Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Lạ Trong Gương - Sidney Sheldon.

Sách Nói Người Lạ Trong Gương   Người Lạ Trong Gương vẫn là một trong nhiều câu chuyện Betseller của nhà văn nổi tiếng Sidney Sheldon. *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ Nhất vừa kết thúc được hai năm. Detroit thuộc bang Michigan được coi là một trong những thành phố công nghiệp phát triển nhất nhì toàn cầu. Không còn lo cung cấp xe tăng, máy bay cho các đồng minh tận châu Âu xa xôi, nay các hãng xe hơi của Detroit chỉ còn tập trung sản xuất, nâng cao, hoàn thiện sản phẩm chính của mình để nhanh chóng sau đó, mỗi ngày, hàng ngàn chiếc xe được xuất xưởng, chở tới khắp thế giới, nơi người tiêu dùng khao khát nó. Ngược lại, hàng vạn lao động từ khắp nước Mỹ, khắp cả châu Âu, đổ xô đến Detroit. Ai cũng hy vọng tràn trề song không phải ai cũng toại nguyện. Paul Templarhaus và vợ là Frieda, dân Đức, cũng nằm trong số hy vọng đó. Đang học nghề tại một lò mổ ở Muchen, anh lấy vợ, lấy luôn hồi môn của vợ để di cư sang New York, để mở hàng bán thịt và để...lỗ vốn. Rời New York nhưng không rời nghề bán thịt, anh dắt vợ đến St.Louis, đến Boston và rồi đến Detroit, song ở đâu cửa hàng anh cũng lỗ hơn là lãi. Điều đó thật khó hiểu, vì ở vào thời kỳ kinh tế phát triển, nhu cầu ăn ngon, nhất là cứ bốc hơi đi? Anh khó hiểu chứ Frieda, vợ anh, thì biết thừa. Thực ra, chồng chị chỉ lo làm thơ chứ đâu chịu lo làm ăn. Ngồi trước bàn thịt mà đầu óc anh chỉ quẩn quanh với câu với chữ, với ý với tứ chứ nào đâu với miếng thăn miếng đùi và nhất là với chuyện mời chào khách bỏ tiền ra mua. Không một tờ báo hay nhà xuất bản nào chịu mua thơ của anh, ngược lại, những người máu thịt của anh thì đông vô kể nhưng không ai chịu trả tiền, vì anh luôn sẵn sàng cho họ chịu. Đến nỗi người ta đồn thổi khắp mấy con phố, lan ra cả ngoại ô, rằng, muốn không mất tiền song lại muốn có thịt ăn thì cứ việc đến cửa hiệu Paul Templarhaus. Frieda chưa từng biết tới đàn ông trước khi Paul cầu hôn cô. Mà nói là anh cầu hôn với cha cô mới đúng, và lập tức được cả cha lẫn con đồng ý, nhất là ông già lại đang lo rằng cô con gái sẽ sống bám lấy mình suốt đời, thậm chí ông còn tặng thêm hồi môn, ngoài số đã định trước đó, để hai vợ chồng sớm xa chạy cao bay, nghĩa là di dân, mà với ông, càng xa càng cao thì càng tốt. Còn Frieda? Paul đâu biết vừa thấy anh cô đã yêu liền. Đã bao giờ cô được gặp nhà thơ, thậm chí một người thích làm thơ? Ngoại hình anh thì cô mê tít, bởi nó vô cùng phù hợp với người tình trong mộng mà đêm vẫn luẩn quẩn bên cô. Anh hơi gầy, mắt cận thị màu xanh nhạt, tóc thưa, nói năng e dè... nghĩa là theo cô, rất trí thức, rất nhà thơ. Vợ chồng dắt nhau sang New York cô mới dám tin thiên- tài- đẹp- trai này thực sự là của mình. Cô biết mình, nếu không bị nhìn là xấu xí thì cũng chẳng ai coi là đẹp đẽ gì, ngoài đôi mắt xanh biếc lanh lợi như vay mượn của ai đó, còn lại cô thừa hưởng toàn bộ cái xấu xí của họ hàng hang hốc nội ngoại nhà cô. Nào mũi to, trán dô, cằm bạnh...nào thân hình ục ịch...nào dáng đi lật bật...Con tim, Paul cũng như bất kể ai không mù, đều dễ dàng nhận ra những cái xấu đó, vậy sao anh vẫn cầu hôn cô? Có phải vì là nhà thơ nên anh tinh tường hơn người đời, nhìn ra được bao vẻ đẹp của cô ẩn náu bên trong cái vẻ ngoài xấu xí đó? Cô đâu biết, tuy không phải dân đào mỏ, cũng chẳng là kẻ thực dụng, song với Paul, điều hấp dẫn lớn nhất ở cô vợ có vẻ ngoài xấu xí đó chính là đống của hồi môn kia. Anh hy vọng, thậm chí tin tưởng, nhờ nó mà bằng cách này hay cách khác, anh sẽ thoát khỏi đám lòng, tiết, gân, xương nơi lò mổ, có cửa hàng riêng, có đủ tiền sinh sống và toàn tâm toàn ý với Nàng Thơ của mình. Frieda, kể từ hôm nhận được lời cầu hôn của Paul, đã tưởng tượng, đã thêu dệt ra bao mộng vàng của đêm tân hôn. Nơi họ đến nghỉ tuần trăng mật thì tuyệt rồi: ngôi nhà nhỏ ven hồ năm trong một khu thành cổ, lại ở giữa rừng, giữa đồng cỏ mênh mông. Thế rồi, cô hình dung, Paul sẽ ôm cô, miệng thì thầm lời yêu, tay lần cởi váy áo. Rồi anh sẽ hôn cô, thoạt tiên ở môi, ở cổ, rồi có thể cả ở tai, cô hy vọng thế. Sau đó, môi anh sẽ lướt dần xuống vai xuống ngực cô, ngậm thật lâu