêng liêng này làm điệu nhảy trở nên vô cùng bí ẩn và quyến rũ. Cairo không của Kim Tự Tháp và lạc đà là thế đấy! Tôi vừa sợ sệt không dám đến gần, vừa tò mò muốn hòa vào dòng chảy phức tạp của cuộc sống dường như vận hành theo những quy luật ngầm khó hiểu nơi đây. Tôi vừa giận những phiền phức mà cái hệ thống không ổn định của thành phố ấy mang lại, vừa thương cái giàu nghèo pha trộn thật thà hiển hiện khắp nơi trên đất Cairo. Những nẻo đường kết bạn Trước khi đặt chân đến sân bay Cairo, tôi và Anne chưa từng quen biết một ai ở đây ngoài vài thông tin ngắn ngủi của Mohammed. Tôi không thể tưởng tượng rằng ở Cairo, mình lại được ăn cơm với hơn hai mươi người Brazil - đồng hương của Anne và uống cà phê cũng với chừng ấy anh em bạn bè Việt Nam của tôi. Đúng là mọi chuyện đều có thể xảy ra ở Cairo! Suốt thời gian ở đây, tôi được sống trong sự quan tâm chu đáo của cả những người mới quen và không quen, được nói tiếng Việt nhiều chưa từng thấy trong ba năm xa xứ với những câu chuyện thú vị bất tận, những cuộc điện thoại tưởng chừng không thể dứt. Anne cũng thế. Tình cờ trong một lần ngồi uống cà phê, nghe thấy bên cạnh vang lên tiếng Bồ Đào Nha giọng Brazil, Anne sung sướng đứng bật dậy đến chào hai người phụ nữ gần đó và thế là câu chuyện nối dài không dứt. Một người là phu nhân đại sứ, một người lấy chồng Ai Cập. Điều đầu tiên mà cả hai muốn nói và thuyết phục chúng tôi, đó là tình yêu Cairo trong họ cũng có thể trong trái tim nhiều người khác, trong đó nhất định có chúng tôi: “You should see it as it is,then you will love it” (Hãy nhìn Cairo như nó vốn thế rồi em sẽ yêu thành phố này). Không ngần ngại, chúng tôi đến thăm nhà họ trong một khu chung cư yên tĩnh và trong lành, khác hẳn không khí Cairo ồn ã ngoài kia. Chúng tôi nghe họ giới thiệu về một góc khác, yên bình và khuất nẻo của Cairo, nghe họ kể về những sáng thong dong cưỡi ngựa ngắm bình minh sa mạc và họ đãi chúng tôi ăn bữa cơm vội vàng nhưng thú vị với những món ăn Brazil. Anne hào hứng đến nỗi không ngớt lời giới thiệu cho tôi về các món ăn với ánh mắt xanh biếc lấp lánh mà lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy ở chị. Cả Yahya cũng vậy! Suy cho cùng, anh chỉ là bạn của Mohammad - bạn của tôi, nhưng anh đã giới thiệu Cairo của anh cho tôi với những tình cảm thân thương và trìu mến nhất. Chưa kể còn bao nhiêu cái tên mới quen mà tôi chưa kịp thuộc. Có thể vì thế, cả tôi và Anne đã khóc khi rời Cairo phút cuối - điều mà cuộc sống bận rộn với mật độ hai tháng lên máy bay đi xa một lần khiến chúng tôi ngỡ rằng mình đã chai sạn, rằng không còn chỗ cho những giọt nước mắt khi chia tay. Cairo đã trả lại cho chúng tôi những cảm xúc của cuộc sống, cảm xúc của tình người. Chúng tôi mang món nợ tình cảm với Cairo. Mohammad gọi tôi quay trở lại với công việc ở Áo. Sau khi nghe tôi huyên thuyên một hồi về những kỷ niệm “tích lũy” sau tám ngày, anh bảo tôi: “Now, you are back to your reality” (Giờ thì em quay lại với hiện thực nhé). Có thể anh nói đúng, tôi phải chia tay giấc mơ Cairo để trở về với cuộc sống thực tại của mình nhưng tôi biết mình đã, đang và sẽ nhớ Cairo, dù dấu vẽ henna trên tay tôi đã mờ chỉ sau vài ngày và cuộc sống lại rồi sẽ đưa tôi đến với những hành trình mới mẻ khác. Tôi luôn biết rằng, mình còn lỡ hẹn với Cairo nhiều lắm, còn bao nơi chưa ghé thăm, còn bao dự định vẫn dang dở, còn bao điều muốn nói. Nhưng thôi, như tôi tự an ủi mình, sự thiếu sót sẽ làm nên cái đủ đầy. Những vết khuyết trên hành trình đó sẽ khiến nỗi nhớ Cairo của tôi trở nên trọn vẹn hơn. Cho đến giờ, sau nhiều năm xa cách, nếu hỏi vì sao tôi yêu quý Cairo, tôi cam đoan rằng mình sẽ không trả lời hết được. Tình cảm đó là sự pha trộn của Cairo văn hóa và huyền bí, của Cairo bụi bặm hỗn độn và thử thách, của những điệu nhạc say đắm, bùng lên vỡ òa sau bao ẩn ức và dồn nén, của những tình cảm xây đắp trên hành trình mang tên Cairo của tôi.   Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Với Châu Âu của tác giả Bùi Mai Hương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồi Ký Người Vợ Á (Dựa Trên Câu Chuyên Có Thật Về Một Nàng Dâu Việt Ở Trời Tây)
“Tám năm trước, tôi đã đọc một lèo “đứa con đầu lòng” Ngày hôm qua của Ngọa Lan và cho ngay lời bình vào ngày hôm sau. Khác với lần trước, lần này nhận được bản thảo đứa con tinh thần thứ hai của em, tôi lại cho phép mình đọc một cách chậm rãi và có những đoạn đọc đi đọc lại để ngấm hơn những giá trị của nó. Tôi đã trải qua những cảm xúc ấy của em nên đồng cảm sâu sắc, nhất là những năm tháng ở nước ngoài xa quê hương. Nếu Ngày hôm qua của Ngọa Lan ví như một cô gái tuổi mới lớn đang vào kỳ yêu đương lãng mạn thì Hồi ký người vợ Á là tâm sự của một người đàn bà trưởng thành, trải nghiệm trong tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc đan xen, giằng xé nội tâm, phấn đấu cho hạnh phúc và thành công. Lối viết của Ngọa Lan phóng khoáng, tự trào đầy cảm xúc, xen một chút ma mị càng lôi cuốn. Đam mê viết lách của tác giả Ngọa Lan còn tràn