Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ảo Ảnh Vàng Son

Tên truyện : Ảo Ảnh Vàng Son Nguyên tác : Une Misère Dorée Tác giả : Delly Dịch giả : Mai Thế Sang Thể loại : Văn học nước ngoài Đánh máy (vietlangdu.com) : maylangthang, thanhbinhdat Chuyển sang ebook (TVE): santseiya "Một gia đình công hầu muốn mời đến ăn và ở trong lãnh địa của mình, một gia đình từ hai đến ba người là cùng, có danh giá, có giáo dục ưu tú, có khả năng dạy học cho ba đứa trẻ. Nơi ở tốt, tại một trong những vùng rừng đẹp nhất của nước Áo. "Viết cho hòm thư lưu: I.L... Defelden. "Cần thiết phải có những chứng chỉ nghiêm túc" Giáo sư Lienkwicz bỏ tờ báo đang đưa sát đôi mắt cận thị. Trên bộ mặt thanh tú héo hắt vì tuổi tác, vì lo âu và vì những nỗi đau thể xác, cặp mắt ông suy nghĩ - cặp mắt trong sáng, dịu hiền và hơi ưu tú - hiện rõ tâm hồn Adrian Lienkwicz, một người đáng mến, thân thiết và điềm đạm nhưng hơi mềm yếu, dễ thất vọng với những thử thách đường đời. Tâm hồn dễ thương, tinh tế, ưa thích quá khứ xa xăm và những câu chuyện cổ, có khả năng hy sinh thân mình cho nhiệm vụ mà không hề phàn nàn, nhưng lại kém sẵn sàng hành động và đấu tranh. Thời niên thiếu ông học tại trường Đại học Vienne. Ông được các bạn bè yêu mến đồng thời họ cũng quấy rầy ông. Họ chế giễu tính nhịn chịu, chăm học và ôn hoà của ông. Tuy nhiên họ cũng bị chinh phục bởi con người tươi vui và hoà nhã ấy, có tính độ lượng đến khinh suất, biết hoà giải những tay kiếm hung hăng nhất và không biết cách từ chối bất kỳ ai cần đến sự giúp đỡ của mình về vật chất hay tinh thần. Thời thanh niên, ông chinh phục được trái tim cô Elizabeth Zulman, con gái một thầy giáo. Quy luật tương phản đã hấp dẫn đôi trai gái tính tình khác hẳn nhau ấy. Cô gái bản chất thích đấu tranh, cương quyết và có nghị lực, nàng đã cứu vãn được những di vật của gia tài họ Lienkwicz. Tính độ lượng của giáo sư Adrian đôi khi không hợp thời được ngăn chặn bởi trí thông minh bình tĩnh và đôn hậu của bà giáo. Đó là một gia đình hạnh phúc cho đến khi một căn bệnh hiểm nghèo ập đến cướp mất người bạn đời rất thân thiết ấy và để lại Adrian một mình với hai đứa con dại, đứa lớn mới mười tuổi. Là một người cha dịu hiền và tận tâm, Adrian không muốn xa rời hai con, ông mướn một nguời đàn bà vừa để trông nom và giáo dục các con vừa làm quản gia. Nhưng ông giáo hiền lành là một ông chủ mù quáng, và gia tài của ông chẳng bao lâu bị rút dần rút mòn, trước hết bởi mụ quản gia chẳng mấy tí chu đáo. Lại còn bị đám bạn bè xấu, ăn hại vô liêm sỉ đến nỗi ngày mà Adrian mệt mỏi, thấy mình buộc lòng phải rời bỏ chức vụ giáo sư, ông kinh ngạc nhìn thấy nguồn lợi tức của mình chỉ còn vỏn vẹn để sống với hai đứa con. Đó là một đòn gánh nặng giáng vào con người đã hoàn toàn suy sụp về thể xác. Ông lâm bệnh và được con gái ông là Marysia "kho báu và trí tuệ của ông" như ông thường gọi, chăm sóc một cách tuyệt vời. Thời kỳ dưỡng bệnh, buộc lòng ông phải rời bỏ căn nhà tiện nghi để đến một căn nhà hẹp hơn. Sức khỏe chỉ cho phép ông dạy học trò vừa đủ nuôi một gia đình nhỏ do cô gái Marysia điều khiển một cách khéo léo, nhờ thừa hưởng của bà mẹ những đức tính cao đẹp. Cả ba bố con sống thanh bạch như vậy trong cảnh khó khăn và thường được một số bạn cũ đến thăm. Thử thách lớn nhất cho gia đình là tình trạng tàn tật của Alexy, em trai Marysia. Bệnh