Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bố Già

TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng
Tuyệt vời, ấm áp và đáng đọc" - Mark Twain Cô bé Rebecca 11 tuổi thông minh, nhanh miệng, vui tính và hồn nhiên được mẹ gửi đến ở với hai người dì ở thị trấn Riverboro. Giờ thì cô bé phải bắt đầu làm quen với một cuộc sống mới, trường học, bạn bè, những người hàng xóm mới. Và trên hết là bà dì khó tính lúc nào cũng tìm cách soi lỗi của Rebecca. Liệu những bộ quần áo đẹp và trường học có đáng để cô bé mơ mộng giàu tưởng tượng ấy phải hi sinh, hay sẽ khiến cô bé tìm cách quay trở về Trang Trại Suối Nắng? Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng là cuốn tiểu thuyết thiếu nhi kinh điển sẽ đưa các em vào cuộc khám phá trải nghiệm tuyệt vời về con người và vùng quê nước Mỹ thế kỷ XIX. Đây thực sự là một tác phẩm hấp dẫn và có sức lôi cuốn mạnh mẽ, được nhiều tầng lớp độc giả yêu thích từ nhiều thập kỷ qua. ***   Review Sách "Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng": Tác Phẩm Thiếu Nhi Kinh Điển Và Còn Hơn Thế Nữa Gấp sách lại, tôi thấy tim mình đang đập rất nhanh, đến nỗi đang viết đây mà tay tôi vẫn run lẩy bẩy...   Tôi không thích nói về văn phong về ý nghĩa về trẻ em về giá trị về này kia, tôi chỉ muốn nói về Adam Ladd – “chú Aladdin” của Rebecca, phân tích anh đến tận cùng, thêu dệt nên tất cả những gì tôi có thể thêu dệt về anh, vì đây chính là nhân vật khiến tôi đổ gục ngay từ giây phút đầu xuất hiện. (Tôi sẽ gọi ông chú 34 tuổi này là “anh”, theo như dịch giả gọi, và vì tâm hồn anh phù hợp với nhân xưng ấy). Thật ra là, lúc đọc lời nhà văn Jack London gửi cho Kate Douglas Wiggin: “Tại sao cô bé không phải là con gái tôi? Tại sao người mua ba trăm bánh xà phòng kia không phải tôi? Tại sao, ôi, tại sao chứ?” – tôi cứ ngỡ “người mua ba trăm bánh xà phòng” hẳn phải là một ông bác phúc hậu, kiểu như sẽ là cha đỡ đầu gì đó của Rebecca chứ? Ai mà ngờ được đó lại là một “ông chú” trẻ tuổi ưa nhìn, người mà từ lần đầu xuất hiện đã lập tức trở thành tia nắng sưởi ấm cho cuộc đời Rebecca (hai người gặp nhau lần đầu khi Rebecca 12 tuổi, Adam 29 tuổi).    Lúc đầu, chẳng hiểu sao cái tên chương báo hiệu sự xuất hiện của Adam khiến tôi rất chán – “Chú Aladdin”, như thể tác giả đang giả vờ úp mở rằng một ông chú tốt bụng sắp sửa xuất hiện. Tôi nghĩ, nếu là một ông chú tốt bụng thì chỉ cần bác Cobb là đủ rồi, chả cần thêm. Nhưng thật may, và thật tuyệt, là tôi đã lầm, vì ông chú này không chỉ tốt bụng, mà còn cực kỳ thú vị (và trẻ, và đẹp trai, và giàu có, wow!). Và rồi khi ông chú hào phóng quyết định mua hẳn ba trăm bánh xà phòng (khiến Rebecca kinh ngạc đến nỗi ngã ngửa khỏi hiên, rơi tõm vào lùm cây), tôi đã quyết định, mình thích ông chú này. Cái sự “mua ba trăm bánh xà phòng” nói hào phóng thì cũng hào phóng đấy, nhưng theo lẽ thường, chắc phải lý giải theo kiểu bà bác Miranda của Rebecca (nhân vật khắc nghiệt nhất truyện) thì tôi thấy hợp lý hơn:  "Ba trăm bánh xà phòng!” bà Miranda thốt lên.  “Chao, thật đúng là có một cái loại mùa vụ chưa bao giờ thất thu ở Riverboro này!”“Mùa gì đấy ạ?” cô Lydia lịch sự hỏi. “Mùa ngu.”  (Ha ha ha, đây là đoạn tôi thích nhất truyện. Bác Miranda khắc nghiệt của chúng ta chửi người còn hay hơn hát). Nhưng ba trăm bánh xà phòng ấy chính là cơ duyên cho sự quen biết của Adam và Rebecca. Lần đầu gặp gỡ, anh vì đôi mắt lanh lợi kia mà vung tay mua ba trăm bánh xà phòng (rồi để chất đống trong nhà kho chưa biết xài tới bao giờ), chỉ bởi cô bé bán những bánh xà phòng ấy – Rebecca, là cô bé “đặc biệt và có sức thu hút nhất” mà anh từng thấy. Theo thời gian, anh chứng kiến cô bé ấy từng bước trưởng thành bằng ánh nhìn tán dương và trân trọng, nâng đỡ quan tâm cô theo một cách thật cẩn thận và tinh tế. Ví như, chỉ để “hợp lý hóa” món quà của mình và không gây nên thị phi không đáng có gì ảnh hưởng đến cô bé, vào những dịp mà không ai có thể nói ra nói vào (như Giáng Sinh chẳng hạn), anh tỉ mỉ chọn từng món quà cho cô nhưng luôn không quên tặng một món tương tự cho Emma Jane, bạn thân của Rebecca. Dù cô bé bạn thân nọ anh hầu như không nhớ được tên. Lại ví như, khi gia đình Rebecca gặp khó khăn, anh không trực tiếp ra mặt giúp đỡ, mà ý nhị tổ chức một cuộc thi viết luận với giải thưởng cao. Anh nghĩ thế này:  Bạch Tuyết – Hoa Hồng cần giúp đỡ, mình chẳng có cách nào giúp cô bé mà không gây điều tiếng cả, nên cô bé phải tự đạt được nó, cô gái nhỏ tội nghiệp! Không biết tiền bạc của mình có phải luôn trở nên vô dụng mỗi khi mình cần đến hay không nữa!. Và than ôi, tim tôi đập thình thịch khi đọc những dòng