đầy, tôi cảm nhận được tâm huyết cháy bỏng từ em. Những câu chuyện trong Hồi ký người vợ Á cũng mang nhiều bài học về giá trị nhân văn mà em muốn gửi gắm đến độc giả. Và tôi cũng đón chờ được đọc những bản thảo tiếp theo của Ngọa Lan. Hồi ký người vợ Á mới mở ra chuỗi hành trình của tác giả, còn rất nhiều câu chuyện thú vị và đầy giá trị nhân văn ở phía trước…” chia sẽ của Connecting Lady Nguyễn Thu Anh dành cho cuốn sách. “Hồi ký người vợ Á là một cuốn sách chạm đến trái tim người đọc. Cuốn sách truyền cảm hứng cho những ai đã và đang trải qua những giai đoạn đầy thử thách, sóng gió trong cuộc sống, trong tình yêu, giúp họ có nghị lực để cân bằng và sống đẹp, sống đúng với những giá trị mình theo đuổi. Lối kể chuyện thu hút, sáng tạo, xâu chuỗi sự kiện liền mạch, hấp dẫn độc giả từ trang đầu đến những trang cuối cùng của tác phẩm. Nếu đã đọc Ngày hôm qua của Ngọa Lan thì Hồi ký người vợ Á cho thấy sự trưởng thành, từng trải của tác giả, tác phẩm “lớn” hơn rất nhiều so với Ngày hôm qua.” “Đọc Hồi ký người vợ Á có lúc mình bật cười vì cách viết dí dỏm rất đời của tác giả nhưng cũng có lúc u ám, giằng xé tâm can khi chứng kiến người phụ nữ phải lựa chọn giữa con tim và lí trí, để biết cuộc sống này đâu chỉ có một màu hồng. Một cuốn sách đáng đọc!” Trích đoạn sách: Sài Gòn từ lâu đã là Hollywood trong tôi và tôi đã tâm sự điều này không ít lần với Vỹ là nơi trải qua tuổi thanh xuân nhiều tiếng cười và nước mắt. Đó là nơi thượng vàng hạ cám, có cả bài học của sự lọc lừa cho cô gái mới lớn, có cả sự nồng hậu, hào sảng của con người chốn hòn ngọc viễn đông. Vì tôi là con gái sinh ra nơi tỉnh lẻ quê mùa, nên lần đần tiên đặt chân vào Sài Gòn năm mười sáu tuổi, đi ngang qua khúc quanh khách sạn Caravelle, chỗ công trường Lam Sơn, tôi đã òa lên, mắt tròn mắt dẹt, phố thị xa hoa quá, đến bao giờ mình mới được lên trên ấy uống tách cafe nhỉ?”. Cái cảm giác ấy dù sau này đi Đông đi Tây, đứng trước tháp Eiffel hùng vĩ hay quảng trường Thời Đại ở New York, tôi không còn cảm giác choáng ngợp nữa. Sài Gòn có một chỗ đứng quá vững chãi trong tim tôi, nên lần đầu tiên sang Đức thăm Michael, tôi không còn bỡ ngỡ trước sự huy hoàng của trời Âu. Nơi đó quá đẹp nhưng làm sao bằng Sài Gòn của tôi! Và thế là tim tôi đau thắt khi nghĩ đến việc mỉm cười trước bàn thờ tổ tiên để nói lời thề hẹn thủy chung trọn đời với Michael. Bởi lẽ khi thủ tục đăng kí kết hôn hoàn tất thì ngày cưới cũng sẽ cận kề. Tôi run rẩy vì tôi không chắc chắn. Có lẽ nào tôi cũng sẽ đóng vai Julia Robert trong Runaway Bride (Cô dâu chạy trốn). “Chúng ta dừng lại thôi, cũng một thời gian rồi cứ loay hoay hoài, em mệt mỏi quá. Anh không thể bỏ công việc đang lên như diều gặp gió để về đây, em cũng không muốn bỏ nơi thân thương này sang đó”, tôi bày tỏ với Michael, tôi nghĩ rằng mình nên thành thật với anh. Vào giây phút này, tôi nghe lời khuyên của mẹ: “Thà mày bỏ quách Michael đi, để cho nó đau đớn một lần, thì mày còn có đường sống. Chứ tuyệt thực thế này thì có nước chết sớm con à”. Anh ấy lặng người, nhìn tôi bàng hoàng thật lâu, giây phút này tựa một cuốn phim quay chậm cả một thế kỉ, rồi nói trong một âm điệu buồn nhất mà tôi từng nghe: “Anh sẽ không níu kéo, phát ngôn của em chưa bao giờ là thứ nói ra của một cái đầu bồng bột. Anh sẽ về Đức ngay ngày mai. Hãy cho anh ôm em lần cuối”. Đến lượt tôi bàng hoàng, hoang mang tột độ vì câu trả lời của anh quá đơn giản, ngắn gọn. Anh không níu kéo như tôi tưởng tượng, không bắt tôi phải lựa chọn được mất, phải A hay B như những người quây quanh tôi lúc này. Anh cho tôi sự tự do của một cánh chim trời, hay là tình yêu của anh dành cho tôi chưa đủ lớn? Một sự hoài nghi chợt dấy lê trong một não bộ đã quá sức tải của Linh Anh vào thời khắc này. Michael ôm chặt thân hình đang chớm xơ xác, gầy gò của tôi vào lòng, tôi cảm nhận cơ thể vạm vỡ ấy đang nấc lên, lưng áo sau của mình ướt đẫm nước, nóng hổi. Một người đàn ông đang rơi lệ. “Linh Anh, hãy nhớ rằng, tình yêu của anh dành cho em là vĩnh cử”, Michael thì thầm trong tiếng nấc… Tôi hoảng loạn và sợ hã Một vùng kí ức rộng lớn mênh mang chợt ùa về nơi câu chuyện tình yêu đôi lứa bắt đầu! Một bầu trời đầy sao nơi Michael và Linh Anh tán gẫu về chuyện đông tây. Một cú ngã người đầy ẩn ý vào đôi vai chắc nịch trên chuyến xe buýt năm ấy. Một cái nắm tay thật lãng mạn, những nụ hôn đầy hương vị yêu đương sao nỡ lãng quên. Một ánh mắt nồng hậu bà mẹ chồng Đức tương lai nhìn bạn gái của con trai mình trong ngày đầu tiên ra mắt. Hàng tá những lần khóc cười sung sướng khi đón nhau tại sân bay, rồi chia tay nhau về nước. Bao nhiêu mùa Tết anh cầm đũa gắp bánh chưng, giò chả, cụng ly cùng ba mẹ tô Bao lần gây gổ, giận hờn nhau vì hiểu lầm, khác biệt văn hó rồi lại cười xòa bỏ qua cho cái không giống nhau lí thú của đôi bên… Một cuốn phim quay chậm dài dằng dặc, tua lại toàn bộ quãng thời gian ba năm chúng tôi gắn bó. Từ trước đến giờ, tôi chưa từng thấy người đàn ông rơi lệ, giọt nước mắt chân tình ấy như một cú tát thẳng