Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Thứ Năm

Hai nữ sinh trung học liên tiếp mất tích. Xác của Ella Reynolds được phát hiện bên dưới mặt nước đóng băng ở công viên Jackson, còn xác của Lili Davies được tìm thấy trong phòng tranh nơi cô bé làm thêm sau mỗi buổi học. Không lâu sau đó, đến lượt hai người cha của các cô bị giết hại. Cảnh sát gần như không thể tìm ra điểm chung nào giữa các nạn nhân Trong khi các thanh tra của Sở cảnh sát Chicago chạy đua với thời gian để đưa tên sát nhân “mới nổi” ra ánh sáng thì Thanh tra Sam Porter bí mật tiếp tục săn lùng 4MK. Với hành trang là cuốn nhật ký của Anson Bishop và một bức ảnh nhòe mờ, Porter chạy đôn chạy đáo khắp các đường phố của New Orleans và tình cờ bước vào một thế giới còn tối tăm hơn những gì anh có thể tưởng tượng, nơi anh nhanh chóng nhận ra rằng thứ duy nhất đáng sợ hơn tâm trí của một kẻ giết người hàng loạt là tâm trí của người mẹ đã sinh ra hắn. Bộ sách 4MK Thriller gồm có: 4MK Cái Chết Thứ Năm Đứa Trẻ Thứ Sáu *** J.D. Barker là một tác giả người Mỹ nổi tiếng quốc tế về phim kinh dị hồi hộp, thường kết hợp các yếu tố kinh dị, tội phạm, bí ẩn, khoa học viễn tưởng và siêu nhiên. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, Forsaken, là người vào chung kết cho Giải thưởng Bram Stoker năm 2014. *** Porter Ngày 1 • 8:23 tối Bóng tối. Bóng tối dày đặc cuộn xoáy quanh anh, hút cạn ánh sáng, chẳng để lại gì ngoài khoảng không tối đen như mực. Một màn sương đang bủa vây tâm trí anh, những từ ngữ loay hoay tìm cách gắn kết với nhau, cố sao cho được một câu rành mạch, cố tìm cho ra ý nghĩa nào đó, nhưng đến lúc tưởng như đã ở rất gần thì chúng lại bị nuốt chửng và tan biến, thay vào đó là dự cảm chẳng lành cứ lớn dần, một cảm giác thật nặng nề - thân xác anh chìm dần vào vùng nước âm u sâu thẳm từ lâu đã rơi vào quên lãng. Anh ngửi thấy mùi ẩm thấp. Nấm mốc. Ướt át. Sam Porter những muốn mở mắt ra. Phải mở cho bằng được. Nhưng đôi mắt chẳng chịu tuân theo ý muốn của anh, chúng cứ thế nhắm chặt lại. Đầu anh vừa đau vừa nhức. Cơn đau dậy lên từng hồi phía sau tai bên phải và ở cả thái dương. “Cố gắng đừng cử động, Sam. Tôi không muốn anh cảm thấy buồn nôn.” Giọng nói cất lên loáng thoáng, xa xăm, quen thuộc. Porter đang nằm duỗi dài. Mười đầu ngón tay đặt trên tấm thép lạnh ngắt. Giờ anh nhớ ra mũi tiêm ấy rồi. Cây kim cắm vào dưới gáy, cú đâm diễn ra chóng vánh, dung dịch lạnh lẽo tràn vào bên dưới da, ngấm vào cơ bắp, sau đó… Porter cố mở mắt, song hai mí nặng trĩu nhất quyết kháng cự. Khô khốc, cay xè. Anh muốn dụi mắt, nhưng bàn tay phải vừa đưa lên đã ngay lập tức bị kéo về khi sợi xích ở cổ tay anh căng ra. Hơi thở nghẹn lại trong anh, anh gắng gượng ngồi dậy, đầu óc quay cuồng khi máu huyết từ trên dồn xuống. Suýt nữa anh lại nằm vật ra. “Ái chà, từ từ nào, Sam. Giờ anh đã tỉnh, etorphine* sẽ hết tác dụng nhanh thôi. Chịu khó chờ một lát đi.” Đèn bật lên, một chiếc đèn halogen sáng rực chiếu thẳng vào mặt anh. Porter nheo mắt nhưng quyết không quay đi, anh nhìn chằm chằm vào gã đàn ông đứng cạnh chiếc đèn, dáng người lờ mờ khuất trong bóng tối. “Bishop?” Porter gần như không nhận ra giọng mình nữa, nghe khàn đặc. “Khỏe không, Sam?” Cái bóng tiến sang phải một bước, lật úp cái xô đựng sơn rỗng có dung tích mười tám lít rồi ngồi lên đó. “Đừng chiếu cái đèn chết tiệt ấy vào mắt tao.” Porter kéo giật sợi xích ở cổ tay, đầu còn lại của chiếc còng va leng keng vào một đường ống dày, loại ống dẫn nước hoặc cũng có thể là dẫn ga. “Cái mẹ gì thế này?” Anson Bishop với tay đẩy cho chiếc đèn hơi chếch sang trái. Nó là loại đèn chiếu sáng trong các cửa hàng, được đặt trên một kiểu chân đế nào đó. Ánh sáng rọi lên bức tường gạch không nung, trong góc đằng xa có đặt cái máy nước nóng, phía bên kia là máy giặt và máy sấy cũ. “Đỡ hơn rồi chứ?” Porter giật sợi xích lần nữa. Bishop ném cho anh nụ cười nửa miệng và nhún vai. Lần cuối cùng Porter nhìn thấy hắn, hắn để tóc húi cua màu nâu sẫm. Mái tóc ấy nay đã dài ra, nhạt đi, bù xù. Mặt hắn lún phún lớp râu ba, bốn ngày chưa cạo. Bộ trang phục công sở theo phong cách đời thường đã không còn, thay vào đó là chiếc quần jeans và áo nỉ có mũ màu xám đậm. “Độ này coi bộ xuống mã nhỉ.” Porter nói. “Thời buổi khó khăn mà.” Nhưng hắn không thể thay đổi được cặp mắt, cũng như vẻ lạnh lùng ẩn chứa trong đó. Cặp mắt ấy muôn đời chẳng đổi khác. Bishop rút từ trong túi quần sau ra một cái thìa nhỏ, loại thìa ăn hoa quả có răng cưa, hắn lơ đãng xoay nó giữa những ngón tay, mép răng cưa sáng lên dưới ánh đèn. Porter ngó lơ cái thìa. Thay vào đó, anh liếc xuống, gõ ngón trỏ lên tấm kim loại mà anh đang nằm lên. “Cái băng ca này cũng cùng một kiểu với cái mày dùng để xích Emory vào phải không?” “Gần như thế.” “Không kiếm nổi cái giường gấp nào sao?” “Giường gấp hay hỏng lắm.” Một vũng màu đỏ sậm đọng lại bên dưới băng ca, vết nhơ tối thẫm trên mặt sàn bê tông nhếch nhác, bẩn thỉu. Nhưng Porter không hỏi han gì về nó. Sờ vào mặt dưới tấm kim loại rồi thu tay về, anh thấy ngón tay mình dinh dính. Điều này anh cũng chẳng thắc mắc. Bức tường bên trái anh có vài cái kệ, trên đó chất đầy dụng cụ quét sơn: thùng, chổi sơn, bạt phủ. Trần nhà phía trên đầu được ghép từ những tấm ván gỗ cỡ 2x6*, mỗi tấm cách nhau chừng bốn mươi centimet. Mạch điện để trần, ống nước và ống thông gió lấp đầy khoảng trống giữa các tấm ván. “Chỗ này là tầng hầm của một nhà dân. Ngôi nhà không lớn. Nhưng cũng cũ rồi. Đường ống trên đầu mày được bọc bằng a-mi-ăng, vì thế tao khuyên mày chớ có dại mà dây vào nó. Tao đoán nơi này bị bỏ hoang, vì cái đèn của mày đang phải dùng cáp nối dài, sợi cáp chạy lên tầng trên và cắm vào… gì nhỉ, một loại ắc quy nào đó chăng? Máy phát điện thì không phải rồi. Sẽ nghe thấy tiếng ngay. Mày không thèm dùng mấy ổ cắm trên tường, chứng tỏ nhà này đã bị cắt điện. Đã thế còn lạnh như nhà xác. Tao nhìn thấy được cả hơi tao thở ra, vậy nghĩa là hệ thống sưởi không hoạt động. Điều đó càng cho thấy đây là nhà hoang. Chẳng ai dám mạo hiểm ở trong căn nhà có đường ống bị đóng băng bao giờ.” Bishop tỏ vẻ hài lòng khi nghe điều này, một nụ cười thấp thoáng trên môi hắn. Porter tiếp tục nói. “Nhà này bề ngang tương đối hẹp. Vì thế đây hẳn là kiểu nhà thông cửa*. Mày chắc sẽ không chọn một khu dân cư sang chảnh nào đó có Starbucks, Internet, nơi người dân thường báo cảnh sát khi phát hiện đối tượng có tiền án tiền sự, bởi vậy tao đoán nhiều khả năng mày sẽ bám trụ ở khu Tây. Có thể là một con phố như phố Wood chẳng hạn. Ở đó nhiều nhà không người ở lắm.” Porter luồn bàn tay không bị còng vào trong chiếc áo khoác dày để tìm súng, nhưng chỉ thấy cái bao rỗng. Điện thoại di động của anh cũng mất rồi. “Đúng là cảnh sát có khác.” Phố Wood nằm cách căn hộ của anh ở Wabash những mười lăm phút lái xe nếu đường thông hè thoáng, Porter bị tiêm thuốc khi anh chỉ còn cách căn hộ chừng một khu nhà. Dĩ nhiên những điều này hoàn toàn chỉ là suy đoán, nhưng anh muốn gợi chuyện để Bishop nói tiếp. Càng mải ba hoa thì hắn càng ít nghĩ tới cái thìa kia. Cơn đau nhức nhối ở đầu giờ đã dồn cả vào phía sau mắt phải của Porter. “Anh không định thuyết phục tôi ra đầu thú sao? Rằng anh có thể giúp tôi