bại liệt đã làm hai chân cậu bé không cử động được. Thầy thuốc mới đây đã tuyên bố là khí hậu ở Vienne không thích hợp cho bệnh nhân và không khí trong lành ở miền quê, nhất là miền rừng núi, nếu không chữa khỏi bệnh cũng làm giảm được bệnh một cách đáng kể. Từ đó ông giáo sư và cô con gái tìm kiếm một sự phối hợp nào đó để có thể chữa bệnh mà không tốn nhiều tiền. Phải chăng cái thông cáo ở cuối trang báo này là giải pháp cho vấn đề của ông Adrian! Ông quay về phía một cánh cửa mở và cất tiếng gọi: - Marysia! Có tiếng động ghế ở phòng bên rồi một cô gái cao và mảnh xuất hiện ở khung cửa. Trong bộ quần áo lao động giản dị, Marysia Lienkwicz có một dáng đi đặc biệt thanh nhã. Không có những nét đều đặn tuyệt đối, nhưng Marysia đẹp hơn cả đẹp, với diện mạo duyên dáng vừa dịu hiền vừa thanh tao, với sự tương phản của bộ tóc rất đen có những búp xoăn bóng loáng, với cặp mắt màu xanh thẫm phản chiếu một tâm hồn nồng nhiệt và trong sáng. Cô gái sốt sắng hỏi: - Gì thế, ba yêu quý? - Con hãy đọc đây này. Cô thiếu nữ cầm tờ báo lên, liếc qua bài báo rồi nhìn cha vẻ dò hỏi. - Con ạ, ba thấy hợp với chúng ta đấy. - Vâng, một miền rừng núi, tuyệt quá. Nhưng còn cần phải có thêm những chi tiết khác? - Tối nay ba sẽ viết. Alexy có vẻ mệt mỏi hơn, ba muốn nhanh chóng đưa em con ra khỏi nơi trật hẹp thiếu không khí này. Một nếp nhăn lo lắng hiện ra trên vầng trán rất trắng của Marysia: - Vâng, ở đây em con xanh xao lắm. Cả ba nữa! Chắc chắn là không khí đồng quê sẽ mang lại lợi ích to lớn. - Ba cũng tin vậy. Cả con nữa, con cũng sẽ khá hơn. Trông con có vẻ mệt mỏi lắm rồi. Con đã phải làm việc quá sức mình để chăm sóc em con và ba. Ba chẳng còn làm được việc gì nữa. Marysia cúi xuống đưa bàn tay vuốt ve cổ cha, hôn lên vầng trán đã nhăn nheo của cha và thỏ thẻ: - Thưa ba yêu quý, nếu ba biết được những nhiệm vụ đó đối với con thân thiết biết bao, con gái ba sẽ rất sung sướng được chăm sóc ba và em con với tất cả tình thương yêu của mình. Và con còn muốn được làm nhiều hơn thế nữa kia. Cặp mắt xúc động của ông Adrian nhìn vào khuôn mặt đẹp đang cúi xuống: - Ừ, ba vẫn biết là con là đứa con ngoan. Ba biết là con rất thương yêu người cha tội nghiệp của con lúc nào cũng ốm yếu. Nhưng lòng ba mong muốn biết bao được thấy con thanh bình và sung sướng, giải thoát khỏi những công việc lặt vặt và được tự do phát triển trí thông minh mà Chúa đã ban cho con. Một nụ cười rất tươi nở trên môi cô gái: - Thưa ba thân mến, thực tâm con chỉ yêu cầu một điều, đó là được tiếp tục hầu hạ ba và em con, được ba và em con yêu mến, giữ được hoạt động và can đảm mà Chúa đã ban cho con. Được như vậy, chừng nào con còn được giữ lòng tin Chúa, Marysia của ba sẽ không bao giờ bị đau khổ... Kìa, món xúp đã được rồi. Thiếu nữ lao vào trong bếp. Giáo sư cũng đứng lên và cảm động thì thầm: - Lúc nào nó cũng vui vẻ... Và dũng cảm nhường kia. Lạy Chúa, người nhân từ biết bao đã cho con một đứa con gái như thế. Ông đi vào phòng bếp, phòng ăn cũng đồng thời là phòng tiếp khách. Trên một chiếc ghế dài đặt trước cửa sổ, một cậu thiếu niên trạc mười lăm tuổi đang nằm. Thấy cha vào, cậu ngoảnh lại nhìn ông, cặp mắt thẫm, quá to đối với khuôn mặt gầy và nổi lên rất đậm trên nước da tái. Diện mạo trẻ trung ấy có một sức hấp dẫn kỳ lạ bởi vẻ đẹp đặc biệt và hơn nữa bởi vẻ đau đớn, chịu đựng. - Con yêu của