mặt để tôi “tỉnh dậy” và “hãy nhớ nơi ta bắt đầu”. Giọt nước mắt bé nhỏ nhưng có sức nặng của hàng vạn tấn nước ập vào, vặn xoắn, đưa Linh Anh trở về với hàng loạt kí ức xa xăm. Gia đình tôi phi tôn giáo, đôi khi thi thoảng tôi lên chùa chơi cho khuây khỏa cùng bè bạn chứ không phải là Phật tử, cũng không phải là đứa sùng đạ Có lần tôi đọc chữ trong nhà chùa tại trung tâm Tuy Hòa “tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu”, và gần đây là giấc mơ kì lạ, âm thanh “nghiệp chướng” cứ văng vẳng bên tai khiến tôi không sao giải mã và cởi bỏ được. Nhưng giây phút này đây, khi giọt nước mắt chân thành nhỏ vào da thịt mình thì tôi đã dần nhận ra: Tình yêu của tôi dành cho Michael không đơn thuần là tình cảm cá nhân nam – nữ, nó là sự bồi đắp dài lâu, trong đó tình cảm gia đình và dân tộc hai bên như có một tiếng nói rất lớn. Nếu tôi phá vỡ tình cảm ấy, chính tôi đã giết chết bản ngã của chính mình. Tôi phải sửa sai, phải làm lại từ đầu, tất cả bắt đầu từ thời điểm nà khi giọt nước mắt đàn ông tuôn rơi! Chúng tôi hoàn tất thủ tục đăng kí kết hôn sát giờ Michael lên máy bay về Đức. Anh vui mừng như một bác nông dân được mùa. Đôi mắt lấp lánh hạnh phúc, khuôn miệng tươi cười mãi không thôi. Còn tôi, lòng vẫn nặng trĩ vì tôi đã quyết định rời Việt Nam sang Đức đoàn tụ với anh. Một quyết định vô cùng đột ngột, nhưng tôi nghĩ “đây là điều phải làm, nếu còn ở lại thì tôi sẽ bị vùi dập, lặn ngụp trong mớ bòng bong không gỡ được”. Gia đình tôi vui mừng trong sự hoang mang, mẹ tôi nghĩ rằng tôi lấy bừa Michael cho ba mẹ, anh chị em, ông bà họ hàng vui chứ không thực tâm muốn xây dựng tổ ấm với anh ấy. Tôi thì có suy nghĩ của mình, lúc này đây tôi cần yên tĩnh, không thiết ai chạm vào cái thế giới suy tư riêng của mình. Ở Linh Anh, quyết là làm. Sẽ không có “giá như ngày ấy”. Chỉ có điều làm sao để sống hạnh phúc nơi đất khách, lấy lại sự hồn nhiên như ngày nào quả thật không còn dễ dàng nữa…. Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Người Vợ Á (Dựa Trên Câu Chuyên Có Thật Về Một Nàng Dâu Việt Ở Trời Tây) của tác giả Ngọa Lan.
Giữ Gìn 36 Phố Phường
"Có trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống... *** ó trách nhiệm với di tích lịch sử mọi mặt ở các nơi đô hội qua các đời là một phong tục đẹp của một dân tộc có văn hóa và truyền thống. Trên thế giới, hầu như bất cứ thủ đô hoặc thành phố lớn nào nhiều tuổi cũng đều được bảo vệ, trân trọng. Cách Tân Đê-li (Đê-li mới) thủ đô Ấn Độ vài ki-lô-mét là Đê-li cũ, thành cổ Đê-li ngày xưa. Tbi-li-xi, thủ đô nước Gruzia, ở kề bên vẫn nguyên thành cổ Tbi-li-xi phố phường và nhà thờ. Bên trong nhà ở các thành phố chính đã được hiện đại hóa cho thích nghi đời sống hôm nay, nhưng bề ngoài vẫn tầng nhà, màu tường và mặt đường đá tảng từ thời Pie đại đế. Thành phố Vacsava, thủ đô Ba Lan bị phát xít Đức hoàn toàn hủy diệt. Khi xây dựng lại Vacsava, các khu cổ được hồi sinh như trước kia. Kể từ màu gạch đến cái trụ đá trước sân nhà thờ để chống bệnh dịch tả – theo mê tín cũ, cũng được làm lại giống thế. Trải hàng nghìn năm, di tích lịch sử ở Hà Nội tập trung nhất ở hai khu: Khu thành cũ mà ta quen gọi là “trong thành”, kinh đô từ thời Lý và triều đại về sau; và vùng dân cư ở bọc ngoài thành, từ phố Nhà Hỏa đến ngõ Phất Lộc, từ Hàng Khoai sang Cầu Gỗ, tuy không có mốc giới hạn bao giờ, nhưng có một cái tên chung là khu 36 phố phường. 36 phố phường vẫn đứng yên thế, nhưng cũng lại luôn chuyển động theo thời gian và lịch sử mỗi thời kỳ. Nó là một bảo tàng ngoài trời, bảo tàng ở giữa sinh hoạt thành phố, không tách khỏi đời sống – một lưu niệm sâu sắc ý nghĩa giáo dục truyền thống. Hà Nội đã phải trải nhiều biến đổi. Khí hậu nhiệt đới tàn phá các công trình, mà các phường phố dân cư thời ấy thường là nhà đất tranh tre. Vua chúa các triều đại triệt hạ nhau. Hà Nội bị tàn phá nặng nề nhất là đến đời Nguyễn. Dời đô vào Phú Xuân, nhà Nguyễn phá hủy Thăng Long để “tiêu diệt thế đất đế vương ở Bắc Hà”. Nhưng trong nghệ thuật gìn giữ và tôn trọng di tích, trên thế giới và trong nước ta đã có nhiều biện pháp và kinh nghiệm tốt. Kho tàng ca dao, tục ngữ, bài vè, bút kí của các nhà văn thế kỉ trước và đầu thế kỉ này. Một số tranh, ảnh và sách, tư liệu của Pháp khi mới chiếm Hà Nội. Nhiều câu, nhiều đoạn, nhiều tranh ảnh có thể khơi gợi lại được hình thù, cảnh cũ. Lại còn những tài liệu cực quý, ấy là chuyện nhớ lại của các cụ ở Hà Nội thọ bảy tám mươi tuổi trở ra. Khi xây dựng lại khu thành Vacsava cổ, những tư liệu gia đình và mắt thấy tai nghe này rất quan trọng với các nhà chuyên môn. Nhà cửa hồi đầu thế kỉ, các khu vực Hàng Gai, Hàng Bài, Hàng Bạc, các ngõ Trung Yên, Nội Miếu bây giờ, cụ Hoàng Đạo Thúy còn nhớ được cái chuôi vồ đầu tường, hòn ngói âm dương, các kiểu cửa lùa, cửa đẳng, cửa ngăn, cửa bức bàn và cái só luồn bậc cửa. Những dãy nhà một tầng gác xép tầng tầng lớp lớp nhấp nhô sóng mái bây giờ vẫn thế. Đó là những nhà dân thường, người buôn bán, thợ thủ công ở tụ hội lại cả họ, cả phường đã thành tên