thoát án tử nếu tôi ngoan ngoãn hợp tác ấy mà?” “Không có đâu.” Lần này Bishop mỉm cười thật. “Ê, có thứ này, anh muốn xem không?” Porter định bảo không, nhưng anh biết có nói gì đi nữa cũng vô ích. Tên này đã sắp sẵn trong đầu một kế hoạch, một âm mưu nào đó rồi. Chẳng kẻ nào dám liều lĩnh bắt cóc một thanh tra của Sở Cảnh sát Chicago ngay giữa phố nếu như không có mục đích rõ ràng. Anh cảm nhận được chùm chìa khóa đang nằm trong túi bên phải. Bishop đã chừa lại nó khi lấy súng và điện thoại của anh. Trong đó có chìa khóa mở còng, phần lớn còng tay đều dùng chung một chìa để mở. Hồi mới vào nghề, anh được biết lý do là vì người còng tay đối tượng và người mở còng cho chúng sau đó gần như chắc chắn không phải là một. Đối tượng bị bắt có thể sẽ qua tay vài người trong quá trình làm thủ tục nhập khám. Bởi vậy, các sĩ quan được dạy phải tịch thu chìa khóa tìm thấy khi khám người đối tượng, tất cả các chìa. Tên tội phạm sành sỏi nào cũng đem theo chìa khóa mở còng để dễ bề tẩu thoát trong trường hợp có gã cảnh sát gà mờ quên kiểm tra. Porter sẽ phải xoay xở để lấy được chùm chìa khóa ra khỏi túi bên phải, rồi bằng cách nào đó chuyển nó sang tay trái, mở còng và hạ gục Bishop trước khi hắn kịp băng qua khoảng cách một mét rưỡi giữa hai người. Tên này xem chừng không có vũ khí gì ngoài cái thìa. “Mắt nhìn thẳng phía trước, Sam.” Bishop nói. Porter lại hướng ánh mắt về phía hắn. Bishop đứng dậy, đi về phía cái bàn nhỏ cạnh máy giặt ở bên kia tầng hầm. Sau đó hắn trở lại chỗ cũ, đem theo một chiếc hộp gỗ trên nắp có đặt khẩu Glock của Porter. Hắn bỏ khẩu súng xuống sàn cạnh chỗ ngồi, dùng ngón cái gạt chốt cài của chiếc hộp và mở nắp ra. Sáu nhãn cầu ngước lên nhìn Porter từ bên trong chiếc hộp lót nhung đỏ. Những nạn nhân trước đây của Bishop. Porter liếc xuống khẩu súng. “Mắt nhìn thẳng phía trước.” Bishop nhắc lại kèm theo tiếng cười khẽ. Có điều gì đó không ổn rồi. Bishop xưa nay luôn tuân theo một khuôn mẫu cố định. Hắn xẻo tai nạn nhân trước, sau đó móc mắt, rồi cắt lưỡi, đặt vào một chiếc hộp màu trắng thắt dây màu đen và gửi đến cho gia đình mỗi nạn nhân kèm theo một tấm thiệp. Luôn là như vậy. Hắn không bao giờ thay đổi quy trình. Hắn không giữ lại chiến lợi phẩm. Hắn tin rằng mình đang bắt gia đình này phải trả giá cho tội ác nào đó mà họ gây ra. Một kiểu thay trời hành đạo quái đản. Hắn không giữ lại những cặp mắt. Không bao giờ hắn giữ… “Bắt đầu vào việc thôi.” Bishop vuốt tay lên nắp hộp, một cử chỉ đầy âu yếm, rồi đặt nó xuống sàn cạnh khẩu súng và giơ cái thìa ra trước ánh sáng. Porter lăn người xuống khỏi băng ca rồi kêu lên đau đớn khi đầu còng bằng kim loại cứa vào cổ tay anh, cái ống đã níu chiếc còng lại. Cố gắng quên đi cơn đau, anh lóng ngóng thò tay trái vào túi bên phải để lấy chìa khóa, đồng thời đạp băng ca về phía Bishop. Ngón tay Porter sượt qua chùm chìa khóa khi Bishop né được cái băng ca và tung cú đá vào ống quyển bên trái của anh. Chân anh khuỵu xuống, anh ngã nhào ra sàn, cái còng ở cổ tay phải mắc vào đường ống và giật mạnh đến nỗi trật cả khớp vai. Chưa kịp phản ứng gì thì anh chợt thấy đau nhói khi một mũi tiêm nữa đâm vào da thịt, lần này là bắp đùi. Anh cố cúi nhìn nhưng Bishop đã nắm lấy tóc anh, giật ngửa đầu anh ra sau. Ý thức bắt đầu rời bỏ anh. Porter cố cưỡng lại, cố phản kháng bằng tất cả sức lực trong anh. Anh cầm cự đủ lâu để trông thấy cái thìa đang từ từ đưa lại gần mắt trái của mình, đủ lâu để cảm nhận mép răng cưa cứa vào sụn mi nằm dưới nhãn cầu khi Bishop dùng sức chọc cái thìa vào hốc mắt anh, đủ lâu để… “Cô nàng nóng bỏng chứ?” Porter giật nảy người trên ghế, nhưng dây an toàn đã níu anh lại. Anh hít một hơi dài, hết nhìn trái rồi lại nhìn phải, ánh mắt anh dùng lại ở Nash đang ngồi trên ghế lái. “Hả? Ai cơ?” Nash cười giễu. “Em gái trong mơ của anh chứ ai. Thấy anh rên rỉ mà.” Sáu nhãn cầu. Tuy vẫn còn ngơ ngác nhưng Porter cũng đã nhận ra mình đang ngồi ở ghế phụ trên chiếc Chevy của Nash, dòng xe Nova đời 1972 cũ mà Nash tậu cách đây hai tháng, khi chiếc Ford Fiesta con cưng đột ngột khục khặc rồi chết ngóm trên đường 290 lúc ba giờ sáng, khiến anh buộc phải gọi về trụ sở xin một xe đến đón vì không liên lạc được với Porter. Porter đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Kính xe bị phủ một lớp mỏng bụi đường và băng. “Đây là đâu?” “Chúng ta đang trên đường Hayes, phía trước là công viên.” Nash đáp và bật xi nhan. “Có lẽ anh nên đứng ngoài vụ này thì hơn.” Porter lắc đầu. “Tôi vẫn ổn.” Nash ngoặt xe sang trái, rẽ vào Công viên Jackson và đi theo con đường chính dẫn tới cổng vào mới được ủi sạch tuyết, ánh đèn chớp xanh đỏ lấp loáng hắt lên những rặng cây tăm tối xung quanh họ. “Từ đó đến nay đã bốn tháng rồi, Sam à. Nếu anh vẫn gặp vấn đề về giấc ngủ thì nên nói chuyện với ai đó. Không nhất thiết phải là tôi hay Clair, mà… người nào cũng được.” “Tôi vẫn ổn.” Porter nhắc lại. Họ đi qua một sân bóng chày nằm ở bên phải, cái sân bị lãng quên suốt mùa đông, rồi chiếc xe tiếp tục dấn sâu vào trong rừng cây khẳng khiu, trụi lá. Phía trước có thêm ánh đèn - nửa tá ô tô, mà cũng có thể nhiều hơn. Bốn xe cảnh sát tuần tra, một xe cứu thương, một xe van cứu hỏa. Những chiếc đèn pha công suất lớn sắp thành hàng ven đầm nước, máy sưởi chạy bằng khí propane đặt rải rác quanh khu vực được quây lại bằng dải băng cách ly màu vàng. Nash dừng lại phía sau chiếc xe van, gạt cần số về chế độ đỗ rồi tắt máy. Cái xe khục khặc hai lần, nghe như sắp sửa phát ra một tiếng nổ ngược kinh hoàng, sau đó mới chịu im hẳn. Porter nhận thấy vài sĩ quan nhìn chằm chằm về phía họ khi họ xuống xe và bước ra ngoài giữa trời đông buốt giá. “Chúng ta có thể đi bằng xe của tôi cũng được mà.” Porter nói với Nash, gót giày anh đạp trên lớp tuyết mới tinh phát ra tiếng lạo xạo. Porter sở hữu một chiếc Dodge Charger đời 2011. Phần lớn đồng nghiệp ở Sở vẫn hay gọi đùa cái ô tô của Porter là “con xế khủng hoảng tuổi trung niên”. Cái xe ấy đã thay thế cho chiếc Toyota Camry cách đây hai năm, khi Porter đón sinh nhật lần thứ năm mươi. Heather, người vợ quá cố của anh, đã mua cái xe thể thao này để làm quà tặng bất ngờ cho anh, sau khi chiếc Toyota bị kẻ xấu phá hoại rồi vứt bỏ tại một trong những khu vực “không mấy thiện cảm với cảnh sát” ở vùng phía nam của thành phố. Chính Porter cũng thừa nhận rằng khi ngồi sau tay lái, anh cảm thấy như trẻ ra mấy tuổi, nhưng chủ yếu là cái xe luôn khiến anh mỉm cười. Heather đã giấu chìa khóa xe vào trong chiếc bánh gatô sinh nhật rồi đem nướng lên, làm anh suýt mẻ răng khi cắn phải. Cô bịt mắt anh lại, dẫn anh xuống cầu thang và bước ra ngoài cổng, sau đó hát bài Happy Birthday cho anh nghe bằng giọng hát khó có cơ hội được góp mặt trong chương trình American Idol. Porter luôn nghĩ đến cô mỗi khi ngồi vào trong xe, nhưng giờ đây, dường như những điều gợi cho anh nhớ về cô cứ ngày càng ít đi, khuôn mặt cô mỗi lúc một mờ nhạt trong tâm trí anh. “Cái ô tô ấy chính là một phần của vấn đề đấy. Chúng ta lúc nào cũng đi bằng xe của anh, để cho em Connie kia bị xếp xó đến hoen gỉ trên lối đi nhà tôi. Nếu lái em ấy, tôi sẽ nhớ ra rằng tôi muốn cải tạo lại em ấy. Mà khi đã nhớ ra, biết đâu tôi sẽ chịu lết xuống gara