vào vú cô, rồi lướt khắp thân thể trần truồng của cô, nhẹ nhàng, mơn man, y hệt trong những cuốn sách mà cô đã vụng trộm đọc. Thế rồi anh khẩn khoản, như âu yếm, nhờ cô cởi bỏ giúp quần áo của anh. Tất nhiên cô cứ để anh nài nỉ, mãi sau mới chịu nghe. Cô đã bào giừo giúp ai việc đó mà bảo làm ngay được? Rồi cô sẽ thấy cái gì? Chả gì cả ngoài cái con vật của anh thẳng đơ và vênh vang như cán cờ Đức quốc xã. Nghe nới là đau lắm thì phải. "Nó" như thế kia cơ mà? Và anh sẽ nói gì với cô trước khi làm đau cô nhỉ? Anh khen người cô đẹp, hay giảm đơn như cánh lò mổ, "người cô nhiều thịt"? Chắc anh không đơn giản vậy đâu. Anh là nhà thơ kia mà. Chả có gì giống như cô tưởng tượng hoặc thêu dệt hoặc hình dung cả. Tối đến, ăn no xong, hai người vào phòng ngủ - cô phải tự đi vào vì không thấy anh tỏ ý muốn bế, như sách tả- và trong khi cô đang hồi hộp chờ đợi những gì tiếp theo thì anh đã lăn luôn ra chiếc giường tân hôn sau khi vội vội vàng vàng cởi bỏ quần áo. Anh nằm đó, dang chân dang tay, phô ra thân hình gày gò, bộ ngực lép kẹp và...cái của nợ kia nhỏ tí, ẽo uột ẩn sau đám lông lá, như xấu hổ. Chỉ thấy anh nhìn mình như chờ đợi, Frieda hiểu rằng mình sẽ phải tự cởi bỏ váy áo, tự leo lên giường chứ chẳng có ai sẽ hay dẫn. Cô thở dài, vừa thả váy xuống vừa tự nhủ, to nhỏ đâu quan trọng gì, với lại mình cần tình yêu của anh chứ đâu cần cái đó nhỏ hay to...Hãy chờ những gì anh sắp nói với mình đây. Anh sẽ thủ thỉ...sẽ bày tỏ. Nhưng anh chẳng hé một lời,dù to hay nhỏ. Cô vừa hồi hộp đặt mình xuống giường, còn chưa kịp nhích sát lại gần anh thì đã bị anh đẩy vai cho nằm ngửa ra để anh ngã sấp lên bụng cô, nhét cái đó vào, rồi sau vài lần nhấp nhô cô thấy anh rên khẽ, rùng mình khẽ và lăn xuống bên cô. Tất cả là vậy ư? Chả lẽ nó đã kết thúc khi cô còn tưởng nó chưa bắt đầu? Thực ra, chuyện đó với Paul chỉ là vấn đề giải quyết nhu cầu của phần "con" chứ không phải phần "người", và xưa nay anh cũng chỉ làm việc đó với đám gái điếm nhung nhúc ở Muchen. Theo thói quen, anh nhổm dậy móc ví định trả tiền thì chợt nhớ từ nay mình làm chuyện này sẽ không phải tốn một xu nào cả. Trong khi Frieda còn chưa hết ngơ ngác thì Paul đã ngáy nhè nhẹ. Anh ngủ, mặt vô tư như đứa trẻ. Cô quyết không khóc, tự nhủ, mấy ai vừa ý ở ngay lần đầu. Rồi anh sẽ khác. Rồi anh sẽ là người chồng tuyệt vời về mọi mặt chứ không riêng tình dục. Vả lại, tình dục đâu phải là quan trọng nhất với mình... Song càng ngày Frieda càng thất vọng hơn về Paul. Là vợ thì phải nghe lời chồng, cô chấp nhận, nhưng cô đâu có ngu ngốc để không thấy, dù muộn, những bài thơ của anh dở toẹt mặc anh mỗi ngày thêm lao tâm khổ tứ vì nó, và cũng vì nó mà anh sống như kẻ mộng du, đôi khi cứ như thằng ngớ ngẩn. Và quan trọng hơn nữa là vì cái ả thơ ấy mà đống hồi môn của cô cứ ngày một vơi dần. Khi hai vợ chồng chuyển tới Detroit thì Frieda không chịu đựng thêm được nữa. Sắp trắng tay rồi. Hôm đó, sau khi rà soát số hồi môn ít ỏi còn lại, cô lẳng lặng bước vào cửa hàng thịt của Paul, lẳng lặng chiếm giữ quầy thu tiền, để rồi từ đó không rời nó ra nữa. Không bán chịu, đó là biện pháp đầu tiên của cô. Paul hoảng hồn, nhưng đau chỉ có thế. Frieda tìm mọi cách quảng cáo chất lượng thịt tuyệt hảo của cửa hàng và kèm theo đó là tăng giá ở những món buộc phải tăng, và ngược lại. Bây giờ thì đã nhìn thấy đồng tiền đi vào chứ không chỉ nom thấy miếng thịt đi ra, như trước. Lãi nhỏ kéo theo lãi lớn. Việc buôn bán cứ khấm khá dần lên. Từ lúc nào chẳng biết, Frieda trở thành người ra lệnh còn Paul cứ răm rắp làm theo. Quen đi, ngày một ngày hai đã biến cô trở thành độc đoán, chuyên quyền, không chỉ ở cửa hàng thịt mà còn ở việc đầu tư tiền nong vào đâu, nên sống ở vùng nào và mùa hè này nghỉ tại đâu thì tốt nhất. Rồi cả việc chăn gối nữa. Giờ thì Paul đừng mong chỉ thoả mãn phần "con" của mình còn vợ ra sao thì mặc. Bây giờ chính Frieda là người quyết định làm chuyện đó, mặc Paul khoẻ hay yếu, có hứng hay không. Cái việc này bỗng trở nên khủng khiếp với Paul khi Frieda quyết định sẽ có con chỉ trong vòng một năm, không thể muộn hơn. Cô buộc chồng phải thực hiện bằng được việc làm tình trong những ngày có nhiều khả năng thụ thai, mặc Paul có hôm mệt đến phát ốm, mà là ốm thật chứ không phải vờ để trốn tránh. "Cho vào!", cô ra lệnh. Paul quấn cái đó của anh quanh ngón tay. "Mềm như sợi dây thế này thì cho vào đâu?". Frieda vẫn tảng lờ như điếc. Mấy tháng sau anh được tạm nghỉ vì đã hoàn thành sứ mệnh. Anh thích có con gái nhưng vợ anh thì ngược lại. Vì vậy, chẳng mấy ai quen biết họ tỏ ra ngạc nhiên khi thấy Frieda sinh con trai. Ngày lâm bồn, Frieda chịu tốn tiền để mời bằng được bà đỡ đến nhà vì không muốn sinh con tại bệnh viện. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc, ao nấy xúm quanh đều trợn mắt ngạc nhiên khi nhìn nó. Chẳng phải nó dị dạng hay thừa gì, thiếu gì. Song, giữa hai đùi nó, cái ở đứa trẻ khác người ta gọi là chim thì ở đây, nếu tạm so sánh, phải gọi là đại bàng. Bởi nó to quá khổ. Bố nó nằm mơ cũng chẳng được như thế. Không hiểu sao Frieda lại kiêu hãnh nghĩ vậy. Tên nó là Tobias. Do Frieda đặt, tất nhiên. Paul đòi dạy bảo thằng bé. Chuyện học hành, chữ nghĩa anh giỏi hơn cô. Vả lại, dạy dỗ con trai là việc của ông bố mà. Không phản đối, song Frieda không mấy khi để hai bố con ngồi riêng với nhau. Chính là cô, vừa nuôi vừa dạy nó, bằng những món ăn vừa ngon vừa bổ, và bằng những mệnh lệnh rắn như sắt thép. Lên năm tuổi, Toby cao nhưng gầy đến thảm hại, đôi mắt xanh biếc như của mẹ, luôn có vẻ đăm chiêu. Nó vừa yêu vừa sợ mẹ, mong ngóng được mẹ ôm ấp để có thể dụi sâu đầu vào ngực mẹ. Nhưng Frieda quá ít thời gian cho việc nựng nịu con, bởi còn lo kiếm tiền nuôi cả nhà. Phần khác, cô yêu con, tất nhiên, nhưng quyết không để nó lớn lên uỷ mị, yếu đuối như bố. Vì vậy, tình mẫu tử của Frieda được thể hiẹn bằng những mệnh lệnh cứng rắn, những đòi hỏi khe khắt về kết quả của mỗi công việc mà Toby thực hiện, dù là việc học hành ở trường hay việc mẹ giao ở nhà. Cô ít khi khen con, ngược lại, phạt nhiều hơn, nhưng có lẽ thế lại tốt cho Toby, cô nghĩ. Có một linh tính nào đó mách bảo, ngay giây phút đầu tiên ôm con vào lòng, khiến cô tin chắc sau này nó sẽ nổi danh thiên hạ. Cụ thể ra sao thì cô không biết nhưng cô chắc chắn nó phải như thế, và cô còn luôn nói với con, nhắc nhở con, khiến Toby dường như lớn lên cùng với niềm tin của mẹ. Và Toby biết, một khi mẹ đã muốn là phải được.   ... Mời các bạn đón đọc Người Lạ Trong Gương của tác giả Sidney Sheldon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp - Ed McBain
Evan Hunter lúc chưa lấy tên Ed Mc Bain, đã viết nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn dưới nhiều tên khác nhau, được một nhà xuất bản đề nghị viết một loạt truyện về vụ án. Ông chọn nhân vật chính trong loạt truyện đó là cả một đơn vị cảnh sát. Ông nói: “Tôi muốn nói về những người khám phá ra án mạng trong thực tế. Tôi cố gắng thể hiện công việc hàng ngày của những nhân viên cảnh sát ở một thành phố lớn, muốn xây dựng một lớp người hình dạng và tính cách khác nhau nhưng tập hợp lại cùng tạo ra một người anh hùng: đội Cảnh sát Quận 87. Việc đó chưa từng được làm và quan niệm này cho phép tôi đưa những nhân vật mới vào tập thể đã có. Toàn đội là người anh hùng trong truyện và không người nào trong đội buộc phải có hoặc không thể thay thế được. Trong đời sống thực tế, một cảnh sát có thể bị giết hay bị thương.” Trong các thanh tra cảnh sát ở Quận 87 Steve Carella được nói đến nhiều nhất, cả về tiểu sử. Gốc Ý, sinh ở Jsola, anh tham gia mặt trận Ý trong thế chiến thứ hai và vào ngành Cảnh sát 21 tuổi. Steve Carella là một cảnh sát liêm khiết, nhân hậu, có trách nhiệm cao trong công việc. Anh cũng là còn người bình tĩnh, không tha thứ đầu óc phân biệt chủng tộc, không thờ ơ với cái chết và có khả năng thông cảm với tất cả những ai anh phải tiếp xúc vì nghề nghiệp. Trực giác nhạy cảm, minh mẫn, ngoan cường, anh có khả năng cảm thụ rất cao: điều này được Mc Bain nói lên một cách hình ảnh bằng gán cho anh một người vợ câm điếc: Teddy. Gia đình sống hạnh phúc - họ có hai con sinh đôi - Carella không ngừng suy nghĩ về cuộc đời mỗi khi có dịp nghề nghiệp đưa lại. Chính tiềm năng nhân đạo, cái nhìn nhiệt tình đối với mọi người và cuộc sống làm anh trở thành hấp dẫn, được trìu mến. Xung quanh Carella, Quận 87 như là cả một gia đình: cảnh