phố: Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Bát Đàn… Bên những dinh thự và công sở người Pháp xây dựng, nhà cửa khoảng 100 năm trở lại đây còn in rõ cảnh sống thành phố, nhìn nhà, biết tuổi nhà – ở vùng bệnh viện Việt – Xô, nhà khách Bộ Quốc phòng và nhiều phố, trên tường nhà còn thấy đắp nổi con số năm khởi công và năm hoàn thành ngôi nhà. Những hiệu buôn và hàng quán của người Pháp ở Hàng Khay, Hàng Trống, của người Ấn Độ ở Hàng Ngang, của người Trung Quốc ở Hàng Buồm, của người Nhật ở Cửa Đông, của những người Việt Nam giàu có như nhà Trấn Hưng Hàng Bạc, nhà Cửu Nghi và Lê Thuận Kho át Hàng Bồ. Chỉ kể một vài tên làm ví dụ. Những nhà hàng cửa hiệu hiện nay còn, chỉ cần biết bảo quản, chứ không đến nỗi phải làm lại theo chuyện kể hay trí nhớ. Mới đây, trung tu cổng tam quan chùa Thiên Trù trong quần thể chùa Hương Phái nghiên cứu, sử dụng những bức ảnh ngày trước còn lưu trữ ở thư viện Phương Đông tại Paris bên Pháp, khi xây dựng. Khu phố cổ thành phố Plopdip (Bungari) tương tự 36 phố phường của ta, còn giữ được quán ăn và ngôi nhà đồ sộ của một người Do Thái buôn bán lớn đã lâu đời ở đấy, nhà này đi buôn đường Ấn Độ trong phòng trang trí lụa là, chiếu thảm, đồ đạc vùng Trung cận Đông và Nam Á. Ở Hà Nội, nhiều di tích chiến đấu và cách mạng đã được xếp hạng như di tích lịch sử và nghệ thuật, nhưng còn thật nhiều di tích phổ biến mà trong khu 36 phố phường rất sẵn những cái nho nhỏ chỗ nào cũng có ấy tạo nên không khí, và quang cảnh. Đi trong thành phố Vacsava, thấy cứ ở nơi nào có một trận đánh dù nhỏ và chớp nhoáng, nơi nào có chiến sĩ hy sinh trong thời kỳ Vacsava bị phát xít Đức chiếm đóng, đều có tượng nhỏ, phù điêu hoặc gắn biển ghi sự tích. Mỗi bước lại gặp cuộc chiến đấu của nhân dân Ba Lan anh hùng. Ở Béc-lin, bên cạnh tòa nhà Quốc hội mà quân đội Liên Xô đã cắm cờ chiến thắng lên nóc, vẫn như trong chiến tranh và có nhiều khu phố, hai bên nhà dân vẫn ở bình thường, nhưng mặt tường nhà để lởm chởm như bị bom phá, và màu tường quét vôi xám nhạt như ám khói, người đi qua vẫn có cảm tưởng về trận đánh khốc liệt ngay giữa dinh lũy sào huyệt của phát xít ngót nửa thế kỉ đã qua. Những sự việc lịch sử và cách mạng đã xảy ra ở Hà Nội rất phong phú, nhiều mặt. Dấu vết viên đạn trái phá quân Pháp xâm lược bắn thủng tường thành Cửa Bắc. Sử sách còn kể tên những pháp trường Pháp dựng quanh Bờ Hồ để giết hại các nhà yêu nước. Năm 1954, thành phố tìm lại và bốc mộ các chiến sĩ chiến đấu ở Liên khu 1 hy sinh và phải chọn ngay ở nơi vừa ngã xuống. Mỗi nơi ấy ngày nay cần có bia tưởng niệm, để cho những người tìm hiểu khu 36 phố phường không phải chỉ thấy sự tích anh hùng ở chợ Đồng Xuân, mà thật ra phố nào cũng có, có nhiều. Cũng như phải gắn bia lưu niệm chi tiết hơn nữa về các cơ sở cách mạng hồi bí mật trước Tổng khởi nghĩa, thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, để cho người bây giờ thấy được hoạt động cách mạng thời kỳ đất nước còn đen tối đã to lớn, đã dũng cảm đến thế nào mới có được ngày nay. Sân gác thượng một nhà in phố Hàng Bồ, ở đấy tiểu đội của chiến sĩ Bạch Ngọc Liễn đã dùng súng trường bắn rơi một máy bay trinh sát Pháp khi Liên khu 1 đương còn trong vòng vây địch. Đấy là chiếc máy bay đầu tiên của Pháp bị bắn rơi trong cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta. Ở nhiều bức tường nhà hai tầng phố Hàng Gai còn lỗ chỗ vết thủng, vết đạn, khi hai bên phố là phòng tuyến của ta và địch hàng ngày tấn công sang nhau. Ở hầu hết mọi nhà còn vết tường nhà đã bị phá, để cả phố thành giao thông hào luồn nhà này sang nhà khác khắp 36 phố phường ra tận chốt ngoài cùng. Ở ngõ Phất Lộc, điểm tập trung sau cùng của trung đoàn Thủ đô trước khi rút sang bên bờ sông Hồng, luồn khỏi vòng vây của địch. Cây đa cạnh đền Bà Kiệu còn những vết sẹo và cành gãy, đó là cái cây bị thương vì bom bi mấy trận máy bay Mỹ ném xuống quanh Hồ Gươm. Có thể nói, chỗ nào trong khu vực này cũng la liệt dấu vết cuộc chiến đấu cách mạng và lịch sử qua các thời kỳ. Khu vực 36 phố phường còn nhiều đình, chùa, đền miếu rải rác các phố. Chứng tích đô thị một đất nước châu Á gốc nông nghiệp, dẫu đã ra ở đường phố, nhưng tính cách lũy tre làng vẫn được gìn giữ, người ta lập nơi thờ mới hoặc thờ vọng thành hoàng làng ở quê. Cần giữ lại mọi hình ảnh có đặc điểm này, tất nhiên nơi là di tích được xếp hạng (đền Bạch Mã), những nơi khác có thể vẫn ở, vẫn sử dụng bình thường, nhưng phải có quy định không được tự tiện xê dịch, hủy bỏ hoặc tự ý sửa chữa, v.v... Vùng 36 phố phường có nhiều di tích tiêu biểu xứng đáng. Khách trong nước và nước ngoài có dịp được tham quan cái bảo tàng ngoài trời của thành phố ta qua các thời kỳ. Nhưng khu vực này đang có nguy cơ biến dạng. Nếu không sớm bảo vệ nghiêm ngặt, e đến khi ta có điều kiện tôn tạo, sẽ tốn công tốn sức lắm và có những mất mát không thể tìm lại được. Số người, số hộ đến ở khu này đông quá mức. Là khu buôn bán cũ, bây giờ vẫn tiếp tục buôn bán – trong tình hình này sinh hoạt buôn bán càng nhiều. Vì thành phố