và bắt tay vào thực hiện.” “Connie á?” “Ô tô cũng phải có tên chứ.” “Phải cái gì mà phải. Ai lại đi đặt tên cho ô tô bao giờ, mà anh đâu có biết cách cải tạo em… nó… sao cũng được. Có mà lúc anh lôi cái xe cũ rích ấy về nhà, lần đầu tiên cầm lấy cờ lê, anh đã hiểu ra còn lâu anh mới cải tạo xong nó chỉ trong vòng bốn mươi ba phút giống như mấy gã trong Overhaulin’*.” Porter nói. “Chương trình đó đúng là nhảm nhí. Lẽ ra phải nói thật quá trình sửa chữa kéo dài bao lâu chứ.” “Như thế vẫn còn tốt chán. Ít nhất anh cũng không đâm nghiện kênh HGTV* và tưởng mình có thể tranh thủ những lúc rảnh rỗi để cải tạo nhà cửa rồi rao bán.” “Cái đó thì đúng. Nhưng họ sửa lại mấy căn nhà chỉ trong vòng có hai mươi hai phút mà lãi thu về còn khủng hơn.” Nash đáp. “Nếu sửa được một, hai căn, tôi có thể thuê người độ lại xe. Ê, Clair kìa…” Họ chui qua dải băng cách ly màu vàng, tiến lại gần đầm nước. Clair đang đứng cạnh một cái máy sưởi, di động áp vào tai. Nhìn thấy họ, cô lấy tay bịt loa thoại, hất hàm về phía bờ đầm và bảo “Bọn tôi nghĩ đó là Ella Reynolds,” rồi lại tiếp tục nói chuyện điện thoại. Tim Porter chùng xuống. Ella Reynolds là cô bé mười lăm tuổi mất tích ở gần khu vực Quảng trường Logan sau khi tan học cách đây ba tuần. Lần cuối cùng có người trông thấy Ella là lúc cô xuống xe buýt của trường, cách nhà khoảng hai khu. Bố mẹ cô lập tức gọi cảnh sát, thông báo khẩn cấp tìm trẻ em mất tích được đưa ra chỉ một giờ sau khi cô biến mất. Nhưng nỗ lực đó không mang lại kết quả gì. Cảnh sát chẳng nhận được tin báo nào có giá trị. Nash tiến lại gần mép nước, Porter theo sau. Cái đầm đã đóng băng. Bốn cọc tiêu hình nón màu cam được đặt trên mặt băng ở xa bờ, quây lại bằng dải băng vàng, tạo thành một hình chữ nhật. Tuyết ở đó đã được quét sạch. Porter rón rén bước lên băng, dỏng tai nghe ngóng xem có tiếng “rắc” cảnh báo nào vang lên dưới chân không. Dù cho có bao nhiêu dấu giày để lại trên mặt đầm đóng băng đi nữa, anh lúc nào cũng run khi thêm vào đó dấu giày của mình. Khi Porter tiến đến gần, cô bé dần dần hiện ra trong tầm mắt. Lớp băng trong vắt như pha lê. Cô ngước lên nhìn bằng ánh mắt vô hồn từ bên dưới băng. Da cô trắng bệch trông thật ghê rợn, hơn nữa còn ánh lên sắc xanh, chỉ trừ vùng da quanh mắt. Hai quầng mắt cô tím bầm lại. Môi cô hé mở như có điều muốn nói, những điều vĩnh viễn không được thốt ra. Porter quỳ xuống để có thể quan sát kĩ hơn. Cô bé mặc áo khoác đỏ, quần jeans đen, đội mũ len trắng và đeo găng tay cùng bộ, đi đôi giày màu hồng có vẻ giống kiểu giày tennis. Hai tay buông thõng, chân hơi cong lại, mất hút dưới vùng nước tối đen. Thường thì xác ngâm dưới nước sẽ trương lên, nhưng ở nhiệt độ này, cái lạnh lại giúp bảo quản thi thể. Porter thà phải nhìn xác trương còn hơn. Khi người chết ít nhiều mất đi diện mạo của con người, anh thấy dễ tiếp nhận những gì mình đang chứng kiến hơn, ít bị cảm xúc chi phối hơn. Cô bé này trông chỉ như đứa trẻ con, tuyệt vọng, đơn độc, say ngủ bên dưới tấm chăn bằng băng. Nash đứng phía sau anh, đưa mắt quan sát rừng cây bên kia đầm. “Nơi này từng là địa điểm tổ chức Hội chợ Quốc tế vào năm 1893. Ngày trước còn có khu vườn kiểu Nhật ở đằng xa, chỗ cây cối um tùm ấy. Bố tôi từng dẫn tôi tới đây chơi khi tôi còn nhỏ. Ông bảo hồi Thế chiến thứ hai, ở đây bung bét lắm. Tôi nhớ có đọc được ở đâu đó rằng người ta đã huy động vốn để cải tạo khu này vào mùa xuân. Thấy đám cây bị đánh dấu kia không? Chúng sắp bị chặt đấy.” Porter nhìn theo ánh mắt người cộng sự. Cái đầm được chia thành hai mé đông và tây, bao quanh một đảo nhỏ. Nhiều cây trên đảo Cây được thắt những dải ruy băng màu hồng quanh thân. Có vài chiếc ghế nằm rải rác bên kia bờ, bị phủ một lớp tuyết trắng mỏng. “Theo anh, cái đầm này đóng băng từ bao giờ?” Nash ngẫm nghĩ giây lát. “Chắc là cuối tháng Mười hai, đầu tháng Một. Sao anh lại hỏi thế?” “Nếu đây đúng là Ella Reynolds, vậy làm thế nào cô bé nằm dưới băng được? Cô bé mới mất tích ba tuần trước. Lúc đó băng đã rắn chắc lắm rồi.” Nash mở bức ảnh chụp gần đây của Ella Reynolds lưu trong điện thoại và cho Porter xem. “Trông giống đấy, nhưng cũng có thể chỉ là trùng hợp, có thể một cô bé nào đó rơi xuống đầm khi băng vẫn còn mềm chẳng hạn.” “Nhưng cô bé kia giống y hệt người trong ảnh.” Clair bước tới bên cạnh họ. Cô hà hơi vào tay và xoa xoa. “Tôi vừa nói chuyện với Sophie Rodriguez ở Ban Tìm kiếm Trẻ em Mất tích. Tôi chụp ảnh gửi cho cô ấy và cô ấy khẳng định người này là Ella Reynolds, nhưng quần áo thì không khớp. Cô ấy nói lúc mất tích, Ella mặc áo khoác màu đen. Ba nhân chứng cũng xác thực khi ở trên xe buýt cô bé mặc áo đen chứ không phải áo đỏ. Cô ấy đã gọi điện cho mẹ của Ella và bà ấy nói con gái mình không có áo khoác đỏ, mũ len và găng tay len trắng nào cả.” “Vậy thì hoặc đây là một người hoàn toàn khác, hoặc có kẻ đã thay đồ cho Ella.” Porter nói. “Chỗ này cách địa điểm cô bé mất tích những hai mươi lăm kilômét.” Clair cắn môi dưới. “Bên pháp y sẽ phải xác định danh tính của cô bé.” “Ai tìm thấy cô bé vậy?” Clair chỉ về phía chiếc xe tuần tra đỗ ở đằng xa, ngoài khu vực cách ly. “Một cậu bé và ông bố. Cậu nhóc mới mười hai tuổi.” Cô xem lướt phần ghi chú trong điện thoại. “Scott Watts. Cậu ta tới cùng với bố để xem cái đầm đã đông cứng đủ để học trượt băng chưa. Tên ông bố là Brian. Ông ta nói cậu con trai gạt đi lớp tuyết và trông thấy một phần cánh tay cô bé. Ông ta bảo con tránh ra và tự mình phủi sạch tuyết đủ để xác thực đúng là người thật, sau đó gọi 911. Chuyện xảy ra khoảng một giờ trước. Cuộc điện thoại gọi đến lúc bảy giờ hai mươi chín phút. Tôi đã bảo họ ngồi chờ trong xe tuần tra, phòng khi anh có điều muốn hỏi họ.” Porter dùng móng tay trỏ cạo lên băng, rồi nhìn quanh bờ đầm. Hai sĩ quan khám nghiệm hiện trường đứng dạt về bên trái, nhìn ba người bọn họ bằng ánh mắt cảnh giác. “Ai trong số hai người đã dọn chỗ này?” Porter hỏi. Sĩ quan trẻ hơn, một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi có mái tóc vàng cắt ngắn, đeo kính và quàng khăn màu hồng, giơ tay lên. “Là tôi ạ, thưa Thanh tra.” Cộng sự của cô rục rịch chân. Anh ta có vẻ lớn hơn cô khoảng năm tuổi. “Tôi là người giám sát. Sao thế?” “Nash, đưa tôi thứ kia được không?” Anh chỉ vào cây cọ có lông dài màu trắng đặt trên một trong mấy bộ dụng cụ của Đội Khám nghiệm. Porter ra hiệu cho hai sĩ quan lại gần. “Đừng sợ, tôi không mấy khi cắn đâu.” Hồi tháng Mười một vừa rồi, Porter quay lại làm việc sớm dù còn đang trong đợt nghỉ phép bắt buộc do cấp trên áp xuống sau khi vợ anh bị giết trong một vụ cướp xảy ra tại một cửa hàng tiện ích gần đó. Anh muốn tiếp tục đi làm, chủ yếu là vì công việc giúp anh phân tâm, tạm quên đi chuyện xảy ra. Những ngày đầu tiên sau khi vợ mất, khi anh tự giam mình trong căn hộ, là quãng thời gian tồi tệ nhất. Nhìn đâu cũng thấy những thứ gợi nhớ về cô. Khuôn mặt cô nhìn anh từ những bức ảnh bày ở hầu khắp các dãy kệ. Mùi hương của cô vẫn phảng phất đâu đây, nguyên tuần đầu tiên anh không sao chợp mắt được nếu không đặt vài bộ đồ của cô trên giường. Ngồi trong căn hộ, anh chỉ nghĩ đến một điều duy nhất, đó là anh sẽ làm gì với kẻ đã giết cô, những ý nghĩ anh không muốn lưu giữ trong đầu. Cuối