Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Mưa - Nevil Shute

Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Đứa Trẻ Chết Già
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương. Tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương khắc họa cuộc đời của những con người có cảnh sống éo le, đồng thời đặt ra câu hỏi dường như không bao giờ cũ về sự tồn tại, cái hữu hạn của đời người trong thời gian vô hạn. Văn phong đậm chất Việt, nhưng không thiếu những phẩm chất chung của các tác phẩm văn chương thế giới, kết hợp tài tình giữa cái huyền ảo hoang đường và hiện thực trần trụi, Những đứa trẻ chết già thực sự là một tác phẩm xuất sắc trong dòng tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nếu bạn từng thích Garcia Marquez hay thấy gần gũi với những nhân vật của Nam Cao, hẳn là bạn sẽ thích Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương. *** Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.  Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.  Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.  Mời các bạn mượn đọc sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Em Luôn Đúng, Em Yêu
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Em Luôn Đúng, Em Yêu của tác giả Dung Quang & Tuyết Mai (dịch). “Em luôn đúng, em yêu !” xoay quay tình yêu của hai nhân vật là Trần Thước và Dư Điền Điền. Trần Thước là bác sĩ khoa Ngoại, đẹp trai, giỏi giang nhưng độc mồm độc miệng. Anh mạnh mẽ gai góc bên ngoài nhưng thực sự lại cô đơn và tổn thương bên trong. Dư Điền Điền là y tá khoa Nhi, một cô gái tự lập, miệng lưỡi sắc bén và vô cùng lương thiện. Hai con người cứ hễ gặp nhau là đấu khẩu, nhưng cũng chính từ những lần đấu khẩu ấy, họ phát hiện và hiểu ra con người thật của đối phương, cứ thế tình cảm của họ chuyển từ ghét, hận sang thương, yêu. *** Review: Trần Thước là bác sĩ khoa Ngoại, đẹp trai, giỏi giang nhưng độc mồm độc miệng. Anh mạnh mẽ gai góc bên ngoài nhưng thực sự lại cô đơn và tổn thương bên trong. Dư Điền Điền là y tá khoa Nhi, một cô gái tự lập, miệng lưỡi sắc bén và vô cùng lương thiện.​ Hai con người cứ hễ gặp nhau là đấu khẩu, nhưng cũng chính từ những lần đấu khẩu ấy, họ phát hiện và hiểu ra con người thật của đối phương, cứ thế tình cảm của họ chuyển từ ghét, hận sang thương yêu… Một câu chuyện ngôn tình trong bối cảnh hiện đại, khá hấp dẫn với giọng văn trẻ trung và nhiều tình tiết thú vị, đáng để đọc. Hoàng Triệu *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Em Luôn Đúng, Em Yêu của tác giả Dung Quang kể về câu chuyện tình yêu của hai nhân vật là Trần Thước và Dư Điền Điền. Trần Thước là một bác sĩ khoa Ngoại, đẹp trai, giỏi giang nhưng độc mồm độc miệng. Anh mạnh mẽ gai góc bên ngoài nhưng thực sự lại cô đơn và tổn thương bên trong. Dư Điền Điền là một y tá khoa Nhi, một cô gái tự lập, miệng lưỡi sắc bén và vô cùng lương thiện. Hai người gặp nhau lần đầu tiên trong một ca phẫu thuật. Trần Thước là bác sĩ chính, còn Dư Điền Điền là y tá phụ tá. Ngay từ lần đầu gặp mặt, họ đã không ưa nhau và liên tục đấu khẩu với nhau. Tuy