sát trưởng Peter Byrnes lãnh đạo đơn vị, như một người cha; Meyer Meyer là anh cả có đức tính kiên nhẫn nổi bật. Là người Do thái nhưng không cố chấp về giáo lý, anh đặt ra nhiều vấn đề về tính cách Do Thái và vị trí của người Do Thái hiện đại. Bert Kling là em út, rất gắn bó với Carella, trải qua hai cuộc thực tập khó khăn trong quá trình trưởng thành: nghiệp vụ cảnh sát nhiều khi rất nguy hiểm và lĩnh vực tình cảm riêng tư. Và những người khác: Cotton Hawes tóc hung, con của một mục sư, rất nhiều quan hệ với phái nữ; Arthur Brown, người da đen duy nhất trong đội; Hal Willis người nhỏ bé nhưng không kém nổi danh; Rogeru Havilland, anh cảnh sát hung bạo và thoái hóa; Grossman, người phụ trách phòng xét nghiệm. Tất cả đều có vai trò; quan trọng trong bối cảnh xuất hiện, len lỏi khắp nơi và có vẻ trở về hậu trường Quận 87. Còn một lớp người khác không là thành phần của Quận 87 nhưng đóng vai trò những kẻ điên khùng, lúc này lúc khác làm cho các thanh tra cảnh sát “điên người”: Những hung thủ, những kẻ vô lại gian ngoan luôn xuất hiện từ hư không, chơi trò trốn tìm với cảnh sát. Ed Mc Bain diễn tả những vụ việc trong một thành phố tưởng tượng, thành phố lớn Isola với những khu vực xen kẽ rất khác nhau: có những khu dinh cơ tầng lớp trên, những khu trung lưu, những khu Do Thái và những căn nhà lụp xụp, rác bẩn. Thành phố tập trung mọi tầng lớp xã hội và tiếp nhận dân cư của mọi bộ tộc thiểu số. Việc điều tra những vụ án tiến hành trực diện hoặc theo bước nhảy trong cùng một việc như diễn biến ở một đơn vị mà cảnh sát viên phải giải quyết nhiều vụ cùng một lúc. Như vậy, sự việc này có thể đối chiếu với sự việc khác, phối hợp giữa chúng với nhau, gây ra những bất ngờ, nhận rõ được nhiều mặt của sự việc. Tác giả biết thay đổi kết cấu, nhiều khi dựa vào tính chất xảo quyệt của tội phạm, thay đổi phương pháp kể, phân tích diễn biến tâm lý phá án, phong cách xã hội trong suốt ba mươi năm tại của Quận Cảnh sát 87 sử dụng lối ghi chép việc để dõi theo số phận các nhân vật. *** Nhà văn trinh thám Mỹ Salvadore Lombino sinh năm 1926 tại một xóm người Italia ở New York. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, ông vào học Trường cao đẳng Mỹ thuật. Trong những năm chiến tranh, Lambino phục vụ tại binh chủng Hải quân và bắt đầu viết truyện ngắn. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông tốt nghiệp Trường cao đẳng Hunter. Năm 1952 Lombino chính thức đổi tên thành Evan Hunter, theo tên của ngôi trường phổ thông và cao đẳng nơi ông đã học. Ông từng làm nhân viên bán tôm hùm, chơi piano trong một giàn nhạc jazz, dạy học ở trường phổ thông, làm nhân viên quảng cáo. Một lần, với tư cách là đại lý văn học, Salvadore Lambino đã mang tới nhà xuất bản những tập bản thảo của Evan Hunter, nghĩa là của chính mình.  Evan Hunter rất nổi tiếng trong giới những người hâm mộ thể loại trinh thám với bút danh Ed McBain độc nhất vô nhị, tác giả của những cuốn tiểu thuyết về đồn cảnh sát 87 - một chùm tiểu thuyết trinh thám dài, đa dạng và rất nổi tiếng. Theo ý đồ của tác giả, đồn 87 nằm ở một “thành phố tưởng tượng” nào đó, tuy nhiên độc giả tinh ý dễ dàng nhận ra trong đó New York, mặc dù tên gọi các đường phố, đại lộ và các địa danh khác đã được thay đổi. “Thành phố” chia thành 5 quận: Isola (Manhattan), nơi đồn 87 đóng, Riverhad (Bronks), Magesta (Quins), Calm-Point (Brooklin) và Bestawn (Steiten-Ireland). Ai đó có thể lấy làm ngạc nhiên rằng hai con sông xuyên qua “thành phố” - Hurb và Dike (Goojon và East-River), chảy về phía tây, trong khi “thành phố” lại nằm bên bờ phía đông. Theo chủ ý của Ed McBain, New York “quay” xung quanh trục của nó, vì vậy phía bắc trở thành phía đông, phía đông trở thành phía nam... phù hợp hoàn toàn với cực từ của trái đất. Đồn 87 nằm ở một vị trí khiến các nhân viên của nó buộc phải trình diễn tài năng trinh thám của mình khi khám phá các vụ tội phạm xảy ra trong các tầng lớp trên, cũng như ở dưới “đáy” xã hội của nước Mỹ. Phạm vi của đồn bao quát cả những khu sang trọng, vùng ngoại vi trù phú, phần lãnh thổ, nơi sinh sống của đại diện giai cấp trung lưu, lẫn các khu nhà ổ chuột, phố “đèn đỏ”, và thậm chí một số biệt thự kiến trúc