cùng, tên sát nhân Bốn Con Khỉ - tức 4MK - đã kéo anh ra khỏi nhà. Cũng chính 4MK là kẻ đã bắt hung thủ giết vợ anh phải đền mạng. 4MK là lý do khiến những người như hai sĩ quan này cư xử kỳ quặc khi có mặt anh. Không hẳn là họ sợ, đúng hơn là họ kiêng dè. Anh là tay cớm đã để cho 4MK thâm nhập vào cuộc điều tra của cảnh sát dưới danh nghĩa sĩ quan khám nghiệm hiện trường. Anh là tay cớm bị 4MK đâm trong chính ngôi nhà của mình. Anh là tay cớm đã bắt được tên sát nhân hàng loạt ấy rồi lại để hắn trốn mất. Bốn tháng sau, người ta vẫn còn nói về vụ đó, chẳng qua không nói với anh thôi. Hai sĩ quan tiến lại gần. Người phụ nữ ngồi xổm xuống cạnh anh. Porter dùng cọ quét đi chỗ tuyết ở sát bờ và cả ngoài rìa khu vực họ đã làm sạch trước đó. Sau khi mở rộng vòng tròn thêm sáu mươi centimet, anh đặt cọ xuống rồi xoa tay lên mặt băng, bắt đầu từ tâm vòng tròn và chầm chậm tiến dần ra ngoài. Khi chỉ còn cách đống tuyết khoảng mười centimet thì anh dừng lại. “Chỗ này. Cô sờ thử xem.” Sĩ quan trẻ tuổi tháo găng và dè dặt làm theo anh, đầu ngón tay cô lướt trên mặt băng. Cô dừng lại cách lòng bàn tay Porter khoảng gần ba centimet. “Có cảm thấy không?” Cô gật đầu. “Có chỗ hơi võng xuống. Ít thôi, nhưng chắc chắn là có.” “Cô lần theo đi. Đánh dấu lại bằng cái này.” Anh đưa cho cô chiếc bút dạ. Một phút sau, cô đã vẽ xong một hình vuông lớn ngay ngắn phía trên cái xác và hai hình vuông nhỏ hơn ở hai bên, mỗi hình có cạnh khoảng mười centimet. “Vậy là đã có câu trả lời.” Porter nói. Nash nhíu mày. “Thế này nghĩa là sao?” Porter đứng dậy, đỡ người phụ nữ lên cùng. “Cô tên gì?” “Sĩ quan khám nghiệm hiện trường Lindsy Rolfes, thưa Thanh tra.” “Sĩ quan Rolfes, cô có thể giải thích ý nghĩa của hình vẽ này không?” Cô ngẫm nghĩ giây lát, nhìn từ Porter sang mặt băng, rồi lại nhìn anh. Cuối cùng, cô đã hiểu. “Cái đầm này bị đóng băng, nhưng có người đã cắt băng ra, có thể là bằng cưa máy không dây, sau đó thả cô bé xuống nước. Nếu cô bé sảy chân ngã thì chỗ băng vỡ sẽ nham nhở chứ không vuông vắn thế kia. Nhưng có điểm bất hợp lý…” “Điểm gì?” Cô nhíu mày, thò tay vào hộp dụng cụ và lấy ra cái máy khoan không dây, lắp mũi khoan có đường kính hai mươi lăm milimet rồi khoan hai lỗ, một lỗ ở ngoài phạm vi mấy hình vẽ, một lỗ gần với thi thể. Cô dùng thước đo khoảng cách từ mặt băng tới mặt nước ở cả hai lỗ. “Sao lại thế nhỉ, cô bé nằm bên dưới ranh giới đóng băng.” “Tôi chẳng hiểu gì cả.” Clair nói. “Hắn đã đổ nước vào.” Porter nói. Rolfes gật đầu. “Đúng vậy, nhưng tại sao? Hắn có thể khoét một cái hố, đẩy cô bé xuống bên dưới lớp băng sẵn có, rồi để cho cái hố tự đông lại được mà. Như thế sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều chứ. Cô bé có thể biến mất, thậm chí là vĩnh viễn.” Clair thở dài. “Làm ơn giải thích cho những người không được học qua lớp Hố Băng sơ cấp như tụi tôi được không?” Porter ra hiệu về phía cái thước, Rolfes đưa nó cho anh. “Băng ở đây dày ít nhất mười centimet. Mọi người có thể thấy mực nước đo được ở chỗ này.” Anh chỉ vào dấu vết trên cái thước. “Nếu khoét một hình vuông trên băng rồi nhấc ra, ta sẽ được một thành băng dày mười centimet tính từ mặt băng tới mặt nước. Giả sử ta thả xác cô bé vào đó, cô bé chìm xuống, sau đó ta muốn xóa cái hố này đi. Chỉ có một cách. Đó là đợi cho tới khi mặt nước phía trên cái xác đóng băng, chí ít là một lớp mỏng, sau đó đổ nước vào hố cho bằng với mặt băng xung quanh.” “Ít nhất phải hai giờ sau nước mới bắt đầu đóng băng.” Rolfes nói. “Cũng có thể nhanh hơn một chút, căn cứ vào nhiệt độ ngoài trời mấy ngày gần đây.” Porter gật gù. “Hắn tiếp tục đổ nước vào cho tới khi lượng nước mới ngang bằng với lớp băng xung quanh. Hung thủ là kẻ rất kiên nhẫn. Việc này cực kỳ mất thời gian.” Anh quay sang viên sĩ quan giám sát. “Chúng ta sẽ cần đến chỗ băng này. Thu thập tất cả những gì có ở phía trên cô bé cộng thêm ít nhất vài centimet xung quanh hình vuông. Rất có thể có dấu vết nào đó rơi vào nước trong lúc đóng băng. Hung thủ quanh quẩn ở đây rất lâu.” Viên sĩ quan có vẻ như muốn cãi lời, sau đó lại miễn cưỡng gật đầu. Anh ta biết Porter nói đúng. Ánh mắt Porter lại hướng về phía đám cây cối um tùm ở đằng xa. “Có điều, tôi không hiểu tại sao kẻ làm việc này lại không vứt cô bé ở kia. Đem cái xác tới nơi quang đãng này, hì hục cắt băng, lấp đầy nước, chờ cho đóng băng… như vậy quá mạo hiểm. Hung thủ có thể đem cô bé qua cầu rồi bỏ lại ở bất cứ chỗ nào bên đó, sẽ chẳng ai phát hiện ra cho tới tận mùa xuân, khi công nhân bắt đầu thi công. Vậy mà hắn lại dành hàng giờ để dàn dựng hiện trường gần khu vực có nhiều người qua lại. Chấp nhận nguy cơ bị bắt quả tang. Để làm gì? Để tạo cảm giác cô bé đã nằm đây lâu hơn nhiều so với thực tế ư? Hắn chắc chắn phải biết cảnh sát thế nào cũng đoán ra chứ.” “Xác chết thường không nổi lên mặt nước.” Nash nói. “Ít nhất là trong vài ngày đầu. Nhìn cô bé xem. Được bảo quản hoàn hảo. Tôi vẫn chưa hiểu sao cô bé lại nổi lên thế kia.” Porter di ngón tay theo cạnh của hình vuông lớn rồi dừng lại ở một trong hai hình vuông nhỏ kế bên. Áp mặt lại gần lớp băng, anh nhìn nghiêng từ bên cạnh và quan sát thi thể. “Quỷ tha ma bắt.” “Gì thế?” Rolfes rướn người tới. Porter rà bàn tay lên mặt băng trên vai cô bé. Khi tìm thấy thứ cần tìm, anh đặt tay Rolfes lên đó. Cô nhìn anh, mắt cô dần mở lớn trong lúc ngón tay hơi bấm xuống băng. Cô sờ vào vị trí tương ứng ở phía đối diện. “Hắn giữ cho cô bé khỏi chìm bằng cách dùng một vật bắc ngang qua cái hố này, có thể là tấm ván cỡ 2x4, căn cứ vào những dấu vết để lại. Sau đó, hắn quàng một sợi dây hoặc sợi thừng qua vai cô bé, rồi buộc vào tấm ván trong lúc chờ cho chỗ nước mới đóng băng. Xong xuôi, hắn cắt dây đi. Mọi người vẫn có thể sờ thấy hai đầu dây trong lớp băng ở chỗ này. Đoạn dây còn lại đủ để giữ cho cô bé nổi lên gần mặt nước. Mọi người sẽ thấy một sợi thừng mảnh nếu lựa đúng vị trí nhìn xuống lớp băng theo một góc nghiêng.” “Hắn muốn cô bé được tìm thấy ư?” Clair hỏi. “Hắn muốn để lại dấu ấn sâu đậm trong trường hợp cô bé được tìm thấy.” Porter nói. “Hắn hao tâm tổn trí dàn dựng sao cho nhìn bề ngoài tưởng như cô bé chết cóng dưới đầm từ nhiều tháng trước, dù thực tế cô bé mới ở đây cùng lắm là vài ngày, có thể ít hơn. Ta cần phải tìm hiểu lý do.” “Tên này đang giỡn mặt chúng ta.” Rolfes nói. “Hắn sắp đặt hiện trường để truyền tải câu chuyện nào đó.” Bản năng tự bảo vệ và nỗi sợ là hai trong số những bản năng mạnh mẽ nhất của con người. Porter không rõ liệu mình có muốn gặp một kẻ vô cảm với cả hai điều đó hay không. “Vớt cô bé lên đi.” Cuối cùng, anh nói. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Thứ Năm của tác giả J. D. Barker & Matryoshka (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đừng Nói Chuyện Với Cô Ấy