nhiên, càng ngày họ càng hiểu nhau hơn và dần dần nảy sinh tình cảm. Trần Thước bắt đầu nhận ra rằng Dư Điền Điền không hề giống như những gì anh nghĩ về cô. Cô ấy không chỉ xinh đẹp, thông minh mà còn vô cùng tốt bụng và đáng yêu. Dư Điền Điền cũng bắt đầu nhận ra rằng Trần Thước không phải là một người xấu xa như cô nghĩ. Anh ấy là một người đàn ông ấm áp, yêu thương và luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Cuối cùng, họ đã vượt qua những hiểu lầm và trở thành một đôi. Tình yêu của họ đã giúp họ chữa lành những tổn thương trong quá khứ và trở thành những người tốt hơn. Đánh giá Em Luôn Đúng, Em Yêu là một cuốn tiểu thuyết ngôn tình hiện đại, khá hấp dẫn với giọng văn trẻ trung và nhiều tình tiết thú vị. Cuốn sách kể về một câu chuyện tình yêu khá quen thuộc, nhưng được tác giả kể lại một cách mới mẻ và hấp dẫn. Hai nhân vật chính Trần Thước và Dư Điền Điền đều là những nhân vật có tính cách đặc biệt, khiến người đọc không thể rời mắt. Trần Thước là một bác sĩ tài giỏi nhưng lại có tính cách độc mồm độc miệng. Anh ấy luôn tỏ ra lạnh lùng và xa cách với mọi người, nhưng thực sự bên trong anh ấy là một người ấm áp và yêu thương. Dư Điền Điền là một y tá xinh đẹp và tài năng. Cô ấy luôn mạnh mẽ và độc lập, nhưng bên trong cô ấy lại là một người vô cùng yếu đuối và dễ bị tổn thương. Hai người gặp nhau và dần dần yêu nhau. Tình yêu của họ đã giúp họ chữa lành những tổn thương trong quá khứ và trở thành những người tốt hơn. Một số ý kiến bổ sung Cuốn sách có giọng văn trẻ trung và hóm hỉnh, khiến người đọc cảm thấy dễ chịu và thoải mái. Các tình tiết trong truyện khá hấp dẫn và lôi cuốn, khiến người đọc không thể rời mắt. Truyện có kết thúc có hậu, khiến người đọc cảm thấy hài lòng. Kết luận Em Luôn Đúng, Em Yêu là một cuốn tiểu thuyết ngôn tình đáng đọc. Cuốn sách có thể mang lại cho bạn những giây phút thư giãn và vui vẻ. Mời các bạn mượn đọc sách Em Luôn Đúng, Em Yêu của tác giả Dung Quang & Tuyết Mai (dịch).
Bảy Ngày Phiêu Lãng
Minerva Highwood, một cô nàng không màng đến yêu đương của Vịnh Spindle, cần đến Scotland. Colin Sandhurt – Huân tước Payne, một kẻ phóng đãng bậc nhất, đếm từng ngày để rời khỏi Vịnh Spindle. Họ trở thành đối tác một cách thần kì và bất đắc dĩ. Trong vòng một tuần, họ giả vờ bỏ trốn cùng nhau để thuyết phục họ gia đình và bạn bè tin rằng họ đang ‘’yêu’’. Họ thoát khỏi những hiểm nguy vào ban ngày và vượt qua cơn ác mộng vào ban đêm, cứ thế du hành bốn trăm dặm mà không giết chết nhau. Họ không có thời gian để ý rằng sự thu hút lẫn nhau đang ngày càng lớn dần, từ lúc nào đã trở thành đam mê. Bất ngờ, một tuần dường như vừa đủ cho cuộc phiêu lưu đầy phiền phức và đủ cho tình yêu của chính họ. Một tác phẩm đầy kịch tính nhưng không kém phần ngọt ngào, sâu lắng của nhà văn Tessa Dare dành tặng các cô gái vừa tản bộ vừa đọc sách. *** A WEEK TO BE WICKED   Khi một quý ngài ranh mãnh và một nữ học giả bắt đầu lên đường đến chỗ hủy hoại… Thời gian không đứng về phía họ. Minerva Highwood, một trong những cô gái ế chồng thâm căn cố đế của Vịnh Spindle, cần đến