kiểu gothique cổ kính. Các cuốn tiểu thuyết của Ed McBain đáp ứng tất cả những tiêu chuẩn của thể loại trinh thám. Hoạt động trong đó không chỉ là một người hùng đơn độc, mà còn cả một đội cảnh sát nhà nghề được phối hợp chặt chẽ. Thậm chí nếu một nhân vật nào đó của Ed McBain trở nên vượt trội (ví dụ, trong nhiều tiểu thuyết công lao khám phá tội phạm thuộc về Stev Carrele), hành động của anh ta cũng không thể mang lại những kết quả mong muốn, nếu như không có sự giúp đỡ và ủng hộ của các thám tử khác. Đồn 87 có cái gì đó giống như Con thuyền Noe, nơi tập hợp rất nhiều những con người khác nhau, được liên kết bởi một mục đích chung: quét sạch bọn tội phạm, xây dựng cuộc sống trong “thành phố” trở nên hạnh phúc và bình yên. Trong số đó có Trung úy Berne, Cảnh sát trưởng, được các nhân viên cấp dưới của mình, thậm chí cả bọn tội phạm nể trọng; Meier Meier, một thám tử cực kỳ chịu khó, xuất thân từ một gia đình gốc Do Thái, tuổi thơ của anh ta trôi qua trong sự đụng độ của những tín điều; Bert Kling trong cuộc sống và trong công việc không tìm kiếm những con đường dễ dãi, vì vậy anh đã phạm phải rất nhiều sai lầm mà lẽ ra có thể tránh được; Coton House, con trai của một linh mục đạo Tin Lành được phái đẹp hết sức hâm mộ, cũng như những chiến binh tận tụy khác đấu tranh vì sự bình yên của những người dân lương thiện. Một điều hết sức đặc trưng đối với Ed McBain là nhân vật của ông không phải là những con người xơ cứng, bất biến, không phải là những chiếc mặt nạ nào đó, ngược lại, họ biết tận hưởng cuộc sống, trưởng thành và hoàn thiện tài năng của mình. Nhân vật Stev Carelle là một ví dụ, một cảnh sát mẫu mực “đến tận xương tủy”. Thông thường, khi một nhà văn gặt hái được thành công ban đầu thì anh ta hay sản xuất ra những tác phẩm na ná nhau cho tới khi độc giả chán ngấy sự đơn điệu đó. Tuy nhiên, đối với Ed McBain, điều đó đã không xảy ra. Ông không bao giờ ngần ngại thử nghiệm. Trong tiểu thuyết “Cái nêm” có hai cốt truyện cùng phát triển song song, thoạt đầu không hề liên quan gì với nhau: một bên là câu chuyện khủng khiếp về một người phụ nữ mất trí vì quá đau khổ đã dọa đánh bom Đồn 87, và bên kia là một thủ pháp hơi lỗi mốt, khi một nhân vật xuất thân từ thành phần bất hảo đã trở thành kẻ sát nhân và chỉ bằng con đường suy diễn logique các thám tử mới vạch mặt được kẻ tội phạm. Hai cốt truyện này nối với nhau bằng một biểu tượng nào đó được tác giả gửi gắm trong tên gọi của tác phẩm. “Giá của sự ngờ vực” là câu chuyện về một “vụ giết người lý tưởng”, hơn nữa tác giả còn thử nhìn các sự kiện bằng con mắt của kẻ tội phạm, trong khi các thám tử thể hiện vai trò của mình một cách mờ nhạt. Tiểu thuyết “Công việc bình thường” đáng chú ý bởi trong đó có sự tham gia của hầu hết các thám tử thuộc Đồn 87 và họ buộc phải khám phá 14 vụ án. Tiểu thuyết “Sợi lông tơ” là một hài kịch, mặc dù luôn luôn tỏ ra làm việc căng thẳng, các nhân viên cảnh sát không thể vượt qua được bọn tội phạm. Không thể không nhắc tới nhân vật gã Điếc rất thành công của Ed McBain - đó là một kẻ bất khả chiến bại, may mắn thoát chết trong tiểu thuyết “Tên cướp”, lại xuất hiện trong tiểu thuyết “Sợi lông tơ” và muộn hơn trong “Hãy nghe gã điếc nói gì”. Mỗi một cảnh có sự tham gia của nhân vật này đều một pha mạo hiểm tiếp theo của y mà các thám tử tìm mọi cách ngăn chặn. Nhưng gã điếc đều thoát chết và lành lặn sau những hoàn cảnh hiểm nghèo, để rồi lại bất ngờ xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết tiếp theo nào đấy. Ed McBain được công nhận là một bậc thầy về văn xuôi trào phúng. Thực sự không một cuốn tiểu thuyết nào về Đồn 87 thiếu chất hài hước, điều này góp phần làm nên thành công của chùm tiểu thuyết nói trên. Chính chất hài hước đã “hồi sinh” các nhân vật, vì những nguyên nhân nào đó mà chân dung tâm lí của họ chỉ được tác giả phác qua một cách sơ sài. Tất nhiên, đôi khi trong các tác phẩm của Ed McBain bạn đọc cũng bắt gặp những hoàn cảnh và số phận bi kịch thực sự, nhưng chính chất hài hước đã trở thành một phẩm chất lành mạnh của toàn bộ chùm tiểu thuyết của ông Mời các bạn đón đọc Những Vụ Án Nổi Tiếng Thế Giới: Món Nợ Truyền Kiếp của tác giả Ed McBain.