Tuyệt vọng, sụp đổ, tự hủy hoại mình, tự vẫn… Điều đáng sợ không phải ở chỗ chúng ta đã làm ra những việc này. Mà ở chỗ chúng ta căn bản không biết tại sao mình lại làm như vậy. Dùng tâm lý để phạm tội, dùng ý nghĩ để giết người. Đó chính là sức mạnh đáng sợ của hành vi “ám thị giết người”. Những người tự kết liễu cuộc đời mình vì sự ám thị của một ai đó… Rốt cuộc đây là một sức mạnh thần kỳ và khiến người ta kinh sợ tới mức nào? Nó gần như đã làm đảo lộn mọi khái niệm về tâm lý học và tâm lý học tội phạm thông thường, hóa ra cao thủ thực sự chỉ cần dùng mấy câu nói, mấy động tác là đã có thể giết người trong vô hình; hóa ra tinh thần chỉ cần đủ mạnh là có thể đưa người khác vào chỗ chết. Thế giới nội tâm của con người rốt cuộc phức tạp tới mức độ nào? E rằng so với vũ trụ mênh mang còn bao la rộng lớn và sâu thẳm khó lường hơn! Đừng nói chuyện với cô ấy được xem là cuốn tiểu thuyết trinh thám tâm lý tội phạm “cân não nhất” trên văn đàn Trung Quốc. Những triết lý về phân tâm học của Sigmund Freud được tác giả vận dụng khá nhuần nhuyễn trong từng câu chữ, do đó, độc giả nhất định sẽ bị cuốn hút vào từng trang sách, sống cùng nhân vật với những cảm xúc hồi hộp, lo lắng và sợ hãi vô cùng ngoạn mục. Có thể nói, Đừng nói chuyện với cô ấy là một cuốn bách khoa toàn thư hữu ích cho người mới “nhập môn” thể loại tiểu thuyết trinh thám tâm lý tội phạm này. Tuy nhiên, tất cả những tình tiết được đưa ra trong truyện chỉ là những ví dụ nho nhỏ hư cấu nhằm giải nghĩa một bộ phận triết lý trong phân tâm học, không mang tính xác thực và chỉ có nhiệm vụ làm tăng thêm độ hấp dẫn cho tác phẩm. Thể theo nguyện vọng của đa số độc giả, Ban Biên tập xin được giữ nguyên các tình tiết và câu từ của tác giả, để bạn đọc có thể phần nào hiểu rõ hơn về các lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud. *** Bữa tiệc tưng bừng của tâm lý học và những điều bí ẩn Thường có độc giả hỏi tôi, tại sao lại viết ra một câu chuyện như Đừng nói chuyện với cô ấy ? Nguyên nhân viết ra câu chuyện này là gì? Tôi hường trả lời: “Tôi thích công việc viết lách, kiên trì nhiều năm, rốt cuộc đã viết ra được một tác phẩm không tệ, đây hẳn có thể tính là một lẽ thường tình. Còn về nguyên nhân... Không có nguyên nhân gì cả, viết ra một câu chuyện mà còn phải có nguyên nhân ư?” Nhưng tỉ mỉ ngẫm lại, đó rõ ràng là một câu trả lời hết sức qua loa, bởi lẽ bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có nguyên nhân. Tôi trả lời là không có nguyên nhân có lẽ là vì tôi lười không muốn suy nghĩ quá nhiều về điều này, cũng có thể là tôi đã biết được nguyên nhân, vậy nhưng xuất phát từ một mục đích nào đó mà lại vô thức tiến hành che giấu hoặc là ngụy trang co những tin tức có liên quan. Bất kể ra sao, để có thể nhân thức rõ bản thân hơn, đồng thời cũng là để có thể mang tới cho các bạn độc giả đã đưa ra câu hỏi này một câu xác đáng, tôi quyết định nhìn thẳng vào nội tâm của bản thân, từ đó tìm ra nguyên nhân thực sự khiến tôi sáng tác ra Đừng nói chuyện với cô ấy. Chuyện có lẽ phải bắt đầu nói từ lúc tôi còn nhỏ. Phần lớn các gia đình trên thế gian này đều không thể coi là đầm ấm, còn tôi thì được sinh ra trong một gia đình có thể nói là rất không đầm ấm. Từ khi tôi bắt đầu hiểu chuyện thì cha mẹ đã ôm mộng làm giàu, không ngừng mang tiền đi đầu tư một cách mù quáng, để rồi nợ nần chồng chất, càng chất càng cao. Vì bận làm ăn, họ rất ít khi để tâm đến gia đình, sau khi về nhà thì chỉ toàn cãi nhau là đem tôi ra trút giận, hơn nữa còn thường xuyên nói chuyện về nợ nần mà chẳng chút kiêng dè. Từ nhỏ tôi đã hiểu được rằng cả cha lẫn mẹ đều là người không đáng tin cậy, do đó rất thiếu cảm giác an toàn, tích cách cũng vì vậy mà trở nên u uất. Năm 2001, tôi từng thử tự sát hai lần, phương thức là dùng thuốc ngủ và cứa cổ tay. Đến khi thực sự làm rồi tôi mới phát hiện giết người không phải là một chuyện đơn giản, đặc biệt là khi giết chính bản thân mìn. Muốn chết mà không được, tôi dần dần biết cách kiên trì và nhẫn nại, đồng thời còn học được biện pháp tìm ra hi vọng trong sự tuyệt vọng. Trong trạng thái tâm lý ấy, tôi gặp được một cô gái có cái tên là Cẩn, bạ cùng lớp của tôi. Giữa những năm tháng nụ tình chớm nở, cô gái ấy đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp trong trái tim tôi, trở thành nơi mà tôi thác gửi niềm hy vọng đối với cuộc sống. Nếu không có cô ấy, có lẽ tôi sớm đã sa ngã để rồi cuối cùng đi đến sự hủy diệt. Gặp được cô ấy có thể coi là một điểm nhấn trong sinh mệnh của tôi, đây chính là nguồn gốc của bút danh “Ngộ Cẩn” Sự vô vọng và u uất trong hiện thực đã thúc ép tôi xây nên cho mình một thế giới tinh thần cực kỳ phong phú. Hồi nhỏ tôi rất thích khoa học tự nhiên, coi việc thăm dò nhữn điều bí ẩn trong vũ trị là mục tiêu cả đời mình. Chính quá trình tiếp xúc với ngành khoa học này đã hình thành nên địa vị chủ đạo của tính duy lý trong cách thức tư duy của tôi. Sau khi thử tự sát hai lần mà đều thất bại, tôi bắt đầu suy nghĩ về sự phức tạp của đời người và thế giới. Đương nhiên tất cả đều mơ hồ. Năm 2002, tôi đọc được cuốn Trăm năm cô đơn trong nhà của một người bạn cùng lớp, thế rồi tức thì đắm chìm vào trong những con chữ tràn trề sắc sống của García Márquez cùng thế giới quan khiến người ta phải gật gù tán thưởng ông. Một năm sau đó, tôi như đói như khát đọc liền một mạch hơn mười bộ danh tác văn học của cả Trung Quốc và nước ngoài, đồng thời bắt đầu thử sáng tác. Kể từ thời điểm đó, sáng tác đã trở thàn một điểm nhấn khác trong sinh mệnh của tôi. Trong quá trình không ngừng đọc và sáng tác, tôi bất ngờ phát hiện, ngoài những thiên thể xa xôi và huyền bím trong vũ trụ còn tồn tại rất nhiều bí ẩn khác, chẳng hạn như sự đổi thay và quy luật trong xã hội loài người, chẳng hạn như thế giới tâm lý phức tạp đến khó tả của từng cá thể nhân loại. Cho dù đã nhận thức được điều này, nhưng trong một thời gian khá dài sau đó, tôi vẫn chưa thể tiếp xúc với các tri thức tâm lý học chuyên sâu. Tôi chỉ biết dựa vào sự tò mò và bản năng của mình để bắt đầu quan sát, tiếp xúc, phân tích, cuồi cùng thử khống chế hoạt động tâm lý của bản thân. Về sau tôi mới hiểu ra, đây chính là cái gọi là “phân tích bản ngã” mà Freud đã nó tới. Tôi thích cảm giác phân tích bản ngã này, thế rồi càng ngày càng đào sâu vào nội tâm của bản thân, từ đó thu được rất nhiều kinh nghiệm phân tích tâm lý. Về sau khi tiếp xúc với tri thức về tâm lý học, đặc biệt là tri thức về phân tích tâm lý, tôi gần như là tự học thành tài, bởi lẽ những tri thức đó sớm đã trở thành một bộ phận trong sự trải nghiệm về tri giác của tôi. Năm 2006, lần đầu tiên tôi đọc được cuốn Giải mộng, tuy rằng không hiểu lắm nhưng vẫn rất say mê. Cuốn sách đó đã mở ra cho tôi một cánh cửa rộng lớn về phân tâm học, tôi loạng choạng bước vào, thế rồi phải “bò” đi một cách khó khăn. Sau khi đi sâu nghiên cứu các cuốn sách như Phân tâm học nhập môn , Tôtem và Tabu, tôi bắt đầu thử học “chạy”. Nhưng đối với tôi của thời điểm đó, để có thể nắm vững được môn khoa học này thì cần có thêm một số kinh nghiệm thực tiễn nữa mới được. Những kinh nghiệm này chẳng bao lâu sau khi đã bất ngờ đến với tôi. Mấy năm trước, khủng hoảng nợ nần của cha mẹ tôi rốt cuộc đã bùng nổ. Sau khi nhà tan cửa nát, tôi bắt buộc đối mặt với áp lực nặng nề từ xã hội. Trong những năm tháng đó, tôi đã tận mắt nhìn thấy mặt hiện mộc mạc nhất trong bản tính con người, cũng từng gặp phải những cái ác trần trụi nhất. Sau bao phen rèn luyện sống không bằng chết, tôi đương nhiên đã có được sự hiểu biết và nhận thức sâu sắc hơn về thế giới tâm lý của loài người. bây giờ ngẫm lại, bắt đầu từ khi đó, câu chuyện