Scotland. Colin Sandhurst, Huân tước Payne, một kẻ phóng đãng bậc nhất, cần ở… bất cứ nơi đâu ngoài Vịnh Spindle. Hai đối tác kì lạ này có một tuần để giả vờ bỏ trốn cùng nhau để thuyết phục gia đình và bạn bè tin rằng họ đang “yêu” để qua mặt những tên cướp có vũ trang để sống sót qua những cơn ác mộng tồi tệ nhất để du hành suốt bốn trăm dặm mà không giết chết nhau Họ làm tất cả những việc đó trong lúc đi chung một xe ngựa rất nhỏ vào ban ngày và ngủ chung một giường còn nhỏ hơn nữa vào ban đêm. Họ không có thời gian dành cho sự thu hút lẫn nhau đang ngày càng lớn dần. Huống chi là niềm đam mê mãnh liệt. Và hy vọng là họ không có khoảng thời gian quý báu nào để thổ lộ tâm tư và tình cảm. Bất ngờ, một tuần dường như là vừa đủ để tìm thấy nhiều điều phiền phức. Và có lẽ… chỉ có lẽ thôi… tình yêu nữa. Lời đề tặng Dành tặng các cô gái vừa tản bộ vừa đọc sách. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Bảy Ngày Phiêu Lãng của tác giả Tessa Dare kể về câu chuyện tình yêu giữa Minerva Highwood, một cô nàng không màng đến yêu đương của Vịnh Spindle, và Colin Sandhurst – Huân tước Payne, một kẻ phóng đãng bậc nhất. Minerva cần đến Scotland để gặp gỡ một người bạn, nhưng cô không thể đi một mình vì sẽ bị gia đình và bạn bè ngăn cản. Colin cũng cần rời khỏi Vịnh Spindle để thoát khỏi những rắc rối do quá khứ của mình gây ra. Họ trở thành đối tác bất đắc dĩ và cùng nhau thực hiện một chuyến đi giả vờ bỏ trốn trong vòng một tuần. Trên đường đi, họ gặp phải nhiều khó khăn và nguy hiểm, nhưng cũng dần dần bị thu hút bởi nhau. Bất chấp những khác biệt về tính cách và hoàn cảnh, họ đã tìm thấy tình yêu đích thực. Đánh giá Bảy Ngày Phiêu Lãng là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn hài hước, với những tình tiết hấp dẫn và nhân vật thú vị. Câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính với tính cách trái ngược nhau, nhưng cuối cùng lại tìm thấy tình yêu đích thực. Tessa Dare đã xây dựng hai nhân vật Minerva và Colin một cách rất thành công. Minerva là một cô gái thông minh, mạnh mẽ và độc lập, còn Colin là một chàng trai quyến rũ, đào hoa nhưng cũng rất chân thành. Sự tương tác giữa họ vô cùng hài hước và đáng yêu. Cuốn tiểu thuyết cũng có những tình tiết phiêu lưu hấp dẫn, khiến người đọc không thể rời mắt. Những khó khăn và nguy hiểm mà họ gặp phải đã giúp họ hiểu nhau hơn và gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Nhìn chung, Bảy Ngày Phiêu Lãng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc dành cho những ai yêu thích thể loại lãng mạn hài hước. Một số ý kiến bổ sung Cuốn tiểu thuyết có những tình tiết hài hước, nhưng cũng không kém phần sâu lắng. Các nhân vật được xây dựng một cách chân thực và đáng yêu. Cốt truyện hấp dẫn, với những tình tiết bất ngờ. Kết luận Bảy Ngày Phiêu Lãng là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn hài hước, với những tình tiết hấp dẫn và nhân vật thú vị. Cuốn tiểu thuyết là một lựa chọn tuyệt vời dành cho những ai yêu thích thể loại này. Mời các bạn mượn đọc sách Bảy Ngày Phiêu Lãng của tác giả Tessa Dare.