Nghiệp Ác
Khi tiểu thuyết gia Owen Quine, mất tích, vợ ông tìm đến thám tự tư Cormoran Strike. Thoạt đầu, bà ngỡ chồng mình chỉ đi đâu đó vài ngày, nên nhờ Strike tìm ông về. Nhưng khi bắt tay vào điều tra, Strike phát hiện đằng sau vụ mất tích của Quine còn nhiều điều hé lộ. Nhà văn này vừa hoàn thành một bản thảo châm chọc sâu cay hầu như tất cả mọi người ông quen. Nếu tiểu thuyết này được xuất bản, nó sẽ hủy hoại cuộc sống rất nhiều người - thế nên không ít kẻ muốn nhà văn phải im lặng. Khi phát hiện xác Quine bị giết trong một hoàn cảnh cực kỳ quái gở, thám tử Strike bắt đầu cuộc chạy đua với thời gian để tìm hiểu động cơ của kẻ giết người… Một tiểu thuyết tội phạm với liên tiếp những nút thắt và chuyển ngoặt bất ngờ. Con Tằm là cuốn thứ hai trong bộ tiểu thuyết lừng danh về chàng thám tử Cormoran Strike và cô trợ lý trẻ trung Robin Ellacott của tác giả Robert Galbraith, bút danh khác của nữ nhà văn J.K.Rowling. *** Tập 3 trong bộ trinh thám về thám tử Cormoran Strike và trợ lý Robin của tác giả Robert Galbraith (bút danh khác của J.K. Rowling), tiếp theo "Con chim khát tổ" và "Con Tằm". Thay vì 1, lần này có đến 4 kẻ tình nghi với những manh mối mơ hồ, trong khi tội ác diễn ra liên tiếp cần được chặn đứng tức thì. Kịch tính, bất ngờ, "Nghiệp Ác" có tiết tấu nhanh và tình tiết phức tạp hơn hẳn hai tập trước, khiến người đọc phải tò mò về hung thủ đến tận những trang cuối cùng. ...*** Truyện mới ra đầu năm nay nên trên mạng chưa thấy trang nào review :D thôi đành tự nhận xét vậy: Tiếp nối truyền thống 2 tập trước, tập này vẫn rất dày, vẫn lối kế chuyện ấy, tình tiết khá phức tạp (có tới 4 kẻ tình nghi lận) làm ông Strike nhà mình phải nhọc công điều tra ra phết. Xen kẽ đó như thường lệ vẫn là chuyện tình cảm giữa Robin, sếp Strike và anh chống sắp cưới Matthew. Người ta thường nói "quá tam ba bận", cái gì lặp đi lặp lại mãi cũng nhàm, xét trên khía cạnh nào đó thì Nghiệp Ác cũng vậy. Dù được giới thiệu trước là có đến 4 nghi can giết người, nhưng đọc vẫn thấy chỉ như quyển 1,2 chả có gì mới mẻ hơn. Tuy thế những nét đặc trưng làm nên thành công cho bà Rowlings thì vẫn được phát huy, bởi thế theo mình truyện này vẫn có thể xem là hay được :) Về vụ án thì phải nói là tuy nhiều nghi can nhưng khá ngạc nhiên là thủ phạm lại dễ đoán hơn 2 tập trước, bạn nào tinh ý đọc khoảng nửa quyển là đoán được rồi. Dù cuối truyện kết quả có hơi bất ngờ tí nhưng cơ bản vẫn là hắn :004: Dịch thuật: mình không đọc nhiều lắm, không biết các truyện khác dịch thế nào nhưng bộ 3 truyện của bà Rowlings đều được dịch rất tốt, sát nghĩa mà vẫn thuần Việt, thể hiện được những nét riêng của từng nhân vật. 1 like cho bạn Như Mai :v P/s: Nếu bạn nào đọc để biết xem mối tình tay ba Robin - Strike - Matthew diễn biến thế nào thì không thể bỏ qua tập này, cái kết có hậu *** Y vẫn chưa thể gột hết được máu ả. Một lằn đen như dấu ngoặc đơn nằm dưới móng ngón giữa tay trái. Y toan cạo sạch đi, nhưng cũng khá thích thú khi thấy dấu vết ấy: chút dấu vết gợi nhớ những khoái cảm ngày trước đó. Sau một phút kỳ cọ vô ích, y đưa móng tay dính máu lên miệng mút. Vị hăng sắc lạnh gợi nhớ đến mùi của dòng tuôn xối xả, vung vãi lên nền nhà lót gạch, tung tóe lên tường, tưới đẫm quần jeans của y và biến đám khăn tắm màu quả đào được xếp gọn gàng, mềm mại, khô ráo thành mớ giẻ đẫm máu. Màu sắc như tươi hơn trong buổi sáng nay, thế gian như đáng yêu hơn. Y thấy tĩnh tâm, khoan khoái, như thể y đã hấp thụ ả, như thể mạng sống của ả đã được truyền vào y. Chúng thuộc về ta một khi ta đã giết chúng: một sự chiếm hữu vượt xa tình dục. Nhìn vẻ mặt chúng trong khoảnh khắc lìa đời cũng đã là một trải nghiệm gần gũi sâu xa mà hai kẻ còn sống chẳng bao giờ có được. Y ngất ngây phấn khích với ý nghĩ không ai biết chuyện y đã làm, hay chuẩn bị làm tiếp. Y mút ngón giữa, sung sướng, bình thản, đứng dựa vào bức tường ấm áp trong ánh nắng tháng Tư yếu ớt, mắt dán vào ngôi nhà đối diện. Chẳng phải nhà ngon nghẻ gì. Tầm thường. Nói đúng ra chỗ này vẫn khá hơn căn hộ tí teo nơi có mớ áo quần vấy máu khô cứng đang nằm trong túi rác đen, đợi mang đi đốt; nơi con dao của y lóe sáng, con dao đã được rửa sạch bằng thuốc tẩy, nhét kỹ sau ống nước bồn rửa chén. Ngôi nhà có vườn nhỏ phía trước, thêm hàng song sắt đen và bãi cỏ rậm rạp. Hai cánh cửa trước màu trắng chen chúc cạnh nhau, cho thấy ngôi nhà ba tầng đã được cải tạo thành các căn hộ ở mỗi tầng. Một đứa con gái tên Robin Ellacott sống ở tầng trệt. Mặc dù y đã chú tâm tìm cho ra được tên thật của ả, trong đầu y chỉ gọi là Ả Thư Ký. Y vừa thấy ả ngay trước cửa sổ lồi, mái tóc sáng màu dễ nhận biết. Ngắm Ả Thư Ký, với y, là một thứ phụ gia khoái