Đừng nói chuyện với cô ấy có lẽ đã nảy mầm trong lòng tôi rồi. Đương nhiên, nguyên nhân trực tiếp khiến tôi viết ra câu chuyện này là tôi đã xem hai phần của bộ phim truyền hình Mỹ Breaking Bad [7], để rồi cho rằng mình cũng có thể viết ra câu chuyện về một Giáo sư đại học đi giết người. Ban đầu tôi muốn viết về một vị Giáo sư dùng kiến thức vật lý, hóa học để giết người, vì tôi cũng rất có hứng thú với vật lý và hóa học. Nhưng sau phần mở đầu, tôi bỗng vô thức nảy ra một ý tưởng mới. Tôi vẫn còn nhớ rõ tình cảnh khi đó: Sau khi gõ chữ được đôi dòng, tôi đột nhiên sững người, hai tay rời khỏi bàn phím, hít sâu một hơi, sau đó mới lại đặt hai tay trở về. Hai giây sau, tôi xóa toàn bộ những gì đã viết, quyết định bắt đầu lại từ đầu, sau đó viết ra câu chuyện về một Giáo sư đại học lợi dụng những tác động tâm lý để giết chết người khác. Đây chính là nguyên nhân cụ thể khiến tôi viết ra câu chuyện này. Trong tác phẩm, ngoài những chi tiết đan xen và cô vàn điều bí ẩn thì còn có rất nhiều tri thức tuy sâu sắc nhưng dễ hiểu về tâm lý học, trong đó bao gồm cả một số quan điểm độc lập của người viết về hoạt động tâm lý của loài người. Nội dung trong truyện chủ yếu đề cập tới các phương diện như nguyên lý tâm lý học của hành vi ám thị, cơ chế tổn thương của tâm lý, sự luên quan và khả năng gây ảnh thưởng tới nhau của tâm lý và sinh lý, cơ chế tự bảo vệ của tâm lý, ý nghĩa của việc phát triển tâm lý tình dục đối với các sự kiện toàn tâm lý. Nếu đã đọc phần mở đầu của cuốn sách này rồi, tin rằng bạn sẽ không kìm nén được mà đọc một mạch tới phần kết thúc. Ngộ Cẩn Ngày 24 tháng 4 năm 2015 *** [Review] Đừng nói chuyện với cô ấy – Ngộ Cẩn Cuối cùng thì cũng đọc xong truyện này. Để giải tỏa tâm lí và thoát khỏi trạng thái bị nhấn chìm trong một tiểu thuyết trinh thám thì tôi quyết định viết một cái review (có spoil). Thực ra thì tôi cũng không biết bắt đầu từ đâu. Thông thường, tôi hay lải nhải về nội dung, sau đó là về nhân vật. Nhưng có lẽ tôi sẽ bình luận quyển trinh thám này theo một cách khác vậy. Hiện giờ tôi vẫn đang ốm sấp mặt nên mọi thứ trong đầu vẫn không được rõ ràng cho lắm… Trước hết là về cái trò giới thiệu của truyện. Nếu tôi nhớ không nhầm thì truyện do Amunbooks gì đó mua bản quyền, cái phần nêu sơ sơ nội dung cũng như bao truyện khác nên không thể nhận xét hơn thua. Tóm lại, ấn tượng là nội dung khiến người ta tò mò và “thèm”. Nhưng mà cũng khiến một đứa hay vớ phải bom xịt  như tôi băn khoăn. Cho nên là pass! Cái hành trình mượn truyện của tôi khá gian nan. Đương nhiên là cuối cùng thì vẫn lên mạng đọc cho khỏe, nhưng mà vẫn thèm cái cảm giác ôm hai quyển ngồi trong chăn, vừa đọc vừa lau nước mũi. Việc bị ốm cũng không thành vấn đề luôn… Lan man một chút là đọc online hơi “khắm”, tôi đọc trên sstruyen và cái chỗ này gõ sai nhiều, hơi bực nhưng cái gì cũng có giá của nó. Giờ thì vào nhận xét truyện đây. Trước khi tìm được bản full, tôi đã đọc được gần 2 chương trên cái trang wordpress của amun và còn đọc đi đọc lại khoảng 4 lần, sau đó thì thêm 2 lần đọc wattpad nhưng ra quá lâu nên tôi cũng cho nó chìm vào quên lãng luôn. Lúc nhìn bản full còn ngỡ là chúng nó vớ vẩn, nhưng mà có 47 trang trên đấy, chắc chắn không đùa và đúng là không đùa thật. Tôi thành công có truyện để đọc và quả thật cái cảm giác đọc lại hai chường đầu lần thứ 7 thật là thốn… Tóm tắt nội dung: Phóng viên tờ Phổ Pháp, Trương Nhất Tân phụ trách phần chuyên mục của báo đến gặp tên tội phạm Diệp Thu Vi, là phụ nữ nhưng lại giết bao nhiêu mạng người bằng phương pháp ám thị. Đấy, đấy! Chỉ có thế thôi á? Đương nhiên là không, và tôi cũng rất vui vì không chỉ có thế. Giống như hồi lớp 9 say mê đọc “Đề thi đẫm máu”, mỗi ngày đọc một chút, chỉ sợ hết không có cái gì đọc, lần này tôi cũng chủ trương là một ngày sẽ đọc khoảng 2 đến 3 chương. Tôi còn nhớ rõ những nạn nhân của Diệp Thu Vi, đó là Thư Tình, Tạ Bác Văn, Đinh Tuấn Văn, Trần Hy, Vương Vĩ, Triệu Hải Thời, Hà Ngọc Bân… Ừm, còn ai nữa không biết nhỉ? Quá đau đầu nên không thể nhớ được… Nếu ai đó tìm kiếm review cho truyện này và đọc cái bài viết này của tôi đến dòng này thì xin cảm ơn vì bạn đã rất kiên nhẫn. Nhưng mà bản thân tôi không nên spoil truyện nhỉ? Thôi thì kệ. Cái làm tôi ám ảnh chính là plot twist của truyện. Một nhân vật “tôi” chắc chắn không phải tầm thường, hơn nữa qua quá trình trò chuyện cùng Diệp Thu Vi, anh ta bộc lộ ra rất nhiều vấn đề, về tâm lí, về trí tuệ và khả năng phân tích tâm lí… Và rồi thì ra cái danh sách người chết ấy phần lớn là do anh ta gây ra, còn cô Diệp kia chỉ là thông đồng với tên họ Thang để đánh thức tâm lí của “tôi” mà thôi. Tôi từng đọc một quy tắc khi viết trinh thám là đặt độc giả một cách công bằng. Nghĩa là tất cả manh mối, bằng chứng và n thứ khác độc giả có quyền biết, có quyền suy luận để tìm ra kẻ đứng sau. Nhưng mà tôi sợ nhất là mấy quyển trinh thám lách luật bằng cách dùng “tôi”. Rất hay! Tôi không thể nào cáu vì sao thằng nhân vật chính này biết ít thế. Nhưng cái truyện  này từ cái lúc “tôi” phát hiện chính mình là sát thủ tâm lí X, đã giết nhiều người và bị phân li nhân cách thì tôi hết chịu nổi. Well, không thể trách ai được nhỉ, ngay cả Trương Nhất Tân giết bao nhiêu người, nhân cách hỗn loạn một cái mà tội ác và sự hối hận cứ như có như không vậy. Trương Nhất Tân, loạn luân với em gái “nuôi”, tự đổ lỗi cho một nhân cách khác trong anh ta. Rồi sau đó chứng kiến em gái bị làm nhục đến chết, anh ta lại rơi vào cái từa tựa như tiến hóa, nắm bắt tâm lí con người và thực hiện bao vụ giết người. Còn Diệp Thu Vi, cũng “tiến hóa”, cũng sử dụng khả năng của mình để giết người và tìm hiểu bí mật của vụ việc năm xưa. Nhưng không hiểu sao tôi lại đồng cảm với Diệp Thu Vi hơn gã kia. Có lẽ là do cái ánh mắt buồn, cái thở dài và phong cách tự tin kia. Nếu như họ Trương đạo mạo trong cái trạng thái sát thủ X thì Diệp Thu Vi lại khéo léo và sắc sảo, không hề sợ hãi. Suy cho cùng thì vẫn là Diệp Thu Vi cao tay hơn. Và tôi vẫn mong Trương Nhất Tân lẫn Diệp Thu Vi phải chịu sự trừng phạt thích đáng… Không hiểu sao mà đoạn kết Diệp Thu Vi vẫn còn sống sau cái tin tự sát trong bệnh viện và Trương Nhất Tân thì bị mất hết kí ức. Hai người gặp nhau, nhưng tôi chả thích một chút nào. Tình cảm của Trương Nhất Tân đối với cô em gái nuôi Trương Minh Khê đã làm tôi cảm thấy khó chịu, thế mà đoạn kết lại chứng kiến cảnh anh ta gặp lại Diệp Thu Vi trong một thứ cảm giác mơ hồ như vậy. Chả có lẽ người đáng thương, đáng đồng cảm nhất truyện lại là vợ của anh Trương này à? Ok, cuối cùng vẫn phải gửi một lời khen cho truyện. Đó là nó cho tôi rất nhiều kiến thức, đại loại như là mặc cảm Oedipus, chứng OCD, một vài loại hóa chất độc,… Hơn nữa nó làm tôi muốn đọc ngay cuốn “Giải mộng” và “Vẻ đẹp của tiềm thức”… Nhìn chung vẫn là một quyển sách (hai quyển) đáng đọc. P/s: Ngày hôm trước làm test trầm cảm, 15 điểm, rơi vào trầm cảm vừa. Và bản thân tôi giờ vẫn chưa thoát khỏi cái trạng thái này. Nhưng có lẽ đỡ hơn rồi. Như một cách hay ho, đọc mấy quyển sách có những cái liên quan đến tâm lí lại giúp bản thân tự hiểu vấn đề riêng. À thôi, dừng ở đây thôi. Mời các bạn đón đọc Đừng Nói Chuyện Với Cô Ấy của tác giả Ngộ Cẩn.