Tiểu Thuyết Đàn Bà
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tiểu Thuyết Đàn Bà của tác giả Lý Lan. Đàn bà! Rõ ràng không phải một con báo. Không phải một con cọp. Cũng không phải một con vượn, mà là một con đàn bà. Người đàn ông đứng sững lại sau đám dây mây chằng chịt. Con đàn bà trần trụi. Tóc nó đen, dợn sóng, dài tới thắt lưng, xoã loà xoà quanh thân thể săn chắc ngăm ngăm nâu. Nó đang nhón gót vói tay hái một trái chuối chín bói trên cái quày chuối mà người đàn ông đã tìm thấy mấy hôm trước, và hôm nay trở lại với mục đích mà con đàn bà đó đang làm. Nó rướn mình giơ cả hai tay vói lên quày chuối, một tay bợ đít quày, một tay cầm trái chuối chín vàng xoay nhè nhẹ. Cuốn trái chuối còn xanh không chịu lìa nãi. Con đàn bà cứ rướn mình lên, day day trái chuối cho đến khi hái được. Nó xoay mình lại, nhìn thẳng về phía đám dây mây bao bọc người đàn ông. Phản ứng tức thì của ông ta là giật mình, co lại trong thế thủ. Tim ông đập loạn lên, vừa sợ vừa xấu hổ. Con đàn bà bình thản lột vỏ trái chuối và thong thả ăn. Nó hất tóc ra sau lưng, hơi uỡn ngực lên, hai vú căng và đứng. Từ thắt lưng cho đến quá đầu gối của con đàn bà được quấn một tấm vải thô màu lam, phần bắp chân lộ ra và bàn chân trần đứng vững chãi trên nền đất pha cát do con sông bồi những khi triều cường. Ánh sáng còn loáng thoáng trên mặt sông ẩn hiện sau cây cỏ ven bờ. Con đàn bà đang đứng nơi khá trống, nên người đàn ông nhìn rõ từng đường nét thân thể nó... “Chiến tranh nghĩa là phân ly, thù hận, chết chóc… Nghĩa là người ta đánh mất mình, bị giết hoặc không được sống để thương yêu. Người ta thất lạc nhau trong cuộc đời rộng lớn, hận thù rộng lớn. Người ta cũng có thể thất lạc nhau dưới cùng một mái nhà. Và thất lạc chính mình ngay trong cuộc đời của riêng mình. Đi tìm nhau và đi tìm chính mình, đó là những người đàn bà của Lý Lan trong Tiểu thuyết đàn bà”. *** Tôi đọc “Tiểu thuyết đàn bà” của Lý Lan vào một ngày nào đó của tuổi 20 trôi qua tựa một đám mây nhẹ xốp, không âu lo, không vướng bận. Rồi đọc lại “Tiểu thuyết đàn bà” vào sinh nhật tuổi 25, khi bạn đem cuốn sách gói trong những lớp giấy màu xanh đỏ và viết nắn nót mấy lời đề tặng. Bạn bảo: “Hãy đưa tay nắm lấy số phận của chính mình”. Tôi cười bạn sao mà… sến. 30 tuổi, lại đọc “Tiểu thuyết đàn bà” trong một lần dọn dẹp tủ sách cũ. Chợt nhớ ngày 20 tuổi, lần nào ngồi chải mái tóc dài cho con gái, mẹ cũng thở dài: “Làm thân đàn bà khổ lắm con ơi…”. Chợt nhớ ngày 25 tuổi vẫn kiêu kì trước những chàng trai trồng cây si trước cửa, bố lại lắc đầu nhắc khéo: “Già kén kẹn hom”. Và 30 tuổi, như một chớp mi dài. 10 năm và 3 lần tái ngộ, vậy mà có lẽ ta vẫn chưa hiểu hết “Tiểu thuyết đàn bà”…   “Tiểu thuyết đàn bà” - ngay cái tên sách đã là một thành công. Khó có thể kiếm cho tác phẩm này một cái tên nào hay hơn thế, ngắn gọn hơn thế và bao trọn nội dung câu chuyện hơn thế. Đây là một cuốn tiểu thuyết, và không gì khác, nó viết về đàn bà, bằng một ngòi bút “rất đàn bà”. Một cuốn tiểu thuyết có thể khiến cô gái 20 tuổi dửng dưng, cô gái 25 tuổi đau đầu, cô nàng 27 tuổi lướt qua một chút rồi quên bẵng, nhưng một người đàn bà 30 tuổi sẽ rất nhớ và rất “thấm”. Cuốn tiểu thuyết như một cây phả hệ đầy phức tạp và rối rắm, về 4 thế hệ đàn bà