không trông trước được đây sẽ là vùng di tích nên không có quy định gì về người đến, người ở. Hiện các phường Đồng Xuân, Hàng Buồm, Hàng Bạc là những phường chật chội, đông người nhất, ô nhiễm nặng nhất, và sẽ còn đông nữa, bẩn nữa. Do đòi hỏi của sinh hoạt, người ta phá nhà cũ xây nhà mới, người ta phải cơi nới gác xép và lên tầng. Cả đến hai đầu đao mái đền Bạch Mã đã được xếp hạng cũng phải đâm vào cửa sổ một hiệu ăn sát nách nhà. Từ Hàng Đào lên Hàng Đường có lệnh bắt các nhà nhích ra hè phải lui cửa hàng vào như cũ, xem chừng chỉ đẩy vào một hai tấc cũng không phải dễ. Có thể báo động: Tất cả các nhà trong khu vực này, nếu người ta chưa phá đi làm lại thì nhà nào cũng đã sửa chữa cả rồi. Thành phố phải tổ chức biện pháp giữ gìn, bảo vệ ngay. Trước mắt, chưa có điều kiện tôn tạo, nhưng nhất thiết phải giữ gìn và bắt đầu những công việc sưu tầm nghiên cứu chuẩn bị cho công việc tới. Những vấn đề như số lượng người ở, các nhà xây mới và chữa, chuyện đường sá, cây cối, các đình chùa đền miếu đều liên quan đến công cuộc gìn giữ trước mắt và sau này. Không để tùy tiện buông tuồng như bây giờ. Hà Nội 36 phố phường. Cái 36 phố phường ấy của thành phố đã hình thành từ Thăng Long nghìn đời không chỉ trên quang cảnh trông thấy, mà đã vào tâm hồn tình cảm con người với biết bao tục ngữ, ca dao. Xin nói về việc hôm nay chúng ta bảo vệ “Hà Nội 36 phố phường” quý báu đó cho bộ mặt thủ đô cả nước và tấm lòng mến yêu của mọi người trên thế giới khi đã một lần đến thăm Hà Nội. Có thể tính ra đã hàng chục đề tài nghiên cứu bảo tồn phố cổ với hàng trăm triệu, hàng tỷ đồng đầu tư cho những công tác nghiên cứu này, nhưng vẫn chưa tìm ra một phương án tối ưu được các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh tế và giới kiến trúc nhất trí, ủng hộ là thực hiện toàn diện và đồng bộ. Ngoài ra để chuẩn bị bảo vệ khu phố còn có nhiều cuộc bàn bạc khác của các chính quyền về khu phố cổ 36 phố phường. Hội đồng nhân dân thành phố đã họp chuyên đề quyết định cả đặt mốc giới khu phố. Và hiện nay đương bàn soạn và dự thảo những quyết định chi tiết về thể thức cải tạo, xây dựng trong khu vực này. Quan tâm và làm việc cho một khu phố cổ giữ được sắc thái riêng của nó, là cần thiết, bởi khu phố cổ là một trong những hình ảnh Hà Nội xưa làm ăn, sinh sống, mà tinh thần Hà Nội xa xưa liên quan tới con người Hà Nội bây giờ chứ không phải chỉ về mặt di tích và du lịch. Tất cả mọi công việc kể trên đều đương và sẽ thực hiện chứ thực chưa một việc gì đã làm cả. Vấn đề phức tạp và cần đặc biệt lưu ý cấp bách phải giải quyết là ở đây. Bởi vì trong khi đó vùng phố cổ đông đúc, chen chúc đương hằng ngày các nhà dân, nhà thuê của thành phố được sửa chữa, được làm mới như Hà Nội hiện nay ở bất cứ nơi nào, đã mọc lên nhiều nhà cao ba bốn năm tầng, mỏng mảnh, các cửa sắt kéo đóng khép, các mặt tiền ốp đá rửa… Chẳng bao lâu nữa, vẻ riêng 36 phố phường sẽ biến mất, mà lặn vào, hòa vào Hà Nội nói chung. Mới đây, tôi có dịp đi dạo trong vùng 36 phố phường với ông Giắc Beekac, nhà báo Anh, đặc phái viên Đông Nam Á thường trú ở Băng Cốc của đài phát thanh BBC. Ông Giắc nêu câu hỏi với tôi: “Các ông chủ trương bảo vệ khu phố cổ này, giữ bộ mặt Hà Nội khác Băng Cốc, khác Hồng Kông… Nhưng từ nãy, chúng ta mới đi qua hai, ba phố đã thấy nhiều nhà kiểu mới như các khu phố khác, như ở thành phố Hồ Chí Minh, như Hồng Kông thế thì gọi thế nào là bảo vệ, vì như vậy khu phố cổ rồi sẽ không còn nữa”. Câu hỏi cũng là một nhận xét và lời phê bình đúng sự thật, thật chua chát và buồn phiền cho người phải trả lời. Nhưng tôi đã trách ông Giắc lịch lãm và tôi cắt nghĩa với ông ấy rằng: “Ông chưa biết và thông cảm hết được khó khăn của chúng tôi. Vâng, những cái ông trông thấy đương làm đau đầu những người có trách nhiệm và thật sự là điều không vui đối với cả những người yêu vẻ đẹp độc đáo của Hà Nội như ông. Tại sao vậy? Điều trước nhất là nhà ở khu phố cổ này, phần nhà riêng có chủ nhiều hơn nhà do Nhà nước quản lý. Mật độ dân số một cây số vuông ở khu này đông gấp trăm lần các khu khác và vào loại môi trường bị ô nhiễm nặng nhất thành phố. Nhưng di chuyển, tạo thoáng khu vực này đòi hỏi một sự đền bù rất lớn, rất rất lớn và rất phức tạp. Bởi, khu này là trung tâm buôn bán sầm uất nhất thành phố, nhất cả phía Bắc đất nước. Mỗi tấc đất ở đây giá trị một tấc vàng. Ở đây không thiếu những triệu phú, tỷ phú mới nổi, mặc dầu họ chỉ chen chúc ở một căn nhà chật hẹp, cũ kỹ. Tất cả nhà cửa ở khu phố cổ đều được xây dựng từ đầu thế kỉ với cách sinh hoạt thô sơ của thời kỳ thành phố chưa có điện, chưa có hệ thống nước máy. Thêm nữa, nhà cửa trong mưa nắng nhiệt đới, mối mọt và đổ nát nhiều. Vả lại mỗi nhà hiện nay, phần nhiều vì đã mấy thế hệ, tam tứ đại đồng đường, con cháu quá đông đúc mà các nơi bếp núc và nhà vệ sinh đều tồn tại từ ngót trăm năm nay, cho nên, sửa chữa hoặc làm lại, làm mới cũng đương là một đòi hỏi vô cùng khẩn thiết, tất nhiên không thể cản được vì là nhà của người ta và trong khi những quy định