cảm. Vẫn còn mấy tiếng đồng hồ nữa, vậy là y quyết định đến đây ngắm ả. Hôm nay là ngày nghỉ, giữa vinh quang của ngày hôm qua và ngày mai, giữa cảm giác thỏa mãn về việc đã làm và cơn phấn khích về việc sẽ đến. Cánh cửa bên phải đột ngột mở, Ả Thư Ký bước ra, đi cùng với một tay nữa. Vẫn dựa vào bức tường ấm áp, y nhìn dọc theo con phố, quay một bên mặt về phía chúng, như thể đang đứng đợi bạn. Cả hai không để ý gì đến y. Chúng bước xuống đường cùng nhau. Để chúng đi được một phút, y quyết định bám theo. Ả mặc quần jeans, áo khoác mỏng, mang giầy bốt đế bằng. Mớ tóc dài gợn sóng hung hung đỏ trong nắng. Y thấy dường như giữa hai người có chút lạnh lùng, chẳng thấy nói năng gì. Y biết cách đọc người ta. Y đã đọc và quyến rũ được đứa con gái ấy, kẻ đã chết hôm qua giữa mớ khăn lông màu quả đào đẫm máu. Dọc theo con đường dài toàn nhà dân, y bám theo, tay đút túi, lững thững như đang đi mua sắm, cặp kính râm không có gì bất thường trong buổi sáng rực nắng. Cây cối khẽ gợn sóng trong cơn gió xuân nhè nhẹ. Đến cuối đường cả hai rẽ trái vào con ngõ rộng, tấp nập, đầy văn phòng công ty. Cửa sổ kính nguyên tấm lấp lánh trong nắng trên đầu y khi theo chúng đi ngang qua tòa nhà hội đồng quận Ealing. Giờ đây tên bạn cùng nhà hay bồ bịch hay gì gì nữa của Ả Thư ký - một tay tóc tai tỉa tót, cằm vuông - đang nói gì đó. Ả đáp trả cộc lốc, không mỉm cười. Đàn bà thật ti tiện, ích kỷ, dơ bẩn, nhỏ nhen. Đám đĩ thõa chuyên hờn mát, tuyền một giuộc, lúc nào cũng chỉ chờ đàn ông chiều chuộng. Chỉ đến khi nằm chết, trống rỗng trước mắt ta, chúng mới trở nên thuần khiết, bí hiểm, thậm chí là tuyệt diệu. Khi đó chúng là của ta hoàn toàn, chúng không thể cãi lại, không thể vùng vẫy hay bỏ đi, ta muốn làm gì tùy thích. Thân xác ả hôm qua nằng nặng, thõng thượt khi y đã tháo hết máu: món tiêu khiển, thứ đồ chơi to bằng người thật của riêng y. Xuyên qua trung tâm mua bán Arcadia nhộn nhịp, y theo bước Ả Thư Ký và tay bồ, lượn lờ sau chúng tựa như bóng ma hay thần linh. Liệu khách mua sắm ngày Thứ Bảy có thấy được y chăng, hay dường như y đã biến hóa, sống động khôn lường, như thể có phép tàng hình? Chúng dừng lại ở trạm xe buýt. Y lảng vảng gần đó, giả vờ nhìn qua cửa nhà hàng cà-ri, rồi nhìn đám hoa quả chồng chất phía trước hàng rau, nhìn tiếp mớ mặt nạ Hoàng tử William và Kate Middleton bằng cạc-tông treo trên cửa sổ sạp báo như đang ngắm nghía bóng mình trong gương. Chúng sắp lên xe số 83. Y chẳng còn bao nhiêu tiền trong túi nhưng đang sung sướng ngắm ả, y chưa muốn dừng. Khi lên xe, y nghe tay bồ nói tên trạm Wembley Central. Y mua vé rồi theo cả hai lên tầng trên xe buýt. Hai đứa ngồi cạnh nhau, ngay trước mũi xe. Y chọn chỗ gần đó, cạnh một mụ cau có vì phải kê lại mớ túi mua đồ khi y đến. Giọng chúng thi thoảng át tiếng nói chuyện lao xao trên xe. Khi không nói gì, Ả Thư Ký nhìn qua cửa sổ, mặt lạnh lùng. Rõ là ả chẳng muốn đi đến nơi đó, y chắc chắn vậy. Khi ả vuốt tóc ra khỏi mắt, y nhác thấy nhẫn đính hôn. Vậy là ả sắp kết hôn… hay ả cứ tưởng thế. Y giấu nụ cười mơ hồ trong cổ áo khoác bẻ lên. Nắng ấm ban trưa đổ vào qua cửa xe lấm tấm bụi. Một đám đàn ông lên xe, ngồi kín các ghế xung quanh. Vài người trong số đó mặc áo rugby hai màu đỏ đen. Đột nhiên y cảm thấy như thể ngày nắng rực vừa nhạt đi. Đám áo đó, với hình trăng lưỡi liềm và sao, gắn liền với những thứ y vốn chẳng ưa gì. Những thứ ấy gợi nhắc đến khoảng thời gian y không hề thấy mình là thần thánh. Y không muốn ngày vui hôm nay lại bị lem nhem vấy bẩn bởi những ký ức cũ, những ký ức tồi tệ, nhưng cảm giác hân hoan trong y đột nhiên cạn dần. Giờ đây y giận sôi - một thằng choai choai trong đám bắt gặp ánh mắt y, liền vội vã nhìn ra xa, hoảng hốt - y đứng dậy, đi về phía cầu thang. Một cặp cha và con trai đứng vịn chặt cây cột cạnh cửa xe. Cơn giận bùng nổ sâu trong gan ruột: đáng ra y cũng có một đứa con trai. Đúng hơn, đáng ra y vẫn còn có một đứa con trai. Y mường tượng thằng bé đứng cạnh mình, ngước nhìn mình, thần tượng mình - nhưng đứa con trai ấy đã không còn, tất cả chỉ vì một gã có tên Cormoran Strike. Y sẽ trả thù Cormoran Strike. Y sẽ làm cho hắn lụn bại. Khi đến vỉa hè y nhìn lên cửa sổ trước xe, thoáng thấy mái tóc vàng rực của Ả Thư Ký lần cuối. Y sẽ gặp lại ả trong chưa đến hai mươi bốn giờ tới. Ý nghĩ đó làm nguôi đi cơn giận đột ngột vừa bị mấy cái áo rugby đội Saracens khuấy lên. Chiếc xe buýt gầm gào lăn bánh rời đi, y sải bước theo hướng ngược lại, vừa đi vừa tự an ủi mình. Y đã sẵn một kế hoạch tuyệt vời. Không ai hay biết. Không ai nghi ngờ. Và còn có một món vô cùng đặc biệt đang đợi y trong tủ lạnh ở nhà.   Mời các bạn đón đọc Nghiệp Ác của tác giả Robert Galbraith.