cha có thấy khá hơn không? Ông dịu dàng hỏi và đưa tay vuốt mái tóc đen rất dày và xoăn của con trai. - Có khá hơn, ba ạ. - Con này, đây là giải pháp giúp chúng ta giải quyết được vấn đề - sau khi thấy con trai đọc xong bài báo, ông hỏi tiếp - Alexy,... con thấy thế nào? - Có lẽ thế, ba ạ. Ba sẽ viết thư chứ? - Ngay bây giờ đây, con ạ! Sau khi đã viết thư trả lời cho địa chỉ I.L... ông trở lại chỗ con trai nằm. Alexy đang giở những trang giấy trong một tập giấy cũ, cậu nói vẻ suy nghĩ: - Cha ơi, thật lạ quá, sao chẳng bao giờ thấy ba tìm nguồn gốc của gia đình chúng ta? Tuy nhiên con thấy hình như ba có thể tìm được một số hướng dẫn ở bên Ba Lan. - Ba cũng đã có bắt đầu đấy chứ. Nhưng khi mẹ con mất, ba nản lòng, nên đã bỏ dở. Ba chỉ biết là ở bên Ba Lan - ba không còn họ Lienkwicz và danh từ đó đã bị lãng quên hoàn toàn. Có lẽ tổ tiên chúng ta từ nhiều thế kỷ nay đã ngụ cư bên Áo. Tuy nhiên cũng thật lạ lùng, chúng ta chẳng có một tờ gia phả nào. Ông con có nói rằng chúng ta xuất thân từ dòng dõi quý tộc, nhưng dù sao cũng chẳng được lợi lộc gì. - Tất nhiên là thế. Tuy nhiên con rất muốn biết tổ tiên chúng ta là những ai và chút ít lịch sử ra sao. Con rất sung sướng được lục tìm trong quá khứ và tất nhiên dĩ vãng của gia đình chúng ta làm con say mê hơn cả. - À. con đúng là con trai của ba. - Giáo sư nói và vui vẻ nắm lấy tay Alexy. - Ở tuổi con, ba cũng có niềm say mê ấy, ba thích nghiên cứu như con nhất là nghiên cứu lịch sử quá khứ. Các bạn ba gọi ba là "ông già tước vị". Thực tế đối với ba không có gì vui thú bằng được lần mò trong tay những tờ giấy thiêng liêng, chứng minh cho thời quá khứ bất hủ... thú thật là lúc nào cũng hấp dẫn ba. Với nó ta quên được một chút hiện tại chẳng vui vẻ gì lắm... - Không, không phải bao giờ cũng thế. Alexy ngước mắt lên trời lẩm bẩm. Mấy ngày sau giáo sư Adrian Lienkwicz nhận được thư trả lời của I.L... bằng nét chữ phụ nữ, bức thư ghi rõ những điều kiện yêu cầu: Có năng lực dạy học mấy đứa trẻ từ mười một đến mười ba tuổi, xuất trình những giấy chứng chỉ tốt nhất, có phong cách nhã nhặn và thanh tú. Được cung cấp một căn hộ có bốn phòng rộng rãi, bày biện đẹp, thực phẩm giản dị và tinh khiết, đun nấu, sưởi tùy ý và có công viên để dạo chơi. Ngược lại, phải lên lớp bốn giờ mỗi ngày và chấm, sửa bài. Bức thư nói tiếp: Nếu những điều kiện thích hợp, xin cho chúng tôi biết về gia đình ông và tôn giáo, những người mà chúng tôi có thể hỏi thăm tình hình. Sau đó chúng tôi sẽ cho biết địa chỉ của chúng tôi. - Ba có thấy thật là bí ẩn không? Marysia hỏi sau khi đã đọc bức thư viết bằng một lối văn lịch sự nhưng khá vắn tắt... Lại vẫn những chữ đầu ấy... - Có lẽ con người đó không muốn phô tên mình ra trước sự tò mò của bất kỳ ai. Cũng là lẽ tự nhiên. Con thấy đấy, người ta rất khó khăn về vấn đề danh giá, như vậy càng tốt. - Vâng, về vấn đề này chúng ta chẳng có gì đáng lo ngại. Còn về những điều kiện khác, chúng ta có đầy đủ chẳng khó khăn. Hai ba con đều có thể lên lớp theo yêu cầu và còn chán thì giờ để cha hoàn thành cuốn "Lịch sử Ba Lan", còn con để làm việc nhà. Tình hình có vẻ dễ chịu đấy. Nhưng cũng cần phải tìm hiểu trước. Giáo sư viết cho địa chỉ không quen, trả lời chi tiết những yêu cầu và cho biết những người danh giá để hỏi thăm tình hình về ông. Mười lăm ngày trôi qua không có trả lời. Nhưng rồi một