Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass

Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mật Danh Hoàng Hôn - Pierre Rey
Los Angeles với mười hai triệu cư dân, một siêu đô thị của Thiên nhiên kỷ thứ ba, một thành phố huyền thoại.​ Beverly Hills, Bel Air, Hollywood... những đồng tiền tỉ, những khu ổ chuột, những chuyện hoang đường... một nơi đầy ánh nắng, cây xanh, trời rộng, hồ bơi... Cho đến ngày Kostia Vlassov, một nhân vật cánh tả từ Nga đặt chân đến. Hắn trẻ tuổi, đẹp mã, và cháy túi. Rồi đột nhiên, tấm bưu thiếp rách tan, mặt trước nát bươm và mọi bí mật của thành phố lộ ra dưới một cái bẫy ngoạn mục, nó đập vào mắt ta cảnh tượng khu ổ chuột ở Down Town, tiệm massage trong phòng khám của các con nghiện, những đêm thác loạn với trò rodéo chết người ở Hells Angels, rồi đến bãi biển Malibu chỗ nhà thổ Colombie, những người hùng đồng tính, và cả studio của Jenny nơi sản xuất những giấc mơ. Jenny. Minh tinh màn bạc đình đám bậc nhất... Vô cùng giàu có, được sùng bái hết mực, bị trầm cảm, không thể sống thiếu thuốc. Cô tìm thấy gã người Nga dưới gầm giường mình. Một cuốn tiểu thuyết nghẹt thở, dồn dập, không thể đoán trước, mạnh mẽ như Cocain, và thật hơn cả sự thật. Chỉ có Pierre Rey mới viết được nó. Los Angeles, có sống mới biết.​ *** Kostia nhìn hai gã ngồi đối diện, bên kia chiếc bàn bé tẹo. Cả hai mặt mũi đỏ gay, trong bộ đồ dạ màu tối, thắt chiếc cravát đen gớm chết như sợi dây quấn cổ, mắt nhìn li rượu sake trước mặt. Kostia chỉ uống trà thôi. Còn Boris và Rodion đã quật ngã nhiều can bia Kirin nhậu với món gỏi cá hồi. Lúc này bữa nhậu đã tàn. Nhiều khách lục tục đứng lên. Kostia ra hiệu tính tiền. Hai thiếu phụ trẻ kín đáo bước vào quán ngồi xuống quanh chiếc bàn vừa vắng khách. Từ cuối phòng, một hầu bàn cất giọng giễu cợt: - Zubicô! Zubicô! - Nó nói gì với hai cô ả? Rodion hỏi. Rodion cũng như Boris không biết tiếng Nhật. - Nó bảo hai con bé đó là đồ đĩ, Kostia đáp. Rodion trợn mắt sửng sốt. - Cậu không đùa đấy chứ? - Hoàn toàn không. - Nó quen biết họ? - Có lẽ không? - Thế tại sao? - Lệ ở đây như vậy. Nhiều hầu bàn khác hùa theo. Hai thiếu phụ khinh bỉ nhìn họ. Không người nào dám nhìn lại nhưng tiếng châm chọc vẫn nối nhau ồn ào. - Zubicô! Zubicô! - Bọn đĩ điếm! Kostia dịch. - Kitanai yarô! - Đồ lợn nái thối thây! Kostia dịch tiếp. Một giọng the thé trùm lên tiếng ồn ào: - Kusô baba! Kostia cắn môi, cúi mặt tỏ vẻ lúng túng. Rodion đưa mắt háo hức nhìn anh ta. - Túi cứt, Kostia nói. - Chưa từng nghe như vậy bao giờ! Boris lẩm bẩm. Kostia nhún vai, chỉ vào đám hầu bàn. ... Mời các bạn đón đọc Mật Danh Hoàng Hôn của tác giả Pierre Rey.