trong một gia đình. Băt đầu từ “bà ngoại” – một người đàn bà không tên đã sống non một thế kỷ cuộc đời nhưng chưa từng có ngày vui vì phải lo lắng cho 10 người con. Rồi đến những cô con gái, mỗi người một số phận, nhưng tựu trung lại đều không thoát khỏi chữ “bạc” của kiếp người. Đến đời những cô cháu gái, người ta lại gặp lại những “vết xe đổ”: Đen theo các cậu đi làm cách mạng rồi mất tích, Thoa bị tù Côn Đảo sau khi thất bại trong nhiệm vụ cách mạng, Liễu lấy phải một người chồng nhu nhược, mẹ chồng đối xử hà khắc và bị buộc phải xa đứa con trai, chỉ được ôm theo đứa con gái chưa đầy 8 tháng tuổi rời khỏi nhà chồng với hai bàn tay trắng...   Thế hệ phụ nữ thứ tư trong gia đình tưởng rằng sẽ “sáng sủa” hơn khi Không Bé xuất ngoại, lấy chồng Tây, nhưng dường như cái mệnh đề “làm đàn bà thì khổ” vẫn không ngừng đeo bám. Cô sống trong nỗi cô đơn nơi đất khách quê người, lạ lẫm với những khác biệt văn hóa và lạc lõng trong chính ngôi nhà của mình. "Tiểu thuyết đàn bà" đã nằm im lìm suốt 16 năm trong chồng bản thảo của nhà văn Lý Lan. Mãi đến năm 2001, khi sang Mỹ học, trong nỗi khắc khoải của người xa xứ, chị viết lại cuốn sách. Lý Lan đã từng nói về tác phẩm của mình: “Đây là một cuốn tiểu thuyết nói về chiến tranh, ở một mặt trận không có tiếng súng, đó là thành phố, nhưng thực chất là chiến tranh vẫn diễn ra hết sức khắc nghiệt…Trong cuộc chiến tranh đó, những nhân vật của tôi chỉ là những con người hết sức bình thường. Họ là đàn bà con gái nhưng không than thân trách phận, cũng không so bì, than vãn, biện bạch… Họ cứ sống giữa cuộc đời như vậy thật bình thường…”.   Và quả là một cuộc chiến đúng nghĩa. Cuộc chiến của Thoa chống lại những ám ảnh về một quá khứ đã lùi xa. Cuộc chiến của Liễu chống lại những hà khắc của người đời để bảo vệ con mình. Cuộc chiến của Không Bé chống lại thói gia trưởng và cục cằn của người đàn ông mang tên “chồng”… Và còn biết bao những thân phận phụ nữ khác nữa không được nhắc tên. Những người đàn bà đau khổ và bất hạnh, nhưng là những người đàn bà không cam chịu. Như lời của Thoa khuyên cô cháu gái Không Bé: “Mình phải tự quyết định cho dù số phận hay thế lực này nọ luôn áp đặt hay xô lệch con đường đời mình chọn”. Không phải những cô gái tuổi teen vẽ cuộc sống màu hồng, Lý Lan viết “Tiểu thuyết đàn bà” bằng cái “đằm” của một người phụ nữ từng trải, một người đàn bà có chồng. Bởi thế, người đọc không chỉ tìm thấy trong cuốn sách những thân phận đàn bà, những cuộc đời đầy sống động, mà còn thấy cả những triết lý sống, những đúc kết mà chỉ một ngòi bút “thuần đàn bà” mới có thể viết ra: “Giáo dục chỉ cho chúng ta những lớp áo quần để mặc trong xã hội. Ai cũng mặc quần áo trước mặt người khác, dù là cha mẹ, anh em, bè bạn thân thiết. Chỉ có vợ chồng mới trần truồng với nhau. Chỉ có vợ chồng mới biết bản chất của nhau!” - Quả rất đúng và rất “thấm”!   30 tuổi, đọc “Tiểu thuyết đàn bà”, có lẽ ta mới nghiệm hết lời chúc năm nao của bạn ngày sinh nhật - “Hãy đưa tay nắm lấy số phận của chính mình”. Và ta tin, dù 20 hay 30, dù là một cô gái phơi phới tuổi xuân hay một người đàn bà đã ủ những nếp nhăn nơi khóe mắt, chẳng bao giờ là muộn cho một cái nắm tay. Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Đàn Bà của tác giả Lý Lan.