buổi sáng người đưa thư trao cho Marysia một phong bì có dấu gia huy, dán tem, đóng dấu bá tước quan. Nét chữ vẫn cùng một người đã viết bức thư trước. Marysia vội chạy vào phòng ăn đưa bức thư cho cha: - Ba ơi, đây là thư trả lời. Giáo sư vội bẻ dấu niêm phong và đọc to: "Kính thưa giáo sư, Những chứng chỉ của ông làm tôi thoả mãn hoàn toàn, cả về gia đình ông nữa. Nếu ông đã quyết định, xin ông cho biết. Về phần tôi, chúng tôi đã sẵn sàng tiếp đón gia đình tôi đến Runsdorf, lâu đài của chúng tôi đấy, ngoài giờ học, ông được hoàn toàn tự do. Vậy tôi chờ đợi câu trả lời chính thức của ông. Thưa giáo sư, kính chúc... IOLANTHE Nữ bá tước Lendau, Lâu đài Runsdorf-Dufelden". - Ôi, ôi, một dòng họ đại quý tộc. Giáo sư nói. Lendau là một gia đình cổ kính, dòng họ gần gũi của hoàng thân. Các con thấy thế nào? - Thưa ba, Marysia nói, con thấy là về phần chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào đã, mặc dù họ nhà Lendau là quý tộc. - Con nói đúng, con gái khôn ngoan của ba. Nhưng hỏi ai bây giờ? - Ba có một gia đình ông bạn thân là Conrad Duntz làm giám thủ[1] lãnh địa Nunsthel ở ngay gần Dufelden có phải không? Giáo sư vỗ vào trán đáp: - À, đúng rồi. Vấn đề là ở đây. Ba sẽ viết thư cho ông ấy và yêu cầu trả lời ngay, để cho bà đại quý tộc ấy đỡ phải chờ lâu. Mấy ngày sau nhận được thư trả lời của ông giám thủ do con trai ông viết: "Bố cháu gặp tai nạn xe cộ bị gẫy tay. Nếu không bố cháu chẳng chịu nhường cho cháu thú vui được viết thư trả lời bác... Runsdorf là một cơ ngơi rất cổ kính, rất rộng lớn, ở trong một thung lũng cách Dufelden mười kilomet. Mời các bạn đón đọc Ảo Ảnh Vàng Son của tác giả Delly.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh
Mắt biếc là một tác phẩm của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong loạt truyện viết về tình yêu của thanh thiếu niên của tác giả này cùng với Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu về Nguyễn Nhật Ánh, từng được dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản. Mắt biếc kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Ngạn sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng tên là làng Đo Đo (thuộc xã Bình Quế - huyện Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam - cũng là nguyên quán của tác giả). Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm có đôi mắt tuyệt đẹp tên là Hà Lan. Tuổi thơ của Ngạn và Hà Lan gắn bó với bao nhiêu kỉ niệm cùng đồi sim, đánh trống trường... Tình bạn trẻ thơ dần dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng ra thành phố để tiếp tục học. Khi tấm lòng của Ngạn luôn hướng về Hà Lan và về làng, thì Hà Lan không cưỡng lại được cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Việc Hà Lan ngã vào vòng tay Dũng - một thanh niên nhà giàu, sành điệu, giỏi võ nhưng rất thiếu đứng đắn - đã làm cho Ngạn đau khổ rất nhiều, nhưng điều Ngạn cần là hạnh phúc của Hà Lan. Mỗi khi Dũng làm Hà Lan tổn thương cô lại tìm Ngạn để nói lên bầu tâm sự, điều đó lại càng làm cho Ngạn buồn thêm. Có lần Ngạn đã đánh nhau với Dũng vì Hà Lan và kết quả tất nhiên là Ngạn thua nhưng nó đã làm cho Ngạn bớt đi tính anh hùng, sẵng sàn đánh nhau mỗi khi Hà Lan bị bắt nạt. Và cũng từ đó những cảm xúc mỗi khi Hà Lan tìm đến Ngạn để giải bầy niềm tâm sự giảm đi. Hà Lan mang thai, nhưng bị Dũng ruồng bỏ. Cô đành gửi con về cho bà ngoại chăm sóc và đặt tên là Trà Long. Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình, Hà Lan vẫn không đáp lại vì cô hiểu rõ mình muốn sống theo một lối sống hoàn toàn khác với Ngạn. Bằng tình yêu của mình dành cho Hà Lan, Ngạn hết lòng yêu thương và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên trở thành cô giáo trường làng, và vô cùng yêu quý Ngạn. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự nối tiếp những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn, thì Ngạn quyết định ra đi vì anh nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi. *** "Giọng văn trong Mắt biếc rất hay và nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng. Sau khi đọc truyện này, tôi bỗng muốn đi Việt Nam". - Nhà thơ TAKATSUKI FUMIKO (Nhật Bản) "Tôi rất đồng cảm với nội tâm của nhân vật Ngạn trong tác phẩm Mắt biếc. Tôi đã rơi nước mắt trước tâm hồn vô tư và sự hy sinh của Trà Long, qua đó tôi suy nghĩ nhiều về bối cảnh xã hội Việt Nam". - Nhà văn INAZAWA JUNKO (Nhật Bản) *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những phán quyết khắt khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, hai người hai thiên hướng khác nhau, đời chia hai ngả, gần hai mươi năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau hai lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu. Tôi nhớ Hàn Mặc Tử: Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn kia bỗng dại khờ Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp chín, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó. ... Mời các bạn đón đọc Mắt Biếc của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Kamanita: Kẻ Hành Hương - Gjellerup Karl
Câu chuyện về mối tình ngang trái giữa chàng thương nhân Kamanita tài hoa và nàng Vasitthi xinh đẹp diễn ra trên đất Ấn thời Đức Phật còn tại thế. 45 phần truyện là dòng chảy cuộc đời từ hiện tại đến quá khứ, từ quá khứ đến khởi thuỷ kiếp luân hồi của nhân vật; là sự đan xen chuyện kể đời thường với những câu chuyện ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học trong đối thoại hay thuyết pháp của Đức Phật. Dòng chảy này tạo nên một ranh giới mơ hồ giữa truyền thuyết và sáng tạo tiểu thuyết; giữa câu chuyện Đức Phật kể về những người đã được Ngài giác ngộ và câu chuyện những người được giác ngộ kể về Ngài. Cái vẻ hư thực đó của tác phẩm trở thành điểm tựa để người đọc tìm thấy niềm tin, rằng triết lý đạo Phật có thể tìm thấy trong những sự kiện của đời người, rằng mỗi người sẽ là tia sáng dẫn đường của chính mình, là chỗ dựa của chính mình và rằng cái để suy ngẫm là những gì vĩnh cửu chứ không phải là cái chỉ tồn tại một mai. Do đó, dẫu là truyền thuyết hay tiểu thuyết, tác phẩm vẫn có sức ám ảnh lớn, ghi tạc vào tâm thức con người, rằng: Con đường giải thoát mở ra cho tất cả mọi người, cả những người không theo Đạo. Những người không theo Đạo - trong số đó có chúng ta. Vậy nên nếu đọc Kamanita, kẻ hành hương, hãy trầm tư lắng nghe câu chuyện này, biết đâu sẽ giác ngộ được một chân lý nào đó cho chính mình. *** Karl Adolph Gjellerup là nhà văn, nhà thơ Đan Mạch được trao giải Nobel Văn học năm 1917 cùng với Henrik Pontoppidan, cũng là nhà văn Đan Mạch. Karl Gjellerup xuất thân trong một gia đình mục sư. Ba tuổi cha mất, ông đến Copenhagen ở với bác họ đằng mẹ. Gjellerup sáng tác từ rất sớm, vừa