ấy. Cái cách anh muốn giúp nhưng luôn tìm lý do thật đường hoàng để giúp, cách anh trăn trở để sao cho mọi sự quan tâm của mình phải thật tự nhiên và thường tình. Sau lưng, anh không ngại nài nỉ cô giáo Maxwell hãy dùng tài lực của anh để hỗ trợ Rebecca, nhưng trước mặt Rebecca, anh luôn là một ông chú vui vẻ tốt bụng, chưa từng để cô phải khó xử vì điều gì. Có lẽ, thật ra, ngay từ đầu, ông chú chỉ đơn giản là yêu thích cô bé ấy, vì đứa trẻ này đáng yêu quá. Nhưng rồi, theo từng bước chân của cô bé, tận mắt chứng kiến đứa trẻ ấy ngày một trưởng thành và hoàn thiện, thấy viên ngọc ấy ngày một tỏa sáng rạng rỡ, có người nam nào lại giữ lòng được mà không rung động? Adam, có thể lúc nào anh cũng đủ chín chắn để tạo ra hoàn cảnh hợp lý cho mỗi sự quan tâm đối với Rebecca, nhưng một lúc nào đó, một giây nào đó, khi hình ảnh đôi mắt biết cười ấy chợt hiện ra và choán hết tâm trí anh, liệu anh có còn đủ lý trí như vậy không? Sự thật là không. Khi anh mua chiếc ô hồng sặc sỡ và gửi khẩn cho cô bé của anh mà “chẳng chút mảy may băn khoăn”, anh đã để trái tim mình đánh gục lý trí. (Dĩ nhiên một tiếng sau anh đã vội tỉnh táo lại và mua thêm một chiếc ô xanh tặng cho Emma Jane, người bạn của Rebecca, lý do thì bên trên tôi đã đề cập rồi đấy). Ôi! Yêu chết một Adam dễ thương như vậy. Tôi chẳng biết ý định của tác giả là gì, làm sao lại để nhân vật nam yêu thích của tôi hơn cô gái yêu thích của anh đến 17 tuổi chứ (17 tuổi – đúng gấp đôi số tuổi của Rebecca ở cuối truyện, hic). Nhưng tác giả đã xây dựng nên một Adam 34 tuổi mà không phải 54 tuổi, và tình cảm anh dành cho Rebecca là có thật. Dù rằng Rebecca của chúng ta từ đầu đến cuối vẫn ngây thơ như cô bé bán xà phòng ngày nào, ngưỡng mộ và kính trọng anh, đặt anh ở một vị trí rất quan trọng trong tim, nhưng mà yêu thì… thật lòng tôi cũng chẳng biết cái ngày Rebecca nhìn Adam với một ánh mắt khác có bao giờ đến hay không. Điều này dằn vặt tôi dữ lắm, và hẳn cũng đã và sẽ dằn vặt Adam không ít lần. Nhưng tôi vẫn có quyền hi vọng chứ. Tôi sẽ hi vọng vào tương lai của họ theo cách đẹp đẽ nhất mà tôi có thể thêu dệt nên. Vì tác giả đã cho chúng ta cơ hội cơ mà (nói đơn giản là tác giả chả kết thúc đành đoạn gì cả). Ừm, nói cho xôm nhưng tóm lại – Adam Ladd là nhân vật cực kỳ yêu thích của tôi trong truyện này, còn sự yêu thích của anh với Rebecca, mà có lẽ cũng là mọi người đọc dành cho Rebecca, thì hẳn là: “Tôi mừng là đã được gặp cô bé; tự hào vì quen biết cô thiếu nữ, và mong chờ được gặp người phụ nữ tương lai!” *** hiếc xe ngựa chở khách cũ kỹ lóc xóc chạy trên con đường bụi mù từ Maplewood đi Riverboro. Mới giữa tháng Năm mà trời oi nóng như đang giữa mùa hè. Bác Jeremiah Cobb chiếu cố cho lũ ngựa hết mức có thể, song vẫn không quên mình đang đi đưa thư. Đồi còn nhiều. Bác thả lỏng đôi dây cương trong tay, uể oải ngả lưng trên ghế và duỗi một chân gác lên miếng chắn bùn xe cho thoải mái. Chiếc mũ vành đã sờn kéo sụp hẳn xuống che mắt, bác bỏm bẻm nhai một miếng thuốc lá bên má trái. Trên xe có một hành khách - một người nhỏ bé tóc đen mặc váy trúc bâu bóng màu vàng nhạt. Cô bé người mảnh mai quá và ngồi thẳng đừ đến nỗi liên tục bị trượt từ chỗ này sang chỗ khác trên chiếc ghế nệm da, mặc dù cô đã gắng hết sức lấy chân tì sao cho mình ngồi đúng giữa ghế và hai tay mang găng vải bám chặt hai bên để giữ thăng bằng. Cứ lúc nào bánh xe thụt xuống rãnh sâu hơn bình thường, hay bất thình lình nảy xóc lên vì vấp phải hòn đá, là cô bé dù chẳng muốn vẫn cứ bị nảy lên một cái, rồi rơi xuống, thế là lại phải chỉnh lại chiếc mũ rơm nho nhỏ trông rõ buồn cười, rồi nhặt cái dù bé xinh màu hồng lên hoặc đặt lại cho nó ngay ngắn, một việc dường như là nhiệm vụ chính của cô - trừ phi chúng ta tính cả chiếc ví đính hạt cườm, mà cứ chốc chốc, khi điều kiện đường sá cho phép, cô lại dòm vào, và hài lòng ra mặt khi những thứ quý báu trong ấy không mất hay rơi đi tẹo nào. Bác Cobb chẳng biết tí gì về những phiền hà của việc đi lại ấy, bởi công việc của bác là đưa người ta đến nơi họ cần, chứ không nhất thiết phải làm cho họ đi đường được thoải mái. Thậm chí bác còn quên béng sự tồn tại của vị khách bé nhỏ không có gì đáng chú ý này. Khi bác chuẩn bị rời bưu điện ở Maplewood sớm hôm ấy, một thiếu phụ bước từ xe ngựa chở hàng xuống, tới chỗ bác hỏi có phải đây là xe đi Riverboro, và bác có phải bác Cobb hay không. Khi bác trả lời rằng phải, thiếu phụ liền gật đầu với một cô bé đang háo hức đợi câu trả lời, và cô chạy ngay tới chỗ bà như thể sợ bị muộn mất dù chỉ là một tích tắc. Cô bé áng chừng mười, mười một tuổi, nhưng cho dù đã trải qua bao