của Nhà nước, của thành phố chỉ mới thấy các điều khoản trên văn bản giấy tờ, chưa đẻ ra điều kiện vật chất và tiền bạc, làm sao ngăn được những chữa chạy hoặc làm mới khá chính đáng của mỗi chủ hộ trong ngôi nhà, trong dãy phố. Ấy là còn chưa kể có thể có những cái bên trong, để được làm ngơ đi, biết đâu. Tôi cũng như nhiều người hằng quan tâm và yêu quý khu phố cổ 36 phố phường, thực sự băn khoăn không yên. Từ bàn cãi đến các tổ chức, các kế hoạch, bảo tồn, tôn tạo, hội nghị, hội thảo và công phu ghi chép với sáng kiến đã nhiều, nếu thủ đô được giải phóng đã ngót 60 năm thì thời giờ bàn và lo cho khu vực này cũng đã dòng dã ngót 60 năm. Vậy mà chưa trông thấy cụ thể một việc gì cả. Bây giờ, bước vào đổi mới, chỉ thấy ngày và đêm, nhất là về đêm, những vôi gạch, xi măng và vật liệu xây dựng được tải vào đây nhà nhà cứ được chữa, được xây lại mốt mới giống hệt như ở bất cứ chỗ nào trong thành phố này và các thành phố khác. Có lẽ chẳng bao lâu nữa 36 phố phường chỉ còn trong ký ức, “Thăng Long thành hoài cổ” đầu bài thơ cũ đã mang sẵn cái điềm buồn thế rồi chăng? Mời các bạn đón đọc Giữ Gìn 36 Phố Phường của tác giả Tô Hoài.
Nam Ông Mộng Lục
Hồ Nguyên Trừng (1374-1446 tự Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, người Đại Lại 1 , tỉnh Thanh Hóa. Tổ tiên ông ở hương Bào Đột đất Diễn Châu, đến đời Hồ Liêm mới dời đến Đại Lai. Vì Hồ Liêm làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn nên đổi họ là Lê. Hồ Nguyên Trừng do vậy còn được sử cũ chép là Lê Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly nhưng không kế cha làm vua, mà chỉ giữ chức Tư đồ Tả tướng quốc. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, quân Minh đã bắt được ông vào năm 1407, đưa về Bắc Kinh cùng cha là Hồ Quý Ly, em là Hồ Hán Thương và cháu là Nhuế (con Hồ Hán Thương . Vì biết chế tạo súng "thần cơ", một thứ vũ khí có sức sát thương lớn, vượt hẳn các loại súng đương thời, Hồ Nguyên Trừng được nhà Minh tha không giết và sai trông coi việc chế tạo vũ khí 2 . Từ chức công bộ doanh thiện ty thanh lại ty Chủ sự, ông dần dần được thăng làm Lang trung, rồi Công bộ Hữu thị lang, Công bộ Tả thị Lang (1436 , Công bộ Thượng thư (1445 . Ông mất vào tháng 7 năm Chính thống (1446 , thọ 73 tuổi. Nam Ông mộng lục được viết xong vào năm Mậu Ngọ (1438 , là tác phẩm duy nhất hiện còn của Hồ Nguyên Trừng. Đầu sách có bài tựa của Hồ Huỳnh, một quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng, viết năm Chính Thống 5 (1440 . Tiếp đến là bài tựa của chính Hồ Nguyên Trừng viết vào năm Chính Thống 3 (1438 . Rồi đến phần chính của sách gồm 31 thiên truyện. Cuốn sách có bài Hậu tự của Tống Chương, người Việt Nam, làm quan triều Minh, viết năm Chính Thống 7 (1442 . Các truyện trong Nam Ông mộng lục là: 1. Nghệ Vương thủy mạt; 2. Trúc Lâm thị tịch; 3. Tổ linh định mệnh; 4. Đức tất hữu vị; 5. Phụ đức trinh minh; 6. Văn tang khí tuyệt; 7. Văn Trinh ngạnh trực; 8. Y thiện dụng tâm; 9. Dũng lực thần dị; 10. Phu thê tử tiết; 11. Tăng đạo thần thông; 12. Tấu chương minh nghiệm; 13. Áp Lãng chân nhân; 14. Minh Không thần dị; 15. Nhập mộng liệu bệnh; 16. Ni sư đức hạnh; 17. Cảm khích đồ hành: 18. Điệp tự thi cách; 19. Thi ý thanh tân; 20. Trung trực thiện chung; 21. Thi phúng trung gián; 22. Thi dung tiền nhân cảnh cú: 23, Thi ngôn tự phụ; 24. Mệnh thông thi triệu; 25. Thi chí công danh: 26. Tiểu thi lệ cú; 27. Thi cửu kinh nhân; 28. Thi triệu dư khánh (khương ; 29. Thi xứng tướng chức; 30. Thi thán trí quân; và 31. Quý khách tương hoan. Nhưng nay chỉ còn lại 28 thiên (mất các thiên 24, 25 và 26 , hiện được in trong các bộ sưu tập cổ của Trung Quốc như Kỷ lục vựng biên; Thuyết phu tục quyển thập tứ; Ngũ triều tiểu thuyết đại quan; phần Hoàng Minh bách gia tiểu thuyết; Hàm phân lâu bí kíp đệ cửu tập; Tùng thư tập thành sơ biên, phần Sử địa loại v.v... 3 Theo lời tựa của Tác giả, Nam Ông mộng lục được biên soạn một là để "biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa"; hai là để "cung cấp điều mới lạ cho bậc quân tử" (Nam Ông mộng lục tự . Đối với chúng ta ngày nay, Nam Ông mộng lục là một nguồn tư liệu quý để nghiên cứu về văn học và sử học nước ta đời Lý Trần, một giai đoạn mà sách vở còn lại rất ít. Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu bài tựa của Hồ Huỳnh, bài tựa của Hồ Nguyên Trừng, bài hậu tự của Tống Chương, cùng 28 thiên hiện còn, theo bản chữ Hán chép ở bộ tùng thư Hàm phân lâu bí kíp; Thư viện Viện thông tin khoa học xã hội; ký hiệu P.521 (2 . Bài tựa thứ nhất ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Kìa mặt trời, sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, đó là vẻ đẹp của trời: núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, đó là vẻ đẹp của đất; danh hiệu điển chương, lễ nhạc giáo hóa, đó là văn minh của người. Khắp trong trời đất biết bao nhiêu nước, không đâu là không có nền văn minh. Nay ông Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, người Giao Nam 4 đang giữ chức Tả thị lang ở Bộ Công là người tư chất thông minh, tài học xuất sắc, với tôi lại là bạn cùng triều, mới rồi có đem cuốn Nam Ông mộng lục đưa cho tôi xem và nhờ viết tựa. Tôi đọc khắp một lượt, biết "Nam Ông" là tên hiệu của Mạnh Nguyên; văn ông ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình cảm kể việc, theo ý nghĩa đặt lời, vừa thú vị, vừa thiết thực, không truyện nào là không nhằm trình bày thứ bậc giữa vua tôi, làm rõ cái lành mạnh của luân thường đạo lý, thuyết minh chỗ thẳm sâu của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường dẫn tới sự hưng phế của nước nhà. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì bừng bừng cảm khái, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu nói sau đây của Mạnh Nguyên kể lại nguồn phúc trạch đã hun đúc nên ông: "Ra tự hang sâu, dời đến cây cao 5 , (... sống gập triều thánh 6 tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này" 7 tôi hiểu được tấm lòng của Mạnh Nguyên và cho rằng ông là dấu tích lạ của một phương trời, nay được phô trương ở Trung Hạ 8 , nổi tiếng khắp quận ấp, hoặc giả còn để lại thanh danh tới đời sau. Giá không được thánh triều ban cho trọng nhiệm Á khanh thì những chuyện ghi chép trong sách sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai hay biết. Nay nhờ tri ngộ mà sách này sẽ được mãi mãi lưu truyền, há chẳng phải là dịp may lớn đã cứu vãn được một nguy cơ mất mát? Vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào chuyện nhân hậu, nên tôi đã không từ chối, viết vài lời vào đầu thiên sách này. Ngày rằm tháng 10 năm Canh Thân niên hiệu Chính Thống 9 5 (1440 . Hồ Huỳnh, tên chữ là Côn Lăng, giữ các chức tước: Tư đức đại phu, Chính trị thượng khanh, Thượng thư Bộ Lễ. Bài tựa thứ hai ở sách "Nam Ông Mộng Lục" Sách Luận ngữ từng nói: "Trong cái xóm mười nhà, thế nào cũng có người trung tín như Khâu này vậy" 10 , huống hồ nhân vật cõi Nam Giao 11 từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì ở nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói việc làm, trong tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe, há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này, tôi thường tìm ghi những việc cũ, nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại thành một tập sách, đặt tên là "Nam Ông mộng lục", phòng khi có người đọc tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp điều mới lạ cho người quân tử, tuy đóng khung trong vòng tiểu thuyết, nhưng cũng là để góp vui những lúc chuyện trò. Có kẻ hỏi tôi rằng: "Những người ông ghi chép đều là người thiện, vậy thì trong các chuyện bình sinh ông nghe thấy, lại chẳng có chuyện nào bất thiện ư?" Tôi trả lời họ rằng: "Chuyện thiện tôi rất mê nghe, nên có thể nhớ được; còn chuyện bất thiện thì không phải không có, chẳng qua tôi không nhớ đấy thôi". Họ lại hỏi: "Sách lấy tên là ‘mộng’ ý nghĩa ở chỗ nào?" Tôi trả lời: "Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải ‘mộng’ là gì? Các bậc đạt nhân quân tử có thấu cho chăng? Còn ‘Nam Ông’ là tiếng Trừng tôi tự gọi mình vậy!". Ngày Trùng cửu 12 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống 3 (1438 . Lê Trừng tên chữ Mạnh Nguyên, người xứ Nam Giao, tước Chính Nghị đại phu, chức Tư trị doãn, Công bộ Tả thị lang đề tựa. Mời các bạn đón đọc Nam Ông Mộng Lục của tác giả Hồ Nguyên Trừng.
Khói Sẽ Làm Mắt Tôi Cay
Những trang văn như lời kể nhỏ nhẹ, thủ thỉ, vô cùng thấm thía. Người cùng quê thể nào cũng bị cay mắt vì nhung nhớ. Những ai xa quê sẽ bị mềm lòng bởi những câu chuyện giản dị, những chuyện quen thế mà đọc vẫn thấy mới lạ, đọc là khó rời. Những người không cùng quê thì ngạc nhiên vì sao có thể bẫy chim xong rồi thả, chuyện trai gái tìm chọn nhau phiên chợ Tết, cánh bướm như hoa mùa xuân, trăng vàng mùa thu, tiếng dế ca mùa hạ, và nhất là mặt sông rực sáng đêm rằm trong ngọn khói thơm mỗi mùa… tất cả đều là nhân vật, là bạn, cùng với ông nội, các o trong xóm, các mệ ngoài chợ hay các cô gái duyên dáng của làng mình và làng bên. Không chỉ là mang lại cảm xúc, mỗi trang văn của Hoàng Công Danh cho biết rất nhiều điều, nhiều câu chuyện của một vùng đất nước. Đây là cuốn thứ hai của tác giả trẻ Hoàng Công Danh, sau Cõng nhau trong một cõi người. Nhưng là những trang viết đầu tiên, khi còn đang học tại nước ngoài, Belarus. Anh hiện đang làm việc ở chính quê mình Quảng Trị, sau khi nhận bằng thạc sỹ Vật lý lượng tử. Tác giả tâm sự “đây là tập sách tôi rất muốn được in, kể từ lúc mới viết. Vì nó có những điều tôi muốn gửi gắm.” *** “Buổi chiều tôi lên đê một mình, lặng lẽ gom lại một ít hương xưa cất vào đâu đó trong sự bộn bề tuổi trẻ. Cỏ may cứ dùng dằng níu lại. Dăm con bò còng lưng cõng gió, vài cánh cò nhẫn nại hớp sương. Thế là thành quê hương. Giản đơn và hồn hậu. Có ngần ấy thôi nhưng coi hoài không thấy chán. Chiều nay bạn từ xa về, bạn nói đặt chân xuống làng một cái tự dưng mình hết muốn bon chen. Bạn nói quê hương luôn đẹp đối với những ai biết đủ.” Đoạn văn trên được trích trong bài “Men dọc triền đê”, một trong số ba mươi bảy bài