Sổ Tay Nhà Thôi Miên Tập 2
“Sổ tay nhà thôi miên” là một bộ truyện viết ở ngôi thứ nhất, nhân vật “tôi” – nhà thôi miên giữ vai trò tự kể lại câu chuyện xoay quanh nghề nghiệp của mình, mỗi phần thu thập khoảng 10 câu chuyện, viết thành 15 chương. Cao Minh đã sáng tác hai cuốn sách rất có tiếng vang là “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” và “Sổ tay nhà thôi miên”, trong đó “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” viết về thế giới bình thường của những con người bất thường, còn “Sổ tay nhà thôi miên” lại viết về thế giới tinh thần bất thường của những con người bình thường. Điểm giống nhau của hai cuốn sách này là đều dựa trên những câu chuyện có thật. Tác giả đã đích thân phỏng vấn các bệnh nhân trong “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” nhưng chỉ góp nhặt thông tin cho “Sổ tay nhà thôi miên” thông qua các nhà thôi miên và bác sĩ phân tích tâm lý, bởi họ phải giữ kín thông tin cá nhân của người bệnh. Chính vì vậy cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” sẽ khiến độc giả chấn động nhiều hơn, bởi đa số chúng ta đều đã gặp phải các vấn đề được nhắc đến trong cuốn sách, thậm chí còn trầm trọng hơn. Mong muốn ban đầu khi ra mắt cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” chính là hy vọng độc giả có thể soi nội tâm mình trước gương, nhìn thẳng vào chính bản thân mình. Mỗi người chúng ta đều giống như một cái lọ, khả năng chất chứa áp lực luôn có hạn, nếu vượt quá khả năng sẽ rất nguy hiểm, nên phải học cách giải tỏa áp lực, thử trao đổi và bộc lộ nó ra ngoài, đừng nên xem nhẹ. Mỗi một câu từ, mỗi một lời đối thoại phi logic, mỗi trật tự sắp xếp trong từng chương của cuốn cách đều được tác giả dày công biên soạn, hy vọng các bạn không bỏ qua khi đọc sách. Thực ra, thế giới này luôn bình thường, chính chúng ta mới có vấn đề. *** Review sách “Sổ tay nhà thôi miên” – Những case thôi miên có thật phản ánh thực trạng căng thẳng tâm lý của nhiều người hiện nay Mâu thuẫn gia đình, áp lực công việc, xung đột tình cảm… là những vấn đề luôn khiến chúng ta căng thẳng, ngủ không ngon và hay gặp ác mộng. Nguyên nhân vì đâu? Phải giải quyết những tình trạng này như thế nào? Cuốn sách “Sổ tay nhà thôi miên” mới xuất bản gần đây sẽ cho bạn câu trả lời. “Sổ tay nhà thôi miên” là cuốn sách tâm lý tiếp theo của tác giả Cao Minh sau thành công của “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải”. Chúng ta đã từng biết tới “Thiên tài bên trái, kẻ điên bên phải” – thành quả của tác giả Cao Minh sau bốn năm lui tới không biết bao nhiêu các bệnh viện tâm thần, các cơ quan của Bộ Công an và vô số các phòng khám để tiếp xúc trực tiếp với hàng trăm “con người không bình thường”, cuốn sách thu hút sự quan tâm của hàng triệu độc giả. Lần này vẫn là tác giả Cao Minh, nhưng là Cao Minh sau những lần tới các phòng khám tâm lý, phòng khám thôi miên thu thập tư liệu, để cho ra đời “Sổ tay nhà thôi miên”, thông qua mười lăm case thôi miên hy vọng có thể phản ánh được thực trạng căng thẳng tâm lý của con người đương đại, phản ánh sự cộng hưởng tâm lý của những người dân thành thị. Đọc xong “Sổ tay nhà thôi miên”, liệu bạn có nhìn thấy bóng hình mình trong đó? Hãy cùng đọc tóm lược về một case trong cuốn sách này nhé! CASE 1: CƠN ÁC MỘNG BẮT NGUỒN TỪ SỰ CHỈ TRỎ CỦA NHỮNG NGƯỜI XUNG QUANH Vừa ngồi xuống, anh ta tỏ ra bứt rứt bất an, liên tục khụt khịt mũi, cử động ngón tay hoăc cau mày do tố chất thần kinh. Có lẽ người đàn ông trung niên trước mặt đang chịu áp lực tâm lý vô cùng lớn và rất bất an vì nó. Nhà phân tích tâm lý: “Anh… gần đây ngủ không ngon à?” Người đàn ông trung niên: “Không phải gần đây, đã ba, bốn năm nay tôi ngủ không ngon giấc. Là thế này, từ ba, bốn năm trước tôi thường xuyên mơ thấy tôi giết vợ mình. Tôi sẽ dùng dao, dùng dây thừng, dùng gối, bẻ gãy cổ, dùng búa… đã vậy sau khi giết còn dùng đủ mọi phương thức để xử lý thi thể… Mỗi lần tỉnh dậy, cả người tôi đều ướt đẫm mồ hôi. Trong giấc mơ tôi đã dự tính trước hết rồi, còn kéo thi thể tới nơi đã chuẩn bị sẵn để xử lý. Ví dụ cắt rời, cho vào bồn tắm đầy axit sulfuric, để tránh axit sulfuric bắn ra ngoài, dùng một tấm kính lớn đậy lên thành bồn, dùng lửa thiêu, hoặc lái xe kéo tới một nơi nào đó, chôn xuống cái hố đã đào sẵn từ trước.” Nhà phân tích tâm lý: “Anh từng mơ thấy bị bắt bao giờ chưa?” Người đàn ông trung niên: “Thời gian đầu thì có, càng về sau càng chuyên nghiệp, không lần nào bị bắt cả.” Nhà phân tích tâm lý: “Vậy vì sao anh lại giết cô ấy?” Người đàn ông trung niên nhìn xuống đầu gối mình, yên lặng rất lâu mới lên tiếng: “ Tôi không biết… Dục vọng giết người thực sự có thể di truyền sao? Năm tôi chín tuổi bố tôi đã giết mẹ tôi. Tôi đã tận mắt nhìn thấy.” Nhà phân tích tâm lý: “Nguyên nhân là gì thế?” Người đàn ông trung niên: “Tôi cũng không rõ lắm, nhưng nghe bà nội tôi kể… Ồ, đúng rồi, tôi do bà nội nuôi lớn. Nghe bà nói, mẹ tôi là một phụ nữ đanh đá, hơn nữa… ừm… hơn nữa, nguyên nhân bố tôi giết mẹ tôi là vì mẹ tôi đã ngoại tình.” Nhà phân tích tâm lý: “Bố anh bị xét xử chưa? Xin lỗi, tôi không có ý muốn dò la chuyện riêng tư, nhưng…” Người đàn ông trung niên: “Không sao, đó là sự thật mà. Xét xử rồi, xử tử hình, vì vậy tôi mới được bà nội nuôi.” PHÂN TÍCH BỆNH ÁN Sau khi người đàn ông trung niên ra về, nhà phân tích tâm lý ngồi nghiêng bên cạnh bàn sách, một cánh tay và hai chân đều gác lên trên bàn, nhắm mắt như đang đánh tạm một giấc vậy. Nhà phân tích tâm lý: “Trong giấc mơ phần quan trọng nhất anh ấy thể hiện không phải bạo lực, mà là rất bình tĩnh xử lý thi thể, anh không cảm thấy như thế rất kỳ quái à?” Nhà thôi miên: “Đánh đồng xử lý thi thể và xu hướng bạo lực thành một là sai à?” Trong lần gặp tiếp theo gần một tuần sau đó, bệnh nhân được hỏi về những thay đổi trong gia đình sau khi bố anh ta giết mẹ anh ta.Nhà phân tích tâm lý: “Đúng vậy, không nên đánh đồng hai việc làm một, giết người là giết người, xử lý thi thể là xử lý thi thể. Giết