nhiêu mùa hè thì cô vẫn có vẻ nhỏ hơn so với tuổi của mình. Mẹ cô bé giúp con leo lên xe, đặt bên cạnh con một cái bọc và một bó hoa tử đinh hương, quan sát việc chằng buộc cái rương cũ ở phía sau, và cuối cùng tỉ mẩn đếm từng đồng bạc để trả lộ phí. “Tôi nhờ bác đưa cháu đến chỗ mấy chị tôi ở Riverboro,” thiếu phụ nói. “Bác có biết Mirandy và Jane Sawyer không? Họ sống ở ngôi nhà gạch ấy.” Lạy Chúa phù hộ, bác biết họ rõ như thể bác đã sinh ra họ ấy chứ! “Là thế này, con bé sẽ đến đó, và hai chị ấy đang đợi cháu nó. Xin bác để mắt đến cháu nhé! Cháu nó mà thấy có thể ra ngoài bắt chuyện với người lạ hay rủ người ta đi cùng là nó làm ngay đấy ạ. Tạm biệt con, Rebecca; gắng đừng gây chuyện đấy, và phải ngồi yên, như thế thì khi đến nơi con mới chỉnh tề xinh đẹp được. Mà đừng có làm phiền bác Cobb nhé. Bác thấy đấy, nó đang háo hức lắm. Mẹ con tôi đi tàu từ Temperance đến đây từ hôm qua, nghỉ đêm ở nhà bà chị họ tôi và sáng nay mới đánh xe từ nhà chị ấy đến đây - những tám dặm đấy.” “Tạm biệt mẹ, mẹ đừng lo lắng; mẹ biết mà, có phải con chưa đi xa bao giờ đâu cơ chứ.” Thiếu phụ khẽ cười nhạo một tiếng và nói với bác Cobb giọng thanh minh, “Nó mới đến Wareham ngủ lại một đêm; chẳng đáng để mà tự hào là đi xa được!” “Thế là đi xa chứ còn gì nữa mẹ,” cô bé nói giọng hào hứng và bướng bỉnh. “Rời trang trại này, chuẩn bị bữa trưa cho vào giỏ này, đi xe ngựa một lúc và đi tàu hỏa chạy bằng hơi nước nữa này, mình còn mang cả váy ngủ nữa.” “Có nói thì cũng đừng nói cho cả làng nghe thế chứ,” người mẹ lên tiếng, cắt ngang dòng hồi tưởng của nhà du hành giàu kinh nghiệm. “Mẹ chẳng dặn con rồi,” thiếu phụ thì thầm, với nỗ lực thiết quân luật cuối cùng, “không được nhắc đến váy ngủ và tất dài và… những thứ tương tự, bằng giọng ông ổng lên thế, nhất là khi có đàn ông con trai xung quanh.” “Con biết, mẹ, con biết mà, và con sẽ không như thế nữa đâu. Con chỉ muốn nói là…” - đến đây bác Cobb tặc lưỡi một tiếng, quất cương, và đôi ngựa khoan thai bắt đầu công việc hằng ngày của mình - “Con chỉ muốn nói rằng đi xa là khi…” - lúc này chiếc xe ngựa đã bắt đầu đi rồi nên Rebecca phải thò đầu ra ngoài cửa sổ để nói cho hết câu -“Đi xa là khi mà mình mang theo váy ngủ!” Mời các bạn mượn đọc sách Rebecca Ở Trang Trại Suối Nắng của tác giả Kate Douglas Wiggin & Phạm Minh Điệp (dịch).
Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ
Bộ sách Chicago Stars gồm có: It Had to Be You (Vì đó là em) [Chicago Stars #1] - Susan Elizabeth Phillips Heaven, Texas [Chicago Stars #2] - Susan Elizabeth Phillips Nobody's baby but mine [Chicago Stars #3] - Susan Elizabeth Phillips Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ [Chicago Stars #4] - Susan Elizabeth Phillips This Heart of Mine [Chicago Stars #5] - Susan Elizabeth Phillips Mai mối cho tôi nếu em có thể [Chicago Stars #6] - Susan Elizabeth Phillips *** Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là tác phẩm thứ tư trong serie Chicago Stars/Bonner Brothers của tác giả Susan Elizabeth Phillips với nhân vật nam chính là người em thứ hai trong ba anh em trai nhà Bonner. Đây là tác phẩm duy nhất trong serie không liên quan gì đến bóng bầu dục.   Gabe Bonner là một bác sĩ thú y yêu nghề và tài năng, có một người vợ và một đứa con trai năm tuổi mà anh vô cùng yêu quý. Một tai nạn ô tô đã cướp đi tính mạng của hai người thương yêu nhất trong cuộc đời của anh, đẩy anh xuống tận cùng của sự đau khổ mà dường như chỉ có cái chết mới có thể khoả lấp được.   Rachel Stone là bà vợ goá của nhà truyền giáo qua truyền hình nổi tiếng một thời ở thị trấn Salvation, nhưng thực ra ông ta lại là một kẻ lừa đảo, lợi dụng đức tin của các giáo dân để làm đầy túi tiền của mình. Trong khi trốn chạy pháp luật, ông ta đã chết trong một tai nạn máy bay, để lại người vợ trẻ và đứa con trai hai tuổi không một đồng xu dính túi, bị xã hội khinh bỉ, xa lánh và xua đuổi vì những tội lỗi do ông ta gây nên. Trong ba năm ròng, Rachel đã đưa đứa con trai mà cô yêu hơn cả tính mạng của mình đi khắp nơi để tìm một chỗ dung thân nhưng dường như cô không có đủ lực để xoá bỏ cái quá khứ bẩn thỉu cứ mãi đằng đẵng bám theo mình. Số phận đưa cô quay trở lại thị trấn Salvation, và ở đó cô gặp người đàn ông cục cằn, thô bạo và không còn thiết gì với cuộc sống – Gabe Bonner.   