Mật Danh Hoàng Hôn - Pierre Rey
Los Angeles với mười hai triệu cư dân, một siêu đô thị của Thiên nhiên kỷ thứ ba, một thành phố huyền thoại.​ Beverly Hills, Bel Air, Hollywood... những đồng tiền tỉ, những khu ổ chuột, những chuyện hoang đường... một nơi đầy ánh nắng, cây xanh, trời rộng, hồ bơi... Cho đến ngày Kostia Vlassov, một nhân vật cánh tả từ Nga đặt chân đến. Hắn trẻ tuổi, đẹp mã, và cháy túi. Rồi đột nhiên, tấm bưu thiếp rách tan, mặt trước nát bươm và mọi bí mật của thành phố lộ ra dưới một cái bẫy ngoạn mục, nó đập vào mắt ta cảnh tượng khu ổ chuột ở Down Town, tiệm massage trong phòng khám của các con nghiện, những đêm thác loạn với trò rodéo chết người ở Hells Angels, rồi đến bãi biển Malibu chỗ nhà thổ Colombie, những người hùng đồng tính, và cả studio của Jenny nơi sản xuất những giấc mơ. Jenny. Minh tinh màn bạc đình đám bậc nhất... Vô cùng giàu có, được sùng bái hết mực, bị trầm cảm, không thể sống thiếu thuốc. Cô tìm thấy gã người Nga dưới gầm giường mình. Một cuốn tiểu thuyết nghẹt thở, dồn dập, không thể đoán trước, mạnh mẽ như Cocain, và thật hơn cả sự thật. Chỉ có Pierre Rey mới viết được nó. Los Angeles, có sống mới biết.​ *** Kostia nhìn hai gã ngồi đối diện, bên kia chiếc bàn bé tẹo. Cả hai mặt mũi đỏ gay, trong bộ đồ dạ màu tối, thắt chiếc cravát đen gớm chết như sợi dây quấn cổ, mắt nhìn li rượu sake trước mặt. Kostia chỉ uống trà thôi. Còn Boris và Rodion đã quật ngã nhiều can bia Kirin nhậu với món gỏi cá hồi. Lúc này bữa nhậu đã tàn. Nhiều khách lục tục đứng lên. Kostia ra hiệu tính tiền. Hai thiếu phụ trẻ kín đáo bước vào quán ngồi xuống quanh chiếc bàn vừa vắng khách. Từ cuối phòng, một hầu bàn cất giọng giễu cợt: - Zubicô! Zubicô! - Nó nói gì với hai cô ả? Rodion hỏi. Rodion cũng như Boris không biết tiếng Nhật. - Nó bảo hai con bé đó là đồ đĩ, Kostia đáp. Rodion trợn mắt sửng sốt. - Cậu không đùa đấy chứ? - Hoàn toàn không. - Nó quen biết họ? - Có lẽ không? - Thế tại sao? - Lệ ở đây như vậy. Nhiều hầu bàn khác hùa theo. Hai thiếu phụ khinh bỉ nhìn họ. Không người nào dám nhìn lại nhưng tiếng châm chọc vẫn nối nhau ồn ào. - Zubicô! Zubicô! - Bọn đĩ điếm! Kostia dịch. - Kitanai yarô! - Đồ lợn nái thối thây! Kostia dịch tiếp. Một giọng the thé trùm lên tiếng ồn ào: - Kusô baba! Kostia cắn môi, cúi mặt tỏ vẻ lúng túng. Rodion đưa mắt háo hức nhìn anh ta. - Túi cứt, Kostia nói. - Chưa từng nghe như vậy bao giờ! Boris lẩm bẩm. Kostia nhún vai, chỉ vào đám hầu bàn. ... Mời các bạn đón đọc Mật Danh Hoàng Hôn của tác giả Pierre Rey.
Con Vịt Chết Chìm - Erle Stanley Gardner
Con Vịt Chết Chìm còn được biết tới với tên "Mười Tám Năm Sau". Quá khứ bị khơi dậy, các nhân vật của vụ án xưa bị cơn lốc xô đẩy về vùng đất hẻo lánh ở miển Viễn Tây và gây ra tội ác mới hòng che lấp tội ác cũ... Tất cả những trò ranh ma của con người, những lắt léo của luật pháp đã không thắng nổi luật sư Perry Mason tài ba có sự trợ giúp của chàng thám tử Paul Drake và cô thư k‎ý xinh đẹp Della Street. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Trong phòng kính - làm việc của cửa hàng hoa Faulkner Mildreth Faulkner đang ngồi bên bàn, cẩn thận chọn một bông paxten(1) xanh. Cô luôn luôn dùng hoa paxten để điểm xuyết các kiểu xếp hoa của mình. Đặt bông hoa xuống bên trái tờ phác thảo phòng ăn của gia đình Ellsworth, cô bắt đầu nghiên cứu các mẫu xếp hài hòa với loại nến màu lá cây nhạt mà cô Ellsworth định dùng thắp sáng. Có tiếng gõ vào kính. Mildreth ngẩng lên và nhìn thấy Harry Peavis. Đẩy các bản vẽ sang một bên, cô ra hiệu mời khách vào. Ông khách nhận lời mời như một điều tất nhiên và không biểu lộ chút tình cảm nào. Đó là một người to lớn, xương xương, bắp thịt rắn chắc, vai và đôi bàn tay còn giữ được dấu vết của nghề chủ trại mà ông ta đã làm thời trai trẻ. Hiện tại, sau khi đã giàu có nhờ độc quyền gần như hoàn toàn ngành bán lẻ hoa; ông ta rất chịu khó phô mình trong tư thế một nhà kinh doanh vận đỏ. Những ngón tay bị biến dạng vì lao động nom thật lạc điệu với móng tay được gọt sửa và bộ com lê cắt quá đẹp của ông ta. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #20 Con Vịt Chết Chìm của tác giả Erle Stanley Gardner.