tốt nghiệp trung học ông đã viết hai vở kịch Spicio Africanus và Arminius nhưng đều không được in. Năm 1874, ông vào học Đại học Copenhagen, khoa Thần học, nhưng về sau lại trở thành người vô thần: điều này thể hiện qua các tác phẩm như Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878, ký bút danh Epigon), Antigonos (1880) v.v. Tác phẩm: Spicio Africanus (1875), kịch Arminius (1875-1876), kịch Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878), tiểu thuyết Antigonos (1880), tiểu thuyết Arvelighed og moral (Truyền thống đạo lý, 1881) Rödtjörn (Cây sơn tra, 1881), tập thơ Germanernes laerling (Cậu học trò của những người Đức, 1882), tiểu thuyết G-dur (Gam sol trưởng, 1883), truyện Romulus (1883), tiểu thuyết En klassisk maaned (Tháng cổ điển, 1884) Brynhild (1884), bi kịch Saint Just (Thánh Just, 1885), kịch Thamyris (1887), kịch thơ Hagbard og Signe (Hagbard và Signe, 1889), bi kịch văn xuôi và thơ Min kaerligheds bog (Cuốn sách tình yêu của tôi, 1889), tập thơ Minna (1889), tiểu thuyết Herman Vandel (1891), kịch Kong Hjarne (Vua Hjarne, 1892), kịch Wuthhorn (1893), kịch Hans Excellence (Đức Ngài, 1893), kịch Pastor Mors (Mục sư Mors, 1894), tiểu thuyết Möllen (Chiếc cối xay, 1896), tiểu thuyết Ved graensen (Tại vùng biên giới, 1897), tiểu thuyết Tankelaeserinden (Nhà tiên tri, 1901), tiểu thuyết Die opferfeuer (Ngọn lửa hiến tế, 1903), kịch Pilgrimen Kamanita (Kamanita, người hành hương, 1906), tiểu thuyết Die weltwanderer (Những kẻ hành hương vĩnh cửu, 1910), tiểu thuyết Reif für das leben (Đến tuổi trưởng thành, 1913), tiểu thuyết Guds venner (Những người bạn của Chúa trời, 1916), tiểu thuyết Der goldene zweig (Cành vàng, 1917), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Kamanita: Kẻ Hành Hương của tác giả Gjellerup Karl.
Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác - Mạc Ngôn
La Tiểu Thông là một cậu bé luôn miệng nói dối, một đứa trẻ ba hoa nói khoác, một đứa trẻ đạt được thỏa mãn trong khi nói chuyện. Trong dòng chữ lưu hỗn loạn ấy, câu chuyện vừa là thể chuyển tải của ngôn ngữ, vừa là sản phẩm phụ của ngôn ngữ... Câu chuyện mà cậu ta kể khi mới bắt đầu còn có một chút "chân thực", nhưng càng về sau càng là một sáng tác vừa thực vừa hư... Khi La Tiểu Thông kể chuyện về chính mình, nếu xét về tuổi tác thì cậu ta không như một đứa trẻ, nhưng thực ra lại là một đứa trẻ. Cậu ta là thủ lĩnh của những nhi đồng trong nhiều truyện "Góc nhìn nhi đồng" của tôi... Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách "Chuyện Của Cậu Bé Hay Nói Khoác" để hiểu rõ hơn về nhân vật này. *** Buổi sáng sớm cách đây mười năm trước. À, mà khi ấy là năm nào ấy nhỉ? Khi ấy cậu bao nhiêu tuổi? Lan Đại hòa thượng, một người đã từng đi nhiều nơi, hành tung bí hiểm, tạm thời tá túc tại ngôi miếu bỏ hoang mở to mắt, hỏi tôi bằng một giọng âm trầm nghe như vọng về từ một nơi rất xa. Giữa ngày tháng bảy nóng như nung mà tôi bất chợt rùng mình. Đó là năm 1990, khi ấy tôi mười tuổi, thưa đại hòa thượng. Tôi lẩm bẩm trả lời hòa thượng bằng một giọng khác hẳn. Đây là ngôi miếu nhỏ có tên là thần Ngũ Thông nằm giữa hai dãy phố sầm uất, đông đúc, nghe nói tổ tiên của Lão Lan trưởng thôn của thôn tôi đã bỏ tiền ra xây ngôi miếu này. Tuy ngôi miếu nằm kề ngay bên đường nhưng hương khói quanh năm lạnh lẽo, luôn tỏa ra một mùi cũ kỹ ẩm mốc. Chỗ khe tường đổ do người ta trèo vào đã thành lối đi, một người phụ nữ mặc chiếc áo màu xanh, xung quanh viền hoa màu đỏ đang gần như phủ phục ở đó. Tôi chỉ nhìn thấy khuôn mặt to, đầy, trắng như phấn và một cánh tay trần trắng muốt đang chống cằm của người ấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay của bà ta ánh lên dưới ánh nắng mặt trời. Người phụ nữ này khiến tôi nhớ đến ngôi nhà ngói lớn được cải tạo thành trường học của nhà đại địa chủ Lan trong thôn tôi trước thời kỳ giải phóng. Trong nhiều truyền thuyết và nhiều sự tưởng tượng bắt nguồn từ truyền thuyết, người phụ nữ như thế này thường xuyên ra vào ngôi nhà nhiều năm thiếu sự chăm sóc tu sửa và phát ra những tiếng kêu nghe rợn cả tóc gáy vào nửa đêm gà gáy. Hòa thường ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn cũ kỹ trước bức tượng thần Ngũ Thông bị người đời lãng quên từ lâu, vẻ mặt bình thản, như một con ngựa đang chìm trong giấc mộng. Tay của hòa thượng lần theo tràng hạt màu tím đỏ, trên mình hòa thượng là bộ quần áo dường như được dệt bằng giấy bị nước mưa thấm ướt, chỉ cần chạm khẽ vào nó sẽ tan thành mảnh vụn. Đôi tai của hòa thượng bu đầy ruồi, chỉ duy cái đầu trọc lóc và khuôn mặt trơn nhẫy là không có con nào. Phía trước sân là một cây ngân hạnh sum suê, trên cây ríu rít tiếng chim, trong tiếng chim hình như còn xen lẫn cả tiếng của một đôi mèo. Đôi mèo này ngủ trong hốc cây và rình bắt những chú chim trên cành. Tiếp theo tiếng kêu vui sướng của con mèo là tiếng kêu thảm thiết của con chim bị bắt và tiếng kêu kinh hoàng hoảng hốt của bầy chim. Tôi ngửi thấy mùi máu tanh, không, chính xác hơn là tôi nghĩ tới mùi máu tanh, nghĩ tới cảnh tượng kinh hoàng sặc mùi máu. Lúc này con mèo đực đang dùng đôi móng giữ chặt con mồi đầy máu, quay sang phía con mèo cái như muốn khoe chiến công. Con mèo cái bị mất chiếc đuôi trông rất giống một con thỏ. *** Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật tỉnh Sơn Đông. Là tác giả tạo nên cơn sốt văn học Trung Quốc tại Việt Nam thông qua một loạt các tiểu thuyết được chuyển ngữ và xuất bản từ thập kỷ trước như Cao lương đỏ, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận… Mạc Ngôn đã để lại dấn ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi tài năng văn chương không thể phủ nhận. Giải thưởng Nobel Văn học năm 2012 một lần nữa khẳng định địa vị quan trọng của Mạc Ngôn trong nền văn học thế kỷ 20 của Trung Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Tác phẩm chính Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), (1995) Cao lương đỏ, nguyên tác: Hồng cao lương gia tộc (红高粱家族), (1998) Đàn hương hình (檀香刑). Cây tỏi nổi giận (Bài ca củ tỏi Thiên Đường) Củ cải đỏ trong suốt. Rừng xanh lá đỏ (Rừng vẹt) Tửu quốc (Rượu chảy như suối) Châu chấu đỏ. Tổ tiên có màng chân Con Đường Nước Mắt Hoan Lạc Bạch Miên Hoa Trâu Thiến Sống Đọa Thác Đày Người Tỉnh Nói Chuyện Mộng Du Khác Ma chiến hữu, nguyên tác: Chiến hữu trùng phùng (战友重逢), (2004), một tác phẩm đề cập đến lính Trung Quốc hy sinh trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979. Giải thưởng Giải nhất về tiểu thuyết của Hội Nhà văn Trung Quốc, tháng 12/1995 cho truyện "Báu vật của đời". Giải Mao Thuẫn cho tác phẩm Đàn hương hình Giải Nobel Văn học năm 2012.   Mời các bạn đón đọc Chuyện của Cậu Bé Hay Nói Khoác của tác giả Mạc Ngôn.