Xuyên suốt truyện là quá trình Rachel Stone vật lộn với những khó khăn để tạo dựng một cuộc sống cho đứa con trai của mình và đồng thời chứng tỏ được bản thân mình là một người phụ nữ mạnh mẽ, cứng cỏi, sẵn sàng đương đầu với cuộc sống với khả năng yêu thương vô hạn. Mối quan hệ của cô và Gabe Bonner từ hai kẻ đồng cảm với tình cảnh khốn khổ của nhau dần đã phát triển thành một tình yêu rất đẹp, tình yêu của hai kẻ sống dưới đáy của sự khốn cùng với âm hưởng chính là sự thấu hiểu, thông cảm và trân trọng nhau trong mọi hoàn cảnh. Cuối truyện, với sự giúp đỡ của Gabe, mẹ con Rachel đã quay trở lại được với xã hội để có một cuộc đời bình thường, còn Gabe đã thoát khỏi được bóng đêm nặng nề của quá khứ để tìm thấy tình yêu và cuộc sống mới.   Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là một câu chuyện rất nhân văn và vô cùng cảm động, rất nhiều đoạn trong truyện có thể lấy được nước mắt của người đọc. Tình yêu giữa hai nhân vật chính khốn cùng không có chỗ cho những hờn ghen, hiểu nhầm hay lòng kiêu hãnh phù phiếm trong bất kỳ hoàn cảnh trái ngang nào, và đó chính là điểm mê hoặc nhất đối với người dịch. Những đoạn đối thoại nhẹ nhàng, thấu hiểu và cũng đầy chất ngọt ngào, lãng mạn. Sự quan tâm, hi sinh dành cho nhau và cuối cùng là tình yêu mãnh liệt. Ngoài ra, truyện càng thêm nhân văn ở mối quan hệ vô cùng phức tạp và tưởng chừng như không có lối thoát giữa ông bố bị ám ảnh bởi cái chết của đứa con trai yêu quý với một thằng bé năm tuổi, mà đỉnh cao của nó chính là cái cách tác giả gỡ nút thắt trong mối quan hệ đó.   Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ là một giai điệu ngọt ngào về tình yêu đôi lứa, tình thương yêu gia đình, tình người trong xã hội và những quan niệm về tôn giáo. Một tác phẩm rất đáng được đưa vào danh sách những Tiểu thuyết lãng mạn hiện đại hay nhất của thế kỷ.   Bản dịch và graphic truyện là sản phẩm của sự hợp tác giữa shiluo và vndaniel.   Ngày 30/10/2009   shiluo   Mời các bạn đón đọc Mơ Một Giấc Mơ Nhỏ - Susan Elizabeth Phillips của tác giả Susan Elizabeth Phillips.
Lam Ngọc
Với gấp đôi rắc rối, gấp ba hành động, và gấp bốn tình yêu, trong Lam ngọc, cô nữ sinh trung học Gwendolyn Shepherd càng lúc càng bị cuốn theo vào một bí mật xoắn vào các chiều thời gian xuyên nhiều thế kỷ. Có thể bất thình lình bị ném về quá khứ, hoặc đơn độc, hoặc vẫn đồng hành cùng Gideon mắt xanh đẹp trai choáng váng, có lúc sẽ sém rơi nước  mắt, có lúc sẽ vui, vì giờ đây bên cạnh Gwen gần như đã kè kè con quỷ đá Xemerius ranh mãnh đáng yêu ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng mọi chuyện không dễ, vì đội cận vệ cùng ông bá tước nguy hiểm và anh chàng Gideon ra sức tìm cách ngăn cản Gwen tiếp cận những bí mật của họ. Thật không dễ khi Gwen con không tài nào hiểu: liệu Gideon coi cô là kẻ phản bội hay thực sự tin tưởng cô? Và, đôi mắt xanh chết người của hắn nhiều lúc đã làm con tim thiếu nữ ngây thơ của Gwen nhưu quên đập...   ...Tất cả các bà mẹ đều say mê Kerstin Gier, giờ thì con gái họ cũng vậy... *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Khúc dạo đầu London, 14 tháng Năm năm 1602 Những con hẻm của Southwark chìm trong bóng đêm, tối tăm và hiu quạnh. Không khí phảng phất mùi rong rêu, cống rãnh và cá chết. Anh bất giác siết chặt tay cô rồi kéo cô đi tiếp. “Lẽ ra chúng ta cứ đi men theo bờ sông. Trong ngõ ngách hỗn độn này người ta không lạc đường mới lạ,” anh thì thào. “Đúng thế, và ở mỗi góc tối đều có bọn trộm cướp và sát nhân rình rập.” Giọng cô vang lên thích thú. “Tuyệt quá phải không? Còn tốt hơn ngàn lần so với việc ngồi làm bài tập về nhà trong bốn bức tường ngột ngạt!” Cô vén chiếc váy nặng và vội vã đi tiếp. Anh bất giác nhếch miệng cười. Lucy quả là có năng khiếu độc nhất vô nhị, lúc nào cũng tìm ra được mặt tích cực của hoàn cảnh. Ngay cả cái gọi là thời hoàng kim của nước Anh đang bị thực tại tăm tối bóc trần vẻ dối trá cũng không khiến cô kinh sợ, ngược lại là đằng khác. “Tiếc thật, chẳng bao giờ mình có hơn ba tiếng đồng hồ,” cô nói khi anh bắt kịp. “Hamlet chắc sẽ hay hơn nếu không phải xem vào nhiều kỳ.” Cô khéo léo né một vũng bùn kinh tởm, ít nhất thì anh cũng mong đó chỉ là bùn. Rồi cô tung tẩy nhảy vài bước và xoay tròn một vòng. “Lý trí đã biến tất cả chúng ta thành những kẻ nhát gan… tài thật, nhỉ?” Anh gật đầu, cố kiềm chế để không nhếch mép cười lần nữa. Anh luôn như thế bên Lucy. Nếu không cẩn thận thì trông anh sẽ như một thằng ngớ ngẩn! Họ đang trên đường tới cầu London. Lẽ ra đi qua cầu Southwark thì tiện hơn, nhưng rủi thay ở thời này nó còn chưa được xây. Nhưng họ phải nhanh chân lên, nếu không muốn cuộc ngang tắt về thế kỷ 17 của mình bại lộ. Trời ạ, nếu có thể lột phăng cái cổ áo trắng cứng đơ này ra thì giá nào anh cũng trả! Nó đâu khác gì cái vòng nhựa đeo quanh cổ lũ chó sau khi phẫu thuật. Lucy rẽ sang con phố đâm ra bờ sông. Có vẻ như đầu óc cô vẫn vấn vương với