người đại diện cho bạo lực, còn xử lý thi thể lại mang ý nghĩa khác. Nếu tôi đoán không nhầm, xử lý thi thể biểu hiện tình cảm của anh ấy.” Người đàn ông trung niên: “Ừm, rất nhiều người chỉ chỉ trỏ trỏ bàn tán về tôi… Nhưng bà nội một mình nuôi tôi, kinh tế có hạn, không thể chuyển nhà hay chuyển trường được. Tuy sau khi tốt nghiệp tiểu học lên trung học tình hình có đỡ hơn một chút, nhưng môi trường sống vẫn thế. Về cơ bản… vẫn bị người ta chỉ chỉ trỏ trỏ. Nửa đêm thỉnh thoảng bà nội lại ôm tôi khóc, cho tới khi tôi khóc tỉnh dậy. Bà nội nói với tôi rất nhiều, nhưng khi đó tôi không hiểu, chỉ biết khóc cùng.” Nhà phân tích tâm lý: “Bà anh… còn sống không?” Người đàn ông trung niên: “Mất rồi, hồi tôi còn chưa tốt nghiệp đại học, vì việc này tôi đã nghỉ học mất một năm.” Nhà phân tích tâm lý: “Anh còn họ hàng nào khác không?” Người đàn ông trung niên: “Sau khi xảy ra chuyện, bên phía ông bà ngoại không còn bất cứ liên hệ nào với chúng tôi nữa, có lẽ bên đó vẫn còn họ hàng. Nhưng không qua lại với nhau nên không biết…” Nhà phân tích tâm lý: “Bên đằng nội thì sao?” Người đàn ông trung niên: “Bố tôi là con một, cũng có một số họ hàng xa, nhưng từ sau khi trong nhà xảy ra chuyện, chẳng có bất cứ liên hệ nào nữa.” Nhà phân tích tâm lý gật đầu: “Ừm, được, tôi hiểu rồi. Đợi lát nữa thôi miên xong chúng tôi sẽ cho anh biết vấn đề nằm ở đâu.” Buổi thôi miên tiến hành rất thuận lợi, trọng tâm chính là tình trạng và tâm lý sau khi anh ta mất bố mẹ. Khi buổi thôi miên sắp kết thúc, nhà thôi miên giữ lại những ký ức chôn sâu trong tiềm thức đã khai thác được lúc anh ta bị thôi miên. KẾT LUẬN BỆNH ÁN Giết vợ trong mơ, ngoài việc xu hướng bạo lực, di truyền và bóng ma do tận mắt chứng kiến bố giết mẹ có đôi chút quan hệ với nhau thì đó không phải điểm mấu chốt. Quan trọng ở đây là anh ta khao khát có một thời thơ ấu hoàn chỉnh. Trên thực tế trọng điểm giấc mơ giết vợ nằm ở quá trình xử lý thi thể. Anh ta đã tận mắt nhìn thấy mẹ chết, vì vậy chẳng còn ôm chút hy vọng nào, hy vọng mẹ có thể sống lại là quá xa vời. Bởi vậy anh ta đặt toàn bộ kỳ vọng vào bố, anh ta hy vọng bố mình không bị trị tội, như vậy ít nhất anh ta còn có một gia đình đơn thân chứ không phải mồ côi cả bố lẫn mẹ. Trong giấc mơ, anh ta càng xử lý thi thể gọn gàng sạch sẽ càng dễ dàng trốn thoát sự trừng trị của pháp luật. Cũng có nghĩa tuy mất mẹ nhưng anh ta vẫn còn có bố. Trên phương diện luật pháp, nếu sau khi mưu sát có thể tiêu hủy toàn bố chứng cứ và không thể định tội, vụ án sẽ trở thành vụ mưu sát hoàn mỹ. Vì vậy giấc mơ của anh ta chú trọng tạo ra vụ mưu sát hoàn mỹ, mượn nó để vỗ về giả tưởng bố anh ta sẽ không bị định tội giết vợ. Anh ta sẽ không mất đi cả hai người thân, thời thơ ấu cũng không thê thảm, không phải chịu nhiều áp lực tâm lý nặng nề. Chúng ta đều hiểu, mọi chỉ trích và bàn tán xuất phát từ tội lỗi của bố anh ta. Anh ta vẫn luôn canh cánh trong lòng về những hồi ức thời thơ ấu, cho đến tận bây giờ, vì vậy khi cân nhắc chuyện kết hôn, anh ta kiên quyết bỏ qua kiểu phụ nữ giống mẹ mình bởi sợ sẽ giẫm phải vết xe đổ của bố. Anh ta hiểu rõ chính tính cách dữ dằn và việc ngoại tình của mẹ đã dẫn tới kết quả cực đoan này, và người chịu tổn hại lớn nhất lại chính là anh ta. Sau khi kết hôn và có con, tâm lý khiếm khuyết đó của anh ta được bù đắp phần nào, sự dịu dàng của vợ anh ta và sự ấm áp mà gia đình mang lại đã khiến anh ta không còn ôm bất cứ hoang tưởng và giả thuyết nào về mẹ mình nữa. Nhưng quá khứ mất người thân và phải chịu đựng sự chỉ trích, bàn tán vẫn luôn ám ảnh anh ta, sau khi so sánh với con trai mình lại càng bùng lên mãnh liệt hơn. Anh ta từng nói bắt đầu mơ thấy ác mộng từ ba, bốn năm trước, lúc đó con trai anh ta tầm tám, chín tuổi, bằng tuổi lúc anh ta nhìn thấy bố giết mẹ. Vì vậy anh ta bắt đầu nhớ lại thời thơ ấu của mình thông qua giấc mơ này. Anh ta đã tận mắt chứng kiến tất cả, bản thân anh ta đã trải qua những chuyện đáng lẽ anh ta không nên phải chịu đựng, ngoài hiện thực anh ta đã chẳng còn ôm bất cứ hy vọng nào, thậm chí trong giấc mơ anh ta cũng dùng phương thức chuyển đổi để biểu đạt nguyện vọng của mình. Đề nghị anh ta nên kể chuyện này với vợ, anh ta đã chịu đựng quá nhiều điều không đáng phải chịu đựng và đã gánh vác quá nhiều rồi. Mời các bạn đón đọc Sổ Tay Nhà Thôi Miên Tập 2 của tác giả Cao Minh.
Thi Nhân và Sát nhân
Thi nhân và Sát nhân là tác phẩm thứ chín trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng thời Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên. Năm 670, Địch Công vẫn là huyện lệnh của Huyện Phổ Dương. Khi lưu lại Quyên Thành, ông được Lỗ Tri huyện mời đến đến tham dự dự bữa tiệc của các thi nhân. Nhưng chưa kịp đàm đạo thơ phú, Địch Công đã bị cuốn vào các vụ án mạng và những bí ẩn liên quan đến tín ngưỡng thờ hồ ly trong vùng. Một vị Cống sĩ bị sát hại ngay trong buồng riếng. Người ta đồn đại, chàng bị một con hồ ly đội lốt giai nhân quyến rũ rồi cắn chết. Một thiếu nữ sống cùng bầy cáo trong miếu thờ hắc hồ. Người ta nghi hoặc nàng đang nắm trong tay những bí mật động trời. Trăng rằm ngày một sáng, liệu chân tướng sự việc có nhanh chóng được soi tỏ? Địch Công chỉ còn một cơ hội cuối cùng để tìm ra kẻ sát nhân máu lạnh đang ẩn tàng giữa những thi nhân danh tiếng. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT: huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. Các nhân vật khác LỖ QUAN TÙNG: tri huyện Quyên Thành, một thi sĩ hạng xoàng. CAO PHONG: Sư gia của nha phủ Quyên Thành. THIỆU PHÀN VIÊN: cựu đại học sĩ Hàn lâm viện. TRƯƠNG LAM BA: thi sĩ cung đình. NGỌC LAN: một nữ sĩ danh tiếng. NHƯ Ý: một thiền sư. MẠNH TÔ HẢI: một thương gia buôn trà. TỐNG NHẤT VĂN: một cống sỹ nghiên cứu lịch sử. TIỂU PHƯỢNG: một vũ nữ. CHU HÔNG: vệ nữ miếu Hắc Hồ. Các vụ án trong truyện Vụ án CỐNG SĨ BỊ CỨA CỔ. Vụ án NỮ THI SĨ SÁT NHÂN. Vụ án VŨ NỮ BỊ ÁM HẠI. Mời các bạn đón đọc Thi Nhân và Sát nhân của tác giả Robert van Gulik & Tùng Vũ (dịch).