Con Lừa Và Tôi - Juan Ramón Jiménez
Đây là một chuỗi chuyện ngắn nối tiếp nhau, đầy cảnh sắc và tình tiết của một ngôi làng Tây Ban Nha rất gần gũi với một ngôi làng Việt Nam: con chim én, giếng nước, rặng bìm bịp…..Người với vật gắn bó với nhau như đôi bạn, quen mặt từng gã Bô-hê-miên, thằng mọi, đứa bé nghèo khó hay tật nguyền, nhớ từng gốc cây bạc hà, cùng mơ những giấc mơ hẩm hiu giống nhau, đem lòng yêu những vẻ đẹp phù du nhất….cho đến ngay cuối cùng bỗng hóa thành thê lương. Truyện kết thúc ở cảnh thi sĩ ra đồng đứng bên ngôi mộ của lừa. *** Juan Ramon Jiménez (24 tháng 12 năm 1881 – 29 tháng 5 năm 1958) là nhà thơ Tây Ban Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1956. Juan Ramón Jiménez sinh ở Moguer, gần Huelva, học xong cao đẳng Jimenez vào Đại học Seville nhưng bỏ để đi làm báo. Năm 1900, xuất bản tập thơ đầu tiên Almas de violeta (Hồn hoa tím) và tiếp theo đó gần như mỗi năm một tập thơ ra đời. Sáng tác thời kỳ đầu của ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức và chủ nghĩa tượng trưng Pháp, giàu cảm xúc trữ tình với những hình tượng thiên nhiên đầy màu sắc. Juan Ramon Jiménez mất tại Puerto Rico năm 1958, hưởng thọ 76 tuổi. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Almas de violeta (Hồn hoa tím, 1900), thơ Ninfeas (Những bông huệ nước, 1900), thơ Rimas (Vần điệu, 1902), thơ Arias tristes (Những khúc ca buồn, 1903), thơ Jardines lejianos (Những khu vườn xa, 1904), thơ Pastorales (Những bài thơ đồng quê, 1905), thơ Elejias puras (Những khúc bi ca, 1908), thơ Baladas de primavera (Những khúc ca xuân, 1910), thơ La soledad sonora (Sự cô đơn âm vang, 1911), thơ Poemas májicos y dolietes (Những bài thơ huyền ảo đau buồn, 1911), thơ Laberinto (Mê cung, 1913), thơ Estio (Mùa hè, 1915), thơ Sonetos espirituales (Những bài sonet trí tuệ, 1917), thơ Diario de un poeta recién casado (Nhật ký nhà thơ mới cưới vợ, 1917), thơ Eternidades (Vĩnh cửu, 1918), tập thơ Piedra y cielo (Đá và bầu trời, 1919), thơ Piedra (Thơ ca, 1923), thơ Belleza (Vẻ đẹp, 1923), thơ Animal de fondo (Con thú từ độ sâu tâm hồn, 1949), thơ *** Tôi đã bảo La Rô:  - Mình đợi đoàn xe ngựa. Xe đưa tiếng rì rào của rừng ở xa của Công nương, đưa đến cái huyền bí của rừng thông Thần Linh, cái mát mẻ từ các đầm lầy Chư Mẫu và Tần Bì Song Thụ, mùi vị vùng Rocina…  Tôi đã đem con lừa, đẹp và lộng lẫy, cho nó ve vản lớt phớt đám thiếu nữ đường Máy Nước, nơi đây mặt trời lay lắt buổi chiều đến tàn tạ, thành một giải hồng mờ ẩn, trên cái chái hiên thấp có quét vôi. Kế đó chúng tôi chọn bờ đường cạnh Đồng Lò mà đứng, từ đây ta thấy rõ trọn con đường Đồng Bằng.  Chưa chi, những chiếc xe ngựa đầu tiên đã ló dạng, leo dốc. Mưa phùn dịu nhẹ, thường xảy ra vào những ngày lễ Thánh mẫu Rocio, rơi từ những đám mây hoa cà, và nhanh chóng tan xuống các thửa nho xanh. Nhưng thiên hạ chẳng buồn ngước mắt nhìn mưa.  Dẫn đầu, cưỡi trên lưng lừa, la, ngựa, được kết giải theo lối phương Đông và bờm thì bện tết, là những cặp nam nữ đính ước hân hoan: trai, thật tươi; gái, cân quắc. Cả một đoàn người rậm đám nhặm lẹ, qua qua lại lại, không ngớt đuổi bắt, liền lưng thành một lễ hội xa mã vĩ đại.  Theo sau, trờ tới chiếc xe Lưu Linh huyên náo, cục mịch ngả nghiêng. Kế đó ta thấy xuất hiện, giống như một dãy giường ngủ, một đoàn xe trải vải trắng, chở những thiếu nữ tóc đen, chắc nịch, đương độ, ngồi dưới lọng, vừa vỗ vào mặt trống có chuông lủng lẳng, vừa lớn tiếng ca hát.  Vẫn còn ngựa, vẫn còn lừa….  Viên phụ thủ giáo đường, đầu hói, xương xẩu, đỏ gấc, mũ rộng vành hất ngược sau lưng. Và cây trượng vàng, ở thế nghỉ, chống tựa vào bàn đạp ngựa, y dõng dạc:  - Vạn tuế Đức Bà Rociooo! Vạn tuế!  ... Mời các bạn đón đọc Con Lừa Và Tôi của tác giả Juan Ramón Jiménez.