Shakespeare. “Anh phải cho ông ta bao nhiêu để được phép vào Globe Theatre thế, Paul?” “Bốn đồng xu to, nhưng anh cũng không biết thế là bao nhiêu.” Anh cười. “Có lẽ bằng cả năm tiền lương của hắn.” “Dù sao cũng đạt mục đích. Chỗ ngồi lý tưởng.” Họ đi như chạy đến cầu London. Cũng như lúc đến đây, Lucy dừng lại, ngắm nghía những ngôi nhà xây trên cầu, nhưng anh kéo cô đi tiếp. “Em có nhớ lời ông George dặn không: Hễ dừng chân quá lâu dưới cửa sổ thì sẽ bị giội bô lên đầu đấy,” anh nhắc. “Hơn nữa em còn đánh động làm người ta để ý!” “Không giống như mình đang đứng trên cầu nhỉ, trông chẳng khác gì một con phố bình thường. Ô, anh nhìn kìa, tắc đường! Đã đến lúc họ phải xây thêm vài cây cầu nữa rồi.” Khác với những ngõ hẻm, trên cầu đông nghịt, song đám xe kéo, võng lọng và xe ngựa đi về phía bờ kia sông Thames không nhích lên được phân nào. Xa xa đằng trước vẳng lại tiếng cười nói, tiếng chửi bới, tiếng ngựa hí, nhưng không ai rõ tại sao lại tắc ứ như vậy. Sát bên họ, một người đội mũ đen ngồi trong xe ngựa thò đầu ra. Cổ áo đăng ten trắng hồ cứng của ông ta uốn cong lên tới tận tai. “Không có đường nào khác đi qua con sông hôi thối này sao?” Ông ta gọi vống lên với người đánh xe bằng tiếng Pháp. Gã xà ích lắc đầu. “Kể cả nếu có thì cũng không quay đầu được nữa, ta đang mắc kẹt ở đây! Tôi sẽ chạy lên phía trước xem có chuyện gì. Chắc là sẽ sớm đi tiếp được thôi, thưa ngài.” Người đàn ông gầm gừ bức bối rồi rụt cái đầu đội mũ cùng chiếc cổ áo vào xe, trong khi xà ích đã trèo xuống, cố len qua đám đông nhốn nháo. “Anh nghe chưa, Paul? Người Pháp,” Lucy thì thào háo hức. “Khách du lịch đấy!” “Ừ. Hay thật. Nhưng mình phải đi tiếp, không còn nhiều thì giờ nữa.” Anh nhớ mang máng đã từng đọc ở đâu đó rằng sẽ có lúc người ta phá cây cầu này và xây lại nó ở cách vị trí cũ mười lăm mét. Đây thật không phải một chỗ tốt để vượt thời gian. Họ bám theo gã đánh xe người Pháp. Nhưng đi được mấy bước thì người và xe chen chúc không làm sao chen qua nổi. “Nghe đâu có một xe chở dầu bị bắt lửa,” người đàn bà phía trước họ nói bâng quơ. “Không cẩn thận khéo lại thiêu rụi cả cây cầu mất.” “Theo như tôi biết thì không phải là hôm nay,” Paul lẩm bẩm và tóm tay Lucy. “Đi nào, chúng ta sẽ trở ngược lại và đợi vượt thời gian ở bờ bên kia.” “Anh còn nhớ mật khẩu chứ? Phòng trường hợp chúng ta không tới kịp.” “Hình như cút đi là vừa thì phải.” “Gutta cavat lapidem[1], ngốc ạ.” Cô khúc khích cười ngẩng lên nhìn anh. Đôi mắt xanh của cô lấp lánh phấn khích. Anh sực nhớ Falk đã nói gì khi anh hỏi về thời điểm hoàn hảo. “Anh sẽ chẳng phí sức lảm nhảm. Anh cứ hành động thôi. Sau đó có thể cô ấy sẽ cho chú một cái tát và thế là chú hiểu ngay.” Đương nhiên Falk muốn biết anh ám chỉ ai. Nhưng Paul không mấy hứng thú với những cuộc tranh luận mở đầu bằng “Chú thừa biết những mối quan hệ giữa dòng họ de Villiers và Montrose chỉ nên mang tính công việc!” và kết thúc, “Hơn nữa đám con gái nhà Montrose đều đanh đá, sau này họ đều thành tinh như quý bà Arista cả.” Đanh đá gì chứ! Các cô Montrose khác thì rất có thể, nhưng Lucy thì chắc chắn không. Lucy, người mỗi ngày đều khiến anh càng thêm yêu thương, người được anh tin cậy gửi gắm những điều anh chưa từng nói với bất cứ ai. Lucy, người mà… Anh hít một hơi sâu. “Sao anh đứng lại?” Lucy hỏi, nhưng anh đã cúi xuống áp môi mình lên môi cô. Suốt ba giây, anh lo sợ sẽ bị cô đẩy ra, nhưng dường như cô đã vượt qua được sự bất ngờ và đáp lại nụ hôn của anh, ban đầu dè dặt, rồi mỗi lúc một nồng nàn hơn. Thực ra đây không hề là thời điểm hoàn hảo và thực ra họ đang quá vội, vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể vượt thời gian, và thực ra thì… Điều thứ ba thực ra là gì thì Paul quên khuấy. Giờ chỉ có Lucy là tất cả. Nhưng rồi khi ánh mắt lướt qua một bóng người đội mũ tối màu sùm sụp, anh kinh hoàng nhảy lùi lại. Lucy ngơ ngác nhìn anh một thoáng, rồi cô đỏ mặt cúi gằm xuống chân. “Em xin lỗi,” cô ngượng ngùng lẩm bẩm. “Larry Coleman cũng bảo em hôn giống như xát cả vốc phúc bồn tử gai xanh vào mặt người ta.” “Phúc bồn tử gai?” Anh lắc đầu. “Mà Larry Coleman là thằng quỷ tha ma bắt nào?” Giờ thì cô ngơ ngác thực sự và anh cũng chẳng ngạc nhiên. Bằng cách nào đó anh phải cố trấn áp cơn rối loạn đang hoành hành trong đầu. Anh kéo Lucy ra khỏi vầng sáng của những ngọn đuốc, giữ vai và nhìn sâu vào mắt cô. “Nghe này, Lucy. Thứ nhất: Hôn em giống như là… như là… ăn dâu tây. Thứ hai: Anh mà tóm được thằng Larry Coleman đó, anh sẽ đấm dập mũi hắn. Thứ ba: Em hãy nhớ thật kỹ lúc chúng mình dừng lại. Nhưng bây giờ mình đang có một vấn đề nho nhỏ.” Anh lặng