Con Vịt Chết Chìm - Erle Stanley Gardner
Con Vịt Chết Chìm còn được biết tới với tên "Mười Tám Năm Sau". Quá khứ bị khơi dậy, các nhân vật của vụ án xưa bị cơn lốc xô đẩy về vùng đất hẻo lánh ở miển Viễn Tây và gây ra tội ác mới hòng che lấp tội ác cũ... Tất cả những trò ranh ma của con người, những lắt léo của luật pháp đã không thắng nổi luật sư Perry Mason tài ba có sự trợ giúp của chàng thám tử Paul Drake và cô thư k‎ý xinh đẹp Della Street. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Trong phòng kính - làm việc của cửa hàng hoa Faulkner Mildreth Faulkner đang ngồi bên bàn, cẩn thận chọn một bông paxten(1) xanh. Cô luôn luôn dùng hoa paxten để điểm xuyết các kiểu xếp hoa của mình. Đặt bông hoa xuống bên trái tờ phác thảo phòng ăn của gia đình Ellsworth, cô bắt đầu nghiên cứu các mẫu xếp hài hòa với loại nến màu lá cây nhạt mà cô Ellsworth định dùng thắp sáng. Có tiếng gõ vào kính. Mildreth ngẩng lên và nhìn thấy Harry Peavis. Đẩy các bản vẽ sang một bên, cô ra hiệu mời khách vào. Ông khách nhận lời mời như một điều tất nhiên và không biểu lộ chút tình cảm nào. Đó là một người to lớn, xương xương, bắp thịt rắn chắc, vai và đôi bàn tay còn giữ được dấu vết của nghề chủ trại mà ông ta đã làm thời trai trẻ. Hiện tại, sau khi đã giàu có nhờ độc quyền gần như hoàn toàn ngành bán lẻ hoa; ông ta rất chịu khó phô mình trong tư thế một nhà kinh doanh vận đỏ. Những ngón tay bị biến dạng vì lao động nom thật lạc điệu với móng tay được gọt sửa và bộ com lê cắt quá đẹp của ông ta. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #20 Con Vịt Chết Chìm của tác giả Erle Stanley Gardner.
Kẻ Hùn Vốn - Erle Stanley Gardner
Cuốn sách thứ 17 về Luật Sư Perry Mason. Một cô chủ cửa hàng hoa bất ngờ biết rằng đối thủ của mình chơi xấu và có khả năng dành quyền kiểm soát công ty của mình, do đó cô một mặt điều tra và một mặt nhờ tới sự giúp đỡ của Mason. Tuy nhiên, tình hình không dừng lại ở đó khi mà đã có án mạng xảy ra... *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Trong phòng kính - làm việc của cửa hàng hoa Faulkner Mildreth Faulkner đang ngồi bên bàn, cẩn thận chọn một bông paxten(1) xanh. Cô luôn luôn dùng hoa paxten để điểm xuyết các kiểu xếp hoa của mình. Đặt bông hoa xuống bên trái tờ phác thảo phòng ăn của gia đình Ellsworth, cô bắt đầu nghiên cứu các mẫu xếp hài hòa với loại nến màu lá cây nhạt mà cô Ellsworth định dùng thắp sáng. Có tiếng gõ vào kính. Mildreth ngẩng lên và nhìn thấy Harry Peavis. Đẩy các bản vẽ sang một bên, cô ra hiệu mời khách vào. Ông khách nhận lời mời như một điều tất nhiên và không biểu lộ chút tình cảm nào. Đó là một người to lớn, xương xương, bắp thịt rắn chắc, vai và đôi bàn tay còn giữ được dấu vết của nghề chủ trại mà ông ta đã làm thời trai trẻ. Hiện tại, sau khi đã giàu có nhờ độc quyền gần như hoàn toàn ngành bán lẻ hoa; ông ta rất chịu khó phô mình trong tư thế một nhà kinh doanh vận đỏ. Những ngón tay bị biến dạng vì lao động nom thật lạc điệu với móng tay được gọt sửa và bộ com lê cắt quá đẹp của ông ta. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hùn Vốn của tác giả Erle Stanley Gardner.
Vị Giám Mục Nói Lắp - Erle Stanley Gardner
Erle Stanley Gardner sinh năm 1889 tại Malden, Massachusetts. Vì cha ông là một chuyên viên đào vàng nên ông phải đi theo đến các vùng khắc nghiệt suốt từ Klondike đến California. Là một gã con trai khỏe mạnh và hay gây gổ, ông đã tự tham dự một số cuộc đấu quyền anh nhà nghề được nhiều giải thưởng cho đến khi ông bị kẹt trong một vụ đấu bất hợp pháp và bị đưa ra trước pháp lý. Kinh nghiệm liên quan đến luật pháp này đã thúc đẩy ông trở thành một luật sư, và trong một thời gian ngắn làm việc ngày đêm, ông đã được chấp nhận là thành viên của Tòa án California khi ông vừa đúng 21 tuổi. Nhưng những ước vọng phiêu lưu của Gardner đã không thích hợp với đời sống bận rộn của một luật sư Tòa án, “Quá nhiều vụ án đến với tôi và tôi thấy mình chôn chân một chỗ” ông nói - “Vì vậy bên cạnh đó, tôi viết văn”. Năm đầu tiên ông kiếm được 974 đô-la, năm thứ năm là 6.627 đô-la. Trước khi ý thức được rằng ông đã tiến tới vị trí phải lựa chọn giữa viết văn và Luật pháp, ông đã bỏ ngành Luật pháp. Trong năm 1932 Gardner kiếm được 20.525 đô-la. Rồi sau chuyến đi Trung Quốc về, ông bắt đầu chăm chú viết nhiêu hơn, và kết quả là hai quyển sách đã được xuất bản vào năm đầu: Vụ án cô gái hay hờn dỗi (The Case of the Sulky Girl) và Vụ án móng vuốt bọc nhung (The Case of the Velvet Claws). Ngày nay các tác phẩm của Gardner rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Tất cả các ấn bản tổng cộng lại trên một triệu cuốn hàng năm. Sách của ông được in ra mười thứ tiếng và hầu như đều được dịch ra chữ Braille dùng cho người mù. Ông mất năm 1970. Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Cặp mắt Perry Mason chăm chú nhìn vào con người vừa dừng lại trước cửa văn phòng. “Xin mời Giám mục vào,” Mason nói. Người ngoài cửa vào có dáng mập và lùn, trong bộ áo nhà dòng màu đen, rộng thùng thình. Ông ta hơi cúi đầu bước lại chiếc ghế Mason ra hiệu mời ngồi. Phía trên vòng cổ trắng của chiếc áo nhà dòng là khuôn mặt sạm nắng với cặp mắt lóng lánh. Ông ta có đôi chân ngắn, bước đi những bước vững chắc trên đôi giầy đen đã khá mòn. Nhìn bước đi của vị khách, Mason cảm thấy đó là bước đi của một con người đầy nghị lực. Vị Giám mục ngồi xuống và hướng về phía Perry Mason. “Mời Giám mục dùng thuốc lá,” Mason nói và đẩy hộp thuốc về phía khách. Vị Giám mục đưa tay chận lại và nói, “Ca… Ca… Ca… Cảm ơn, tôi đã hút rồi. Tôi chỉ rít được có hai hơi rồi phải… ngừ… ngừng.” Đôi môi người khách run run ở nửa chữ cuối cùng. Khi vừa nói hết câu, ông cố tự chủ và nói tiếp, “Xin phép ông tôi hút píp.” “Xin cứ tự nhiên,” Mason nói và để ý thấy vị khách móc trong túi bên trái ra một chiếc píp to và ngắn trông cũng giống như hình dáng của ông ta. “Cô thư ký của tôi có nói, ông là Giám mục William Mallory thuộc địa phận Sydney của Úc Đại Lợi, ông muốn gặp tôi về một vụ án gây chết người, có phải vậy không?” vị luật sư lên tiếng phá vỡ bầu không khí ngượng ngập đang bao trùm vị khách. Giám mục Mallory gật đầu, ông ta lấy túi thuốc nhét đầy vào píp và ngậm chặt cán píp giữa hai hàm răng, rồi bật quẹt. Nhìn cung cách hai tay chụm lại che lửa, Mason không hiểu đó có phải là hành động gượng gạo, hay chỉ là do thói quen của vị khách. Mason chăm chú nhìn khuôn mặt thông minh cương nghị của khách và nói, “Xin mời Giám mục cứ tiếp tục.” Giám mục Mallory rít vài hơi cho thuốc cháy đều. Cung cách của ông rất chững chạc, nhưng vẫn toát ra một điều gì đó có vẻ không bình thường. “Tôi e rằng,” vị Giám mục nói, “sự hiểu biết về luật pháp của tôi quá hạn hẹp. Tôi muốn được biết rõ về những giới hạn của một vụ án g… g… gây chết người.” Lần thứ hai, vị Giám mục lại nói lắp. Ông cắn chặt răng trên cán chiếc píp và rít nhanh những hơi thật ngắn như để che giấu sự bối rối của mình. ... Mời các bạn đón đọc Vị Giám Mục Nói Lắp của tác giả Erle Stanley Gardner.