tùy bút ngắn được gói gọn trong cuốn “Khói sẽ làm mắt tôi cay” của Hoàng Công Danh. Tôi đã bị cuốn hút bởi văn phong giản dị mà thâm thúy, lối miêu tả đơn giản nhưng độc đáo, và đặc biệt hơn hết là tôi có thể cảm được tình yêu nồng nàn của tác giả dành cho quê hương Quảng Trị. Tôi muốn giới thiệu đến các bạn quyển sách này vì với tôi đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà đó là cả một nền văn hóa của người Việt. Một tác phẩm “ngược dòng” Tôi xin mạn phép gọi Hoàng Công Danh là anh, vì tác giả chỉ lớn hơn tôi có ba tuổi (anh sinh năm 1987). Tôi không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra điều đó, vì anh còn quá trẻ để viết được những dòng văn mà với tôi là khá “cứng”. Trong khi những cây bút trẻ khác hồ hỡi chạy theo những chuyện tình ướt át, ủy mị, những tản văn miên man, đầy chất teen và hiện đại thì anh lại đi ngược chiều. Đó cũng là nét độc đáo của tác giả. Những nhân vật của anh là những người đã cùng anh trải qua tuổi thơ thần tiên tại quê nhà như bạn bè, ông nội, cô bé chăn trâu, con bò, con nhái, chim én, ánh trăng,… Một điều đặc biệt nữa là do Hoàng Công Danh là Thạc sỹ Vật lý Lượng tử tại Belarus, nên có một số chi tiết nhỏ anh đã giải thích bằng các quy luật vật lý. Điều đó không làm cho văn của anh nhàm chán mà ngược lại làm cho người đọc thích thú hơn. Từ đầu đến cuối quyển sách, người đọc chỉ thấy một tình yêu mãnh liệt với quê hương của tác giả, thỉnh thoảng có xen lẫn một vài cảm xúc bất chợt của tình yêu đôi lứa. Người đọc như được chạm đến địa danh Triệu Phong một cách chân thực vì lối miêu tả chi tiết, sống động và sắc nét. Ví như khi một đọc đoạn miêu tả hoa mười giờ trong bài “Đất nở hoa”sẽ thấy cái nghệ thuật so sánh của Hoàng Công Danh: “Hoa mười giờ hồng thắm và có một bố cục xếp cánh chặt chẽ. Mỗi cánh hoa mang hình một cánh bướm điệp màu. Lối khai hoa của nó cũng bất ngờ như cách xòe cánh họ nhà bướm. Độ gần trưa, chỉ cần nắng vỗ nhẹ thì tất cả búp bất ngờ bung ra đồng loạt. Nếu chạy đi đâu đó một chút rồi quay lại thì cả vườn hoa đã loát hồng lên. Từ đó tôi gọi hoa mười giờ là hoa của sự bất ngờ. Cái bất ngờ như nụ hôn của gã lưu vong từ độ nào trở về lại gặp người tình xưa cũ, chưa nói năng chi đã vồ lấy đôi má muồi duyên.” Việt Nam đậm nét trong từng câu chữ Tác giả viết quyển tùy bút trong thời gian du học tại Belarus từ năm 2007 đến 2010. Có lẽ trong thời gian đó, Hoàng Công Danh đã rất nhớ quê, nên cảnh vật tái hiện trong anh rất rõ nét, và có thể nói đó cũng chính những hình ảnh đặc trưng nhất của nông thôn Việt Nam. Tác giả đã vẽ ra một bức tranh hoàn mỹ dẫn người đọc đi từ cồn Mai đến chòi sĩ tửrồi đứng dưới cây khế sau nhàvà ngẩn ngơ ngồi dưới thềm trăng. Ngoài ra, anh cũng đã chiếu một đoạn phim ngắn về những hoạt động ngày Tết rất mộc mạc như đi chợ Tết, hái lá mai, đón ông bà, nấu bánh, đốt pháo,…. Nếu ai đang xa xứ thì đây quả là liều thuốc tuyệt vời để chữa bệnh nhớ thương quê hương. Còn với những ai được sinh ra và lớn lên nơi thành thị tấp nập, thì đây sẽ là một bản đồ văn học dẫn đường bạn đến với nông thôn hiền dịu. Hay với những ai vẫn còn luyến tiếc tuổi thơ ngây dại thì đây sẽ là chiếc vé vô thời hạn để quay về bất cứ lúc nào. “Cho đến khi trở lại quê nhà, mỗi hoàng hôn đều cho tôi được tắm gội lại màu nắng năm xưa, khơi gợi lại cảnh cũ. Quê hương đổi thay nhiều, nhưng cứ vào hoàng hôn thì mọi hình dáng năm xưa lại trở về, đơn giản bởi cái lũy tre bao bọc phía sau làng, hay là những nóc nhà đều chỉ còn lại một màu xám đen ngược sáng…” [Hoàng hôn quê nhà] Hãy cùng tác giả bước từng bước trên miền quê Quảng Trị Hãy một lần cùng Hoàng Công Danh nếm trải “Pháo Tết ngày xưa”; “Rơm rạ quê mùa”; “Hạt lúa sau mùa”; hay “Nếp tranh xưa”; để được chơi những con tò he, được nghe tiếng nhái râm ran hay được đi tát nước dưới trăng. Và còn tuyệt hơn nữa vì bạn sẽ được tác giả mời một bữa cơm mới – “… Bữa cơm đầu tiên nấu từ hạt lúa mới gặt. Trong một buổi chiều chạng vạng, bên thềm hiên, mùi cơm mới thơm hương vị cánh đồng, nguyên vị sữa ngọt và cái dẻo mềm đến nỗi mỗi hạt cơm lùa vào miệng đều dính ngay ở đó. Người ta bảo cái dẻo của cơm lúa mới là để mình ngậm mà nghe, cảm nhận thành quả sau một vụ mùa.” [Câu chuyện mùa hạ]. Để rồi thả lòng hòa quyệt với thiên nhiên, để thấm đẫm cái hồn dân tộc, để uống cạn những giọt tinh hoa của nông thôn đất Việt. Tôi không định phân tích hết cuốn sách vì trình độ văn chương của bản thân không đủ, và một lẽ nữa là vì tôi không muốn làm mất đi sự tò mò của các bạn. Mong muốn duy nhất của tôi là bài viết có thể mang đến cho những con người yêu sách biết thêm về quyển tùy bút tuyệt vời này. Quyển sách là một tác phẩm sâu sắc dành cho những ai “…vô tình bỏ quên ánh trăng để đến với những ngọn đèn đường, bỏ quên cái thanh bình để tìm đến sự đô hội. Để một hôm thèm sự dân dã, dịu dàng, thơ mộng, chợt nhớ ra còn có một thềm hiên ngồi đón trăng về.” [Ngồi dưới thềm trăng]. Thụy Yên Review Mời các bạn đón đọc Khói Sẽ Làm Mắt Tôi Cay của tác giả Hoàng Công Danh.