im hất hàm về người đàn ông cao lớn đang ưng dung bước ra từ dưới bóng chiếc xe thồ và cúi xuống bên cửa sổ cỗ xe ngựa của người Pháp nọ. Lucy tròn mắt khiếp đảm. “Xin chào, nam tước,” hắn nói bằng tiếng Pháp. Nghe giọng hắn, Lucy bấu chặt tay Paul. “Rất vui được gặp được ngài. Đường từ Flanders tới đây xa thật.” Hắn gạt chiếc mũ trùm đầu xuống. Trong xe vang lên một tiếng kêu thảng thốt. “Tên bá tước mạo danh! Ngươi làm gì ở đây? Sao lại thế này?” “Em cũng rất muốn biết,” Lucy thì thầm. “Ngài chào hỏi hậu duệ của mình như vậy sao?” Người kia vui vẻ đáp. “Dù sao thì ta cũng là cháu nội của cháu nội cháu nội ngài. Và mặc dù ta vẫn thường bị gọi là kẻ vô danh, ta đảm bảo với ngài là ta có tên đàng hoàng. Thậm chí còn nhiều tên là đằng khác. Ngài cho phép ta lên xe hàn huyên chứ? Đứng đây không được thoải mái cho lắm, và cầu còn tắc lâu.” Không cần đợi câu trả lời hoặc ngoái nhìn xung quanh lấy một lần, hắn mở cửa trèo vào xe. Lucy kéo Paul né sang bên, cách xa ánh đuốc thêm hai bước nữa. “Đúng ông ta đấy! Nhưng trẻ hơn nhiều. Chúng ta nên làm gì bây giờ?” “Không làm gì cả,” Paul thì thầm. “Chúng ta đâu thể tới đó chào hỏi! Đúng ra chúng ta không được phép có mặt ở đây.” “Nhưng sao ông ấy lại ở đây?” “Một sự tình cờ ngu xuẩn. Dù thế nào cũng không được để ông ấy nhìn thấy mình. Đi thôi, chúng ta phải tới bờ sông.” Nhưng không ai nhúc nhích. Cả hai cùng nhìn như bị thôi miên vào ô cửa sổ xe ngựa tối mò, cảm thấy còn hiếu kỳ hơn cả khi nhìn lên sân khấu Globe Theatre ban nãy. “Trong lần gặp trước, ta đã nói rõ cho ngươi biết ta nghĩ gì về ngươi,” giọng nam tước người Pháp vọng ra từ trong xe. “Ồ, đúng là ngài đã làm thế thật!” Tiếng cười khẽ của vị khách khiến Paul nổi da gà, dù anh không nói được vì sao. “Quyết định bất di bất dịch!” Nam tước hơi lạc giọng. “Ta sẽ giao cỗ máy ma quái đó cho bên liên minh, bất kể các ngươi có dùng mưu ma chước quỷ nào để ngăn cản ta. Ta biết ngươi cùng hội cùng thuyền với quỷ dữ.” “Ông ta nói thế nghĩa là sao?” Lucy thì thầm. Paul chỉ lắc đầu. Lại một tiếng cười khẽ vang lên. “Cụ tổ cạn nghĩ và mù quáng của ta ơi! Cuộc đời của ngài - và cả của ta - sẽ thảnh thơi biết bao nếu ngài chịu nghe ta thay vì nghe lão giáo chủ hay những kẻ cuồng tín đáng thương bên liên minh. Giá mà ngài biết dùng trí tuệ thay vì chuỗi tràng hạt, giá mà ngài nhận thức được rằng vai trò của mình còn lớn hơn những gì cha cố của ngài giảng giải.” Có vẻ như nam tước kia đọc “Kinh Lạy Cha” thay cho câu trả lời. Lucy và Paul chỉ nghe thấy ông ta khẽ lẩm bẩm. “Amen!” Người khách thở dài. “Vậy đây là lời cuối của ngài về chuyện này?” “Ngươi là quỷ dữ hiện hình!” Nam tước thốt lên. “Ra khỏi xe ngay và đừng bao giờ xuất hiện trước mắt ta.” “Tùy ngài thôi. Vậy chỉ còn một việc nhỏ. Lâu nay ta chưa nói ra vì không muốn khiến ngài lo lắng không cần thiết. Nhưng chính mắt ta trông thấy trên mộ ngài ghi ngày mất là 14 tháng Năm năm 1602.” “Nhưng đó là…” Nam tước nói. “… hôm nay, chính xác. Từ giờ tới nửa đêm cũng không còn dài.” Một tiếng khò khè vang lên từ phía nam tước. “Ông ấy đang làm gì thế?” Lucy thì thào. “Ông ấy đang phá vỡ luật lệ của chính mình.” Paul nổi da gà tới tận gáy. “Ông ấy nói về…” Anh ngừng bặt vì cảm giác nôn nao quen thuộc lan truyền trong lòng dạ. “Xà ích của ta sẽ quay lại ngay,” nam tước nói, giọng lúc này đã lo sợ thực sự. “Ừ, ta cũng biết thế,” Vị khách đáp khá thờ ơ. “Thế nên ta cũng đang vội đây.” Lucy áp tay lên bụng. “Paul!” “Anh biết, anh cũng cảm thấy rồi. Chết tiệt… Phải chạy thôi, nếu không chúng ta sẽ rơi xuống sông mất.” Anh tóm lấy tay cô kéo đi, thận trọng không để lộ mặt về phía cửa sổ xe ngựa. “Lẽ ra ngài mất tại quê nhà, do một trận cúm đáng ghét biến chứng,” Họ nghe thấy tiếng người khách trong lúc len lén đi qua. “Nhưng hiện giờ ngài lại đang có mặt ở London với sức khỏe dồi dào - nói cho cùng là nhờ những lần thăm hỏi của ta - nên đã có gì đó bị lệch lạc nghiêm trọng. Là con người chu đáo, ta thấy phải có trách nhiệm giúp Thần Chết một tay.” Paul đang mải quan tâm đến cảm giác nôn nao trong dạ và nhẩm tính xem còn bao nhiêu mét nữa là tới bờ, thế nhưng ý nghĩa của những lời nói kia len lỏi vào tâm thức khiến anh khựng lại. Lucy khẽ huých vào sườn anh. “Chạy đi!” cô kêu lên rồi vùng chạy. “Chỉ còn vài giây nữa thôi!” Anh cố nhấc đầu gối bải hoải, và trong lúc chạy, khi bờ sông gần kề bắt đầu nhòe đi trước mắt, anh nghe thấy từ trong xe vọng ra một tiếng thét rùng rợn cố nén, tiếp theo là tiếng khò khè: “Quỷ dữ!” - rồi chỉ còn sự im lặng chết chóc. Mời các bạn mượn đọc sách Lam Ngọc của tác giả Kerstin Gier & Đỗ Phương Thùy (dịch).
Hạnh Nhân
Một cái hạch hạnh nhân nhỏ bất thường khiến Yoon Jae phải sống một cuộc đời khác biệt: không cảm nhận và cũng không biết cách bộc lộ những cảm xúc cơ bản nhất của con người.Mỗi ngày đến trường với cậu là những bước đi cẩn trọng nép trong vô vàn “giáo án” đã chuẩn bị sẵn để sống sót được với xung quanh. Nhưng rồi một ngày, số phận gửi Gon tới như một sứ giả. Gon, hoàn toàn trái ngược với cậu, có thể cảm nhận và bộc phát mãnh liệt mọi cung bậc cảm xúc bằng từng tế bào cơ thể…   Hai thế giới sở hữu hai hạch hạnh nhân kích cỡ quá chênh lệch khi va chạm thì sẽ thế nào? Tương tàn, hủy diệt hay hàn gắn, kết nối? Câu trả lời trực diện, thẳng thắn mà vẫn bất ngờ và cực kỳ khó quên nằm ngay trong gói Hạnh nhân đang chỉ chờ bạn bóc ra và thưởng thức này đấy!   “Một cuốn sách có khả năng lay động mạnh mẽ, sẽ đánh thức cả những nỗi đau và lòng đồng cảm tiềm ẩn trong mỗi độc giả.” - Han Ki Ho, nhà phê bình văn học *** [Review] Hạnh Nhân – Bi Kịch Hay Hài Kịch? Sách X26/06/2020 [Review] Hạnh nhân – Bi kịch hay hài kịch? “…trên thực tế cả tôi, cả bạn hay bất kỳ ai cũng mãi mãi không thể biết được một câu chuyện nào đó rốt cuộc là bi kịch hay hài kịch.” Chỉ có bản thân bạn khi đọc xong câu chuyện này mới có thể trả lời thiên hướng xuôi về là bi hay hài, nhưng mình muốn nói rằng, dù là gì đi nữa, đây là một câu chuyện hay, đẹp và đầy tính nhân văn. Tác giả: Sohn Won-Pyung  Quốc gia, ngôn ngữ gốc: Hàn Quốc NXB: Nhã Nam Thể loại: Tâm lý  Tóm tắt: Câu chuyện kể về cuộc đời của Yoon Jae, cậu bé bẩm sinh đã có chứng mất khả năng diễn đạt cảm xúc do kích thước hạch hạnh nhân nhỏ. Nhờ sự giúp đỡ của mẹ và bà ngoại, cậu học cách thích nghi và ẩn mình. Sau một biến cố, Yoon Jae chỉ còn một mình, chống chọi lại với thế giới. Sự xuất hiện của Gon và Dora tạo ra nhiều biến đổi trong sự trưởng thành và cả trong cảm xúc của cậu.  Dòng cảm xúc điềm nhiên  Cả cuốn sách được thuật lại theo dòng thời gian dưới lời kể của nhân vật chính. Mọi sự việc, cảm xúc cũng được miêu tả một cách điềm nhiên như cách cậu cảm nhận. Dù không có khả năng cảm nhận nhưng cậu rất tự ý thức học hỏi và thích ứng. Yoon Jae thường nghĩ đến việc mẹ đã dạy thế này, mẹ sẽ trả lời thế kia… để tìm những hình thái phù hợp trước một sự kiện. Bởi sự ngây thơ và cố gắng ấy mà đưa lại rất nhiều xúc động cho người đọc.  Những sự kiện cao trào như ngày mà bà bị giết, mẹ bị đâm hay khi Gon và Yoon Jae bị đánh nhừ tử cũng được tái hiện một cách nhẹ nhàng đến mức có lúc…dửng dưng. Khiến câu chuyện không bị phá sóng khỏi một nhịp chung. Thay vì giận Yoon Jae, chúng ta sẽ thấy thương cậu nhiều hơn. Vì suy cho cùng, những cảm xúc là điều then chốt tâm hồn chúng ta cần trong quá trình trưởng thành. Cách cảm nhận mọi thứ của Yoon Jae cũng rất khác, không chứa cảm xúc, mà chỉ là bình dị và đơn giản. “Thế giới trong phim điện ảnh, truyền hình hay truyện tranh đều quá cụ thể, vì thế chẳng còn kẽ hở nào cho tôi chen vào…Sách thì khác. Vì trong sách có rất nhiều khoảng trống. Giữa các từ cũng có khoảng cách và giữa các dòng cũng vậy. Tôi có thể bước vào trong đó để ngồi hay đi bộ, hay thậm chí viết ra cả những suy nghĩ của mình. Dù tôi không hiểu hết ý nghĩa của những câu chữ trong sách cũng chẳng sao.” Trái ngược với Yoon Jea, Gon, bạn của cậu, như một người có “kích thước hạnh nhân to” khi cậu luôn phóng đại cảm xúc mình và thể hiện ầm ĩ bên ngoài.  Điều tuyệt vời là cuốn sách làm được là kể bằng lời một người không biểu lộ cảm xúc, nhưng lại đưa đến cho người đọc nhiều cảm giác chứ không hề trống rỗng và vô vị. Bài học về tình yêu thương  Mặc dù là một chủ đề đã cũ nhưng tình mẫu tử được khắc hoạ một cách rất đặc biệt. Mẹ YJ luôn cố gắng hết sức để cậu có một cuộc sống “bình yên”, không bị chú ý. Cô dạy YJ tất cả mọi tình huống có thể gặp, luôn nắm chặt tay cậu khi ra ngoài, tính đến những trường hợp xấu nhất. Cô chưa bao giờ bỏ cuộc hay nản chí. “Cảm ơn con vì đã sinh ra đời”– cô nói vào đêm giáng sinh định mệnh như vậy. Bà ngoại YJ cũng vậy, dù đã từ mặt con gái vì chuyện quá khứ, và vẫn chuyển về giúp hai mẹ con khi cô cần. Bà ngoại được khắc hoạ như một người khá khô khan, nhưng luôn âm thầm giúp đỡ mẹ YJ và cậu trên mọi hành trình của YJ. Vào đêm gia đình cậu bị tấn công. YJ vẫn không hề có cảm xúc đau buồn hay bi luỵ, cậu chỉ nghĩ là: “Giờ đây ngoài tôi ra, sẽ chẳng một ai nhớ đến cuộc đời hai người nữa. Chính vì thế mà tôi phải sống.” YJ chưa bao giờ có bạn. Cậu chỉ có thể là đối tượng bị trêu chọc hoặc ẩn mình giữa đám đông. Nhưng cho đến khi Gon xuất hiện và xáo trộn cuộc sống YJ lên. Dù không hiểu được điều Gon muốn bày tỏ, nhưng YJ đã có thể khẳng định Gon là bạn và đi tìm cậu. Đây là đoạn mà mình thích nhất cuốn sách. Khi một cậu bé không nhận thức được mình đang cảm thấy như thế nào nhưng lại quyết định được mình cần phải làm gì. Những chuyển biến nhất định trong tâm trí cậu đã bắt đầu xuất hiện.  Và rồi đến Dora, một cô gái cá tính và khác biệt. Cô đã làm cho YJ cảm thấy “người tôi nóng rực. Mạch dưới tai đập dữ dội. Cả các đầu ngón tay và ngón chân cũng vậy…trái tim tôi nhức nhối như bị gai đâm.”Nếu Gon dạy cho YJ về tội lỗi và đau thương thì Dora dạy cậu về vẻ đẹp, về gió và mơ ước.” Những điều kỳ diệu  Cuối cùng thì YJ lại có những thay đổi đáng kể sau lần bị đánh bất tỉnh khi cứu Gon, và mẹ cậu cũng được phù hộ một điều kỳ diệu để chiến đấu với cuộc sống thực vật. Và đến cuối cùng, theo mình thì, câu chuyện này không phải bi kịch, cũng không phải hài kịch. Mà là một bài ca về tình yêu thương của cuộc sống này. YJ nhờ có mẹ, Gon, Dora và những người khác mà cuối cùng cũng có thể cảm nhận được những cảm xúc bình thường và thiêng liêng đến vậy.  Câu chuyện như một cách gợi mở chúng ta biết ơn hơn về những điều mà mình đã và đang được trải qua. Dù cho đó là hạnh phúc hay buồn bã, tủi hờn thì cũng là một điều may mắn vì ta đang được cảm nhận. Và trong quá trình chia sẻ ấy, biết đâu chúng ta có thể ảnh hưởng tới những người có hạch hạnh nhân nhỏ, đưa họ đến những con đường trải nghiệm tất cả cảm xúc bình dị của đời người? Cuối cuốn sách là trải lòng của tác giả về quá trình viết, khi cô trải qua thời kỳ khủng hoảng sau sinh. Điều này làm mình muốn cất và đọc lại Hạnh nhân khi mình đã có con. Để có thể hiểu và cảm nhận sâu hơn dưới những chiều ý nghĩa khác.  Cuốn sách nhẹ nhàng, lời văn đẹp và ý nghĩa nhân văn sâu. Nhiều chi tiết được nhìn nhận rất đặc biệt. Mình không thường đọc văn học Hàn Quốc, nhưng tác giả Sohn Won-Pyung đã giúp mình cảm thấy khá nhẹ nhõm trong giai đoạn căng thẳng. Câu chuyện tưởng chừng như của trẻ con nhưng để lại nhiều suy nghĩ đến như vậy. Lê Na *** LỜI TỰA   • Alexithymia, hay Chứng mất khả năng diễn đạt cảm xúc là một dạng khuyết tật về cảm xúc, được báo cáo lần đầu vào năm 1970. Theo đó, chứng bệnh này thường xảy ra ở người gặp khó khăn trong giai đoạn phát triển cảm xúc hay gặp phải sang chấn về tâm lý thời nhỏ, hoặc có kích thước hạch hạnh nhân nhỏ bẩm sinh. Trường hợp kích thước hạch hạnh nhân nhỏ, trong số các cảm xúc, người bệnh đặc biệt không cảm nhận được nỗi sợ hãi. Tuy nhiên, cũng có báo cáo chỉ ra rằng một phần của hạch hạnh nhân liên quan đến nỗi sợ hãi hay sự bất an có thể phát triển nhờ vào luyện tập thường xuyên. Trong tiểu thuyết này, tôi miêu tả bệnh Alexithymia dựa trên căn cứ thực tế có pha thêm một chút tưởng tượng của riêng mình. • P. J. Nolan là nhân vật giả tưởng. • Cuốn truyện cổ tích được nhắc đến ở chương 57 là cuốn The Littlest Dinosaurs của tác giả Bernard Most. Tôi miêu tả khủng long dựa theo nội dung cuốn truyện này, ngoại trừ kích thước thực tế của chúng là được miêu tả theo kết quả tôi nghiên cứu. Mời các bạn mượn đọc sách Hạnh Nhân của tác